Cách nay đúng 6 năm, tàu đỏ hoàn tất nhà máy thủy điện Tam hợp
Ngày 04
tháng 07, 2012
·
2012 – Tổ
máy cuối cùng của Nhà máy Điện Tam Hiệp chính thức phát điện lên mạng lưới,
công trình Đập Tam Hiệp trên Trường Giang hoàn
thành.
Đập Tam Hiệp
Đập Tam Hiệp
三峽大壩
Đập
Tam Hiệp năm 2006
Thông tin chung
Xây dựng
Chiều cao: 101 mét (331 ft)
Đập Tam Hiệp (phồn thể: 三峡大壩; bính âm: Chángjiāng Sānxiá Dàbà; Hán-Việt: Tam
Hiệp đại bá) chặn Trường Giang (sông dài thứ ba trên thế giới) tại Tam Đẩu Bình, Nghi
Xương, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc.
Việc xây dựng bắt đầu vào năm 1994. Nó là đập thủy điện lớn nhất thế giới. Hồ chứa nước của nó đã bắt đầu có nước
vào ngày 1 tháng 6 năm 2003, và sẽ
chiếm toàn bộ vị trí hiện tại của khu vực Tam Hiệp thơ mộng,
nằm giữa các thành phố Nghi Xương (tỉnh Hồ Bắc) và Bồi Lăng (thành phố Trùng Khánh).
Trùng Khánh (重庆) là một thành phố lớn ở Tây Nam Trung Quốc và là một trong bốn thành phố trực thuộc trung ương tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố trực thuộc
trung ương Trùng Khánh được hình thành vào ngày 14 tháng 3 năm 1997 khi nó tách
ra từ tỉnh Tứ Xuyên
Tứ Xuyên (tiếng Trung: 四川) là một tỉnh nằm ở tây nam của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tỉnh lị của Tứ Xuyên
là Thành Đô, một trung tâm kinh tế
trọng yếu của miền Tây Trung Quốc.
Trừ âu thuyền, dự án
này đã hoàn thành và vận hành đầy đủ các chức năng vào ngày 4 tháng 7 năm 2012, khi các tuốc-bin chính cuối cùng bắt đầu cho điện. Mỗi
tuốc-bin có công suất 700 MW. Thân đập được hoàn thành năm 2006. Ngoài 32 tuốc-bin
chính còn có 2 máy phát điện nhỏ hơn (mỗi máy 50 MW) phục vụ cho nhà máy,
tổng công suất phát điện của đập là 22.500 MW.
Giống như nhiều đập nước đang xây dựng
khác, dự án này cũng gây ra nhiều ý kiến trái ngược về sự đúng sai trong và
ngoài Trung Quốc. Các đề xuất xây dựng dựa vào các lợi ích kinh tế từ việc
kiểm soát ngập lụt và năng lượng từ thủy điện. Các ý kiến chống lại chủ yếu là
do các e ngại về tương lai của 1,9 triệu người sẽ phải di chuyển chỗ ở do mực
nước tăng lên, sự mất đi của nhiều địa điểm có giá trị khảo cổ học và văn hóa,
cũng như các tác động tới môi trường.
Các thông số chính
Đập tràn chính với khu phát điện và đập làm
nổi tàu ở bên phải
Đập làm nổi tàu ở bên trái, cống kép ở bên
phải
Quang cảnh dọc theo đập chính ở bên phải. Đập
phụ ở phía trước với đập nước cho tàu bè ngược dòng ở phía sau
Được làm từ bê tông và thép, đập có chiều dài 2.355m và đỉnh đập
cao 185 mét trên mực nước biển. Công trình đã sử dụng 27,2 triệu mét khối bê
tông (chủ yếu cho thành đập), 463.000 tấn thép (đủ xây 63 tháp
Eiffel, đào 102,6 triệu mét khối đất. Thành đập cao 181 mét so với nền đá.
Mực nước đập cao tối đa 175m trên mực nước biển, cao hơn mực
nước sông ở hạ nguồn 110 m, vùng hồ chứa có chiều dài trung bình khoảng
660 km và rộng 1,12 km. Vùng hồ chứa có thể tích 39,3 km3 và tổng
diện tích bề mặt nước 1045 km2. Khi hoàn thành, tổng diện tích đất bị ngập nước
của hồ là 632 km2, so với 1350 km2 diện tích bị ngập của Đập Itaipu.
Độ cao: 181 mét
Số người phải di chuyển: 2 triệu - có thể hơn
Chức năng: Kiểm soát lũ lụt, phát điện, cải thiện giao thông thủy
Tọa độ: 30,82679 độ vĩ bắc, 111,00727 độ kinh đông, độ cao địa hình:
75,00 mét (30°49′48″B 111°0′36″Đ)
Vị trí của đập Tam Hiệp và các thành phố
chính trên sông Dương Tử.
Mô hình đập
Bên cạnh đập là trung tâm tiếp đón có chứa mô hình của đập. Mô
hình này cung cấp tổng quan về kỹ thuật tốt nhất về dự án cho người xem. Từ chỗ
trưng bày này chỉ cần đi bộ rất ngắn ra ngoài đã dẫn tới một chỗ quan sát cao
để nhìn toàn bộ dự án.
Các nguồn kinh phí
1/ Quỹ xây dựng đập Tam Hiệp
4/ Các khoản vay từ các ngân hàng thương mại
trong nước và nước ngoài
5/ Trái phiếu công ty
Lịch sử dự án
Thời gian
xây dựng
b/ 1998-2003: các tổ
máy phát điện đầu tiên bắt đầu phát điện vào năm 2003, và cửa cống vĩnh cửu được
mở cho giao thông thủy trong cùng năm.
c/ 2004-2009: phần
cuối cùng của đập đã được xây xong vào ngày 20
tháng 5, 2006. Khi các bể chứa nước bắt đầu được bơm nước, nước lụt sẽ
bắt đầu chiếm chỗ các cộng đồng dân cư. Toàn bộ dự án sẽ hoàn thành vào năm
2009, khi tất cả 26 tổ máy phát (với công suất tổng cộng 18,2 GW) được
lắp xong, có thể phát ra 84,7 TWh điện mỗi năm, đáp ứng khoảng một phần ba
mươi nhu cầu tiêu thụ điện toàn quốc.
Đề xuất
và xây dựng dự án
Tôn Dật Tiên đã lần
đầu tiên xem xét kế hoạch xây dựng đập trên
sông Dương Tử vào năm 1919 để phát điện, nhưng ý tưởng này đã bị gác
lại do các hoàn cảnh và điều kiện chính trị cũng như kinh tế không thuận lợi.
Tôn Trung Sơn (chữ Hán: 孫中山; 12 tháng 11 năm 1866 – 12 tháng 3 năm 1925), nguyên danh là Tôn Văn (孫文), tự Tải Chi (載之), hiệu Nhật Tân (日新), Dật Tiên
(逸仙) là nhà cách mạng Trung Quốc, người đóng vai trò quan trọng trong cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911 lật đổ triều đại Mãn Thanh và khai
sinh ra Trung Hoa Dân Quốc.
Đến năm 1944, công trình nghiên cứu tiền khả thi đã được giao
cho một kỹ sư thành viên của Phòng Nông nghiệp Hoa Kỳ, tuy nhiên dự án này đã
bị bỏ dở vào năm 1947. Nguyên nhân chính thức được biết đến là vấn đề tài
chính, tuy nhiên trên thực tế là do những sự kiện gắn liền với cuộc cách mạng
giành chính quyền của những người cộng sản Trung Quốc. Các trận lụt lội lớn đã
làm sống lại ý tưởng này và chính quyền đã chấp thuận nó năm 1954 để kiểm soát
lụt lội. Về sau, dự án này được các chuyên gia Liên Xô (cũ) tiếp tục thực hiện
cho đến khi quan hệ ngoại giao giữa 2 nước bị rạn nứt. Trên thực tế, bắt đầu từ
1955, các nghiên cứu triển khai dự án đã được tiến hành liên tục.
Thứ trưởng Bộ điện lực Lý Duệ (李锐, Li Rui) đầu tiên cho rằng đập này cần phải đa mục đích, rằng
cần phải xây dựng các đập nhỏ hơn trước cho đến khi Trung Quốc có đủ năng lực
tài chính để có thể chịu được dự án tốn kém này và việc xây dựng cần được chia
thành nhiều giai đoạn để có thời gian giải quyết các vấn đề kỹ thuật, theo như
các nhà Trung Quốc học Kenneth Lieberthal và Michel Oksenberg.
Sau này, Lý Duệ kết luận rằng không nhất thiết phải xây dựng đập
này do nó quá tốn kém. Ông cũng bổ sung thêm rằng đập nước sẽ làm ngập lụt
nhiều thành thị và đất nông nghiệp màu mỡ, làm cho các vùng lưu vực trung và hạ
lưu sông Dương Tử bị ngập lụt thảm họa trong quá trình xây dựng và không giúp
ích nhiều cho vận tải thủy. Các quan chức tỉnh Tứ Xuyên cũng chống lại việc xây dựng do Tứ Xuyên
nằm ở thượng nguồn sẽ phải gánh chịu nhiều phí tổn trong khi tỉnh Hồ Bắc ở hạ
nguồn sẽ nhận được nhiều lợi ích.
Lâm Nhất Sơn (林一山, Lin
Yishan), chủ nhiệm văn phòng quy hoạch lưu vực Dương Tử, là người chịu trách
nhiệm của dự án thì lại cổ vũ cho việc xây dựng đập. Sự
lạc quan của ông về việc giải quyết các vấn đề kỹ thuật đã được đẩy đi xa hơn
vào năm 1958 do điều kiện chính trị thích hợp và sự ủng hộ của Chủ tịch nước khi
đó là Mao Trạch Đông, là người muốn Trung Quốc có
đập thủy điện lớn
nhất thế giới, theo Lieberthal và Oksenberg. Các phê phán đã bị cấm đoán, nhưng
sự trì trệ đã sinh ra từ cuộc Đại nhảy vọt đầy
thảm họa và đã kết thúc các công việc chuẩn bị vào năm 1960.
Mao Trạch Đông nghetrợ giúpchi tiết(Trung văn phồn thể: 毛澤東; giản thể: 毛泽东; bính âm: Máo Zédōng; 26 tháng 12 năm 1893 – 9 tháng 9 năm 1976), tự Nhuận Chi (潤之) ban đầu là Vịnh Chi (詠芝), sau đổi là Nhuận
Chi (潤芝, chữ "chi" 之 có thêm đầu chữ thảo 艹), bút danh: Tử Nhậm (子任). Ông là Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1943 đến khi qua đời.
Ý tưởng lại hồi sinh vào năm 1963 như một
phần của chính sách mới để xây dựng "mặt trận thứ ba" của công nghiệp
tại tây nam Trung Quốc. Nhưng Cách mạng văn hóa Trung Quốc đã nổ ra năm 1966 và
trong năm 1969 sự e ngại rằng đập có thể bị Liên Xô (khi đó bị coi là kẻ thù) phá hoại đã góp
phần trì hoãn việc xây dựng. Năm 1970, dự án
lại được tiếp tục trở lại với Cát Châu Bá, một đập nhỏ hơn về phía hạ lưu,
nhưng nó cũng nhanh chóng gặp phải các vấn đề kỹ thuật phức tạp và chi phí đã
vượt quá dự toán giống như đối với đập Tam Hiệp xét theo thang độ của từng công
trình.
Cải cách kinh tế bắt đầu năm 1978 đã nhấn
mạnh nhu cầu về điện năng để cung cấp cho các cơ sở công nghiệp đang lớn mạnh,
vì thế Quốc vụ viện Trung Quốc đã phê chuẩn việc xây dựng năm 1979. Nghiên cứu khả thi đã được tiến hành trong các năm 1982 - 1983 để xoa
dịu lượng người chỉ trích ngày càng tăng, những người cho rằng dự án này đã
không được dựa trên đầy đủ các nghiên cứu về kỹ thuật, xã hội hay môi trường.
Trong những năm thập niên 1980, người
Mỹ đã quay trở lại tham gia dự án. Các nghiên cứu khả thi tiếp theo đã được
tiến hành từ năm 1985 đến 1988 bởi
liên doanh Canada quốc tế của dự án quản lý sông Dương Tử, một côngxoócxiom của
5 hãng công nghệ Canada.
Theo Lieberthal và Oksenberg, các
lãnh đạo của Trùng
Khánh cũng
đột ngột yêu cầu là độ cao của đập cần nâng một cách đáng kể đến mức nó có thể
làm hỏng dự án và giải phóng họ khỏi gánh nặng của các chi phí. Độ cao mới và
yêu cầu về nghiên cứu tin cậy hơn bằng sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế đã sinh
ra nghiên cứu khả thi mới vào năm 1986.
Nhà sinh thái học, viện sĩ Hầu Học Dục (侯学煜, Hou Xueyu) là một trong số ít người từ chối không ký vào báo
cáo môi trường vì cho rằng nó đã báo cáo sai sự thật về các lợi ích môi trường
thu được nhờ đập này và đã đánh giá không đúng phạm vi ảnh hưởng tới môi trường
cũng như thiếu các giải pháp cụ thể cho các lo ngại về môi trường.
Những nhà hoạt động vì sinh thái môi trường trong nước và quốc
tế bắt đầu phản đối gay gắt hơn. Các luật gia về nhân quyền đã chỉ trích kế hoạch tái định cư. Các
nhà khảo cổ học cũng e
ngại do sự nhấn chìm của một lượng lớn các di tích lịch sử. Nhiều người đã nói
về việc mất đi của một trong những kỳ quan đẹp nhất thế giới.
Có không ít các kỹ sư tỏ ý không tin tưởng rằng đập thực sự sẽ
đạt được các mục đích đề ra. Nhà báo/kỹ sư
Đái Tình đã xuất bản cuốn sách gồm các chỉ trích nghiêm khắc của các nhà khoa
học Trung Quốc đối với dự án này. Tuy
thế rất nhiều công ty xây dựng nước ngoài vẫn tiếp tục thúc ép chính quyền của
họ ủng hộ về tài chính do việc xây dựng với hy vọng thắng thầu.
Phê chuẩn
dự án
Đập Tam Hiệp nhìn từ vệ tinh
Đối mặt với áp lực trong nước và quốc tế, Quốc vụ viện Trung Quốc vào tháng 3 năm 1989 đã đồng
ý hoãn kế hoạch xây dựng này lại trong 5 năm. Tuy nhiên, sau sự kiện Thiên An Môn 1989, chính
quyền đã cấm các tranh cãi về con đập này, kết tội các chỉ trích của nước ngoài
là thiển cận hay có ý đồ làm suy yếu chính quyền cũng như bắt giam Đái Tình và nhiều người chỉ trích khác.
Thủ tướng Lý Bằng đã vận động cho việc xây dựng đập này và
đưa nó đến quyết định cuối cùng tại Đại hội Đại
biểu Nhân dân Toàn quốc Trung Quốc vào tháng 4 năm 1992 mặc dù
1/3 số đại biểu bỏ phiếu trắng hoặc bỏ phiếu chống.
Lý Bằng (chữ Hán giản thể: 李鹏; phồn thể: 李鵬; latin hóa: Li Peng) sinh ngày 20 tháng 10 năm 1928 là Thủ tướng thứ tư của Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa từ năm 1987 đến năm 1998; Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc từ năm 1998 đến năm 2003.
Đây là sự kiện chưa từng có tiền lệ từ cơ quan mà thông thường
rất nhanh chóng thông qua các đề nghị của chính phủ. Quyết định xây dựng công
trình đập Tam Hiệp được chính thức thông qua tại phiên họp Quốc hội Trung Quốc
vào ngày 3 tháng 4 năm 1992 với 1.767 phiếu thuận, 177 phiếu chống và 664 phiếu
trắng.
Việc tái định cư được tiến hành ngay sau đó và những sự chuẩn bị
về vật chất đã bắt đầu năm 1994. Trong
khi chính phủ tập trung thu hút công nghệ, dịch vụ, tài chính từ phía nước
ngoài thì các lãnh đạo lại dành cho các hãng Trung Quốc công nghệ và các hợp
đồng xây dựng.
Các vụ bê bối tham
nhũng đã gây
nhiều điều tiếng đối với dự án này. Người ta cho rằng các nhà thầu đã thắng
thầu nhờ đút lót và sau đó đã bớt xén thiết bị và vật liệu
để rút bóp các quỹ dành cho xây dựng.Người ta đồn rằng chủ tịch tập đoàn phát triển kinh tế Tam Hiệp đã mua bán các công việc tại công ty ông
ta, rút các khoản tiền từ các khoản vay có liên quan đến dự án và biến mất vào tháng 5 năm 2000. Các viên chức của Uỷ ban
tái định cư Tam Hiệp đã bị
bắt vì tội tham ô các quỹ của chương trình tái định cư vào tháng 1 năm 2000.
Nhiều hạng mục trong dự án có chất lượng tồi tệ đến mức thủ
tướng Chu Dung
Cơ đã phải
ra lệnh bỏ đi vào năm 1999 sau khi một loại các tai nạn lớn đã xảy ra,
bao gồm cả sập cầu.
Chu Dung Cơ (tiếng Hán: 朱镕基; phanh âm: Zhū
Róngjì; Wade-Giles: Chu Jung-chi) là Thủ tướng thứ năm của Quốc vụ viện nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa từ năm 1998 đến 2003.
Chu Dung Cơ, một người đã từng chỉ trích dự án này rất gay gắt,
thông báo rằng các quan chức có "một núi trách nhiệm trên đầu họ".
Cùng thời gian này, các rạn nứt đáng kể đã xuất hiện trong đập. Để bù đắp lại
các chi phí xây dựng, các quan chức của dự án đã lặng lẽ thay đổi kế hoạch vận
hành đã được thông qua bởi Quốc hội là làm đầy hồ chứa nước sau 6 năm chứ không
phải 10 năm. Để phản ứng lại, 53 kỹ sư và viện sĩ đã kiến nghị với Chủ tịch Giang Trạch Dân hai lần
vào nửa đầu năm 2000 để làm chậm việc làm đầy hồ chứa nước cũng
như việc tái định cư dân chúng trong vùng cho đến khi các nhà khoa học có thể
xác định có hay không việc hồ chứa nước cao hơn gây ra các vấn đề về trầm tích. Tuy
nhiên, việc xây dựng vẫn cứ được tiếp tục tiến hành.
Giang Trạch Dân (chữ Anh : Jiang Zemin, chữ Trung phồn thể : 江澤民, chữ Trung giản thể : 江泽民, bính âm :
Jiāng Zémín, sinh ngày 17 tháng 08 năm 1926), quê quán sinh trưởng tổ tiên của ông ở trấn Giang
Loan, huyện Vụ Nguyên, tỉnh Giang Tây , nhưng ông ra đời ở thành phố cấp quận Dương Châu, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc nội địa.
Tranh cãi xung
quanh đập này
Khu vực xây dựng đập Tam Hiệp, phía hạ lưu, 26 tháng 7 năm 2004
Chi phí
Thông báo chính thức cho rằng dự án này sẽ tiêu tốn trong phạm
vi 25 tỷ USD tiền ngân sách và cho rằng dự án có thể tự trang trải nhờ phát
điện. Tuy nhiên, người ta cho rằng dự án này chi phí nhiều hơn tất cả các dự án
xây dựng khác trong lịch sử, với ước tính không chính thức là 75 tỷ USD hoặc
cao hơn. Cũng lưu ý rằng con số ước tính này ($75 tỷ) đã loại bỏ các
khoản tham nhũng, các tổn thất trong hủy diệt đất trồng trọt, tái định cư dân
chúng cũng như các tổn thất môi trường.
Tăng
chênh lệch giàu nghèo
Các chỉ trích coi con đập chủ yếu để phục vụ cho lợi ích của các
nhà công nghiệp phần bờ biển phía đông do ở đây họ có nhu cầu cao về điện năng.
Không may là điều này lại dựa trên phí tổn của hàng triệu người đã bị đưa ra
khỏi những vùng đất trồng trọt chủ yếu. Góp phần làm cho tình hình xấu hơn là
các đền bù tái định cư không hợp lý (do các quan chức tham nhũng đã bớt xén các
khoản này), số lượng người tái định cư về tổng thể là không ước tính được cũng
như các khu đất mới của họ là xấu hơn.
Môi
trường
Thủy điện là một nguồn năng lượng có thể hồi phục được mà không sinh
ra các chất thải, mặc dù có những chứng cứ mới cho rằng các đập nước có thể
sinh ra một lượng lớn cacbon điôxít và một khối lượng đáng kể khí mêtan1 do các hoạt động của vi sinh vật trong các
hồ chứa nước.
Các đập nước theo bản chất tự nhiên của chúng làm biến đổi hệ sinh thái và đe
dọa một số loài sinh vật trong khi lại hỗ trợ cho một số loài khác. Cá heo sông Dương Tử là một ví dụ đang trên đà tuyệt chủng và sẽ
bị mất môi trường sinh sống do con đập này.
Một hình ảnh minh họa của cá heo sông Trường
Giang
Cá heo sông Dương Tử hay còn được gọi là Nữ thần sông
Trường Giang (giản thể: 长江女神; phồn thể: 長江女神; bính âm: Cháng Jiāng nǚshén; danh pháp hai phần: Lipotes vexillifer) hay Cá heo vây trắng là một loài cá heo sông đặc hữu, được phân
bố tại khu vực hạ lưu sông Dương Tử, Trung Quốc.
Trong khi việc chặt hạ cây cối của khu vực để xây dựng làm tăng
khả năng xói mòn thì việc ngăn chặn các trận lũ lụt không kiểm soát được sẽ làm
giảm xói mòn trong một chu kỳ dài hơn.
Khu vực
văn hóa và cảnh quan thiên nhiên
Hồ chứa nước dài 600 km (370 dặm) sẽ làm ngập khoảng 1.300
địa chỉ khảo cổ và tiêu diệt vẻ đẹp huyền thoại của Tam Hiệp. Các di tích văn
hóa và lịch sử đã phát hiện đang được di chuyển tới những vùng đất cao hơn
nhưng ngập lụt của Tam Hiệp sẽ bao phủ nhiều di tích tiềm ẩn chưa phát hiện ra.
Giao
thông thủy
Việc đưa vào sử dụng các cửa cống tàu bè có thể sẽ làm tăng vận
tải đường sông từ 10 đến 50 triệu tấn hàng năm, với chi phí vận chuyển giảm
khoảng 30 - 37%. Vận tải thủy cũng sẽ an toàn hơn, do các hẻm núi này đã rất
lừng danh trong lịch sử về độ nguy hiểm cho vận tải. Các chỉ trích thì cho rằng
lượng bùn lớn sẽ lấp đầy các cảng chẳng hạn Trùng
Khánh trong
vài năm dựa trên cơ sở các chứng cứ từ các dự án đập nước khác.
Kiểm soát
ngập lụt
Hồ chứa nước dung tích 22 km³ (28,9 tỷ khối theo thước Anh)
sẽ làm giảm tần suất các trận ngập lụt lớn từ một lần trong 10 năm xuống còn 1
lần trong 100 năm. Nhưng các chỉ trích thì tin rằng sông Dương Tử sẽ bổ sung
thêm trung bình khoảng 530 triệu tấn bùn vào hồ trên một năm và nó sẽ nhanh
chóng không còn tác dụng trong việc ngăn chặn lũ lụt. Việc
tăng thêm trầm tích vào hồ có thể làm tăng mức nước lũ vốn đã cao tại Trùng
Khánh.
Tổ chức Probe
International cho rằng đập nước này không có tác dụng
ngăn chặn lũ lụt, do bị mất đi các cánh rừng trong lưu vực sông Dương Tử cũng
như sự mất đi của 13.000 km² hồ (có tác dụng làm giảm bớt đi sự ngập lụt)
do bùn lầy hóa, cải tạo và các phát triển không kiểm soát được.
Các rủi
ro tiềm ẩn
Việc xây dựng đập được báo cáo là có chất lượng kém, với các vết
nứt lớn đã xuất hiện trong thân đập vào năm 2000, đã dẫn đến các chỉ trích
trong tiên tri các thảm họa tiềm ẩn tương tự như đối với đập Bản Kiều năm
1975.
Trong báo cáo hàng năm [20] tới Quốc hội Hoa Kỳ, Bộ quốc phòng Mỹ cho
rằng những người Đài Loan là "những người đề xuất các cú đánh
vào đại lục dường như hy vọng rằng các đe dọa đối với dân cư đô thị Trung Quốc
hay các mục tiêu có giá trị như đập Tam Hiệp sẽ làm giảm bớt sự áp bức quân sự
của người Trung Quốc." Ý nghĩ cho rằng giới quân sự Đài Loan có thể tìm
cách tiêu hủy đập Tam Hiệp đã gây ra phản ứng giận dữ từ các phương tiện thông
tin đại chúng của đại lục. Tướng Liu Yuan của Giải phóng quân nhân dân đã phát biểu [21] trên China Youth Daily rằng giải phóng quân nhân dân cần
"nghiêm túc trong việc bảo vệ chống lại những đe dọa từ những kẻ khủng bố
Đài Loan". Mặc dù có tuyên bố của thứ trưởng quốc phòng Đài Loan Thái Minh Hiền về sự ngược lại, phần lớn các nhà phân tích
cho rằng người Đài Loan không có khả năng mà cũng không tìm kiếm các công nghệ
để ném bom đập Tam Hiệp vì những đe dọa của Bắc Kinh về việc đáp trả bằng lực lượng quân sự áp
đảo.
rong tháng 9 năm 2004 Thời
báo Trung Quốc (China
Daily) thông báo rằng một lực lượng vũ trang lớn đã được triển khai tại khu vực
này để chống lại cuộc tấn công khủng bố có thể xảy ra nhưng
không nói rõ về những kẻ muốn tấn công đập.
[b][color=red]Ở đây có hai rủi ro đã được thống nhất xác định
đối với đập2; đó là
mô hình trầm tích vẫn chưa được kiểm tra kỹ và đập này nằm trên đứt gãy địa
chấn. Trầm tích quá nhiều có thể che lấp các cửa xả nước, và nó có thể gây tổn
hại cho đập trong một số tình huống. Đây chính là nguyên nhân gây ra sự cố của đập Bản Kiều năm 1975 đã làm
hỏng 61 đập nước khác và gây ra cái chết của hơn 200.000 người. Ngoài ra, trọng
lượng của đập và hồ chứa nước về lý thuyết có thể sinh ra địa chấn cảm ứng, giống
như đã xảy ra với đập Katse ở Lesotho.[/color][/b]
Vương quốc Lesotho (phiên âm tiếng Việt: Lê-xô-thô; tiếng Sotho: Muso oa Lesotho; tiếng Anh: Kingdom of Lesotho) là một quốc gia
tại cực Nam châu Phi. Nó nằm hoàn toàn bên
trong nước Cộng hòa Nam Phi và là một thành viên của khối Thịnh vượng chung Anh.
Truyền tải điện
năng
Phân phối điện năng của nhà máy thủy điện Tam Hiệp sẽ không chỉ
nằm trong giới hạn của Hệ
thống lưới điện trung tâm Trung Quốc (bao trùm các tỉnh Hà Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam, và Giang Tây).
gọi tắt là Dự (豫), đặt tên
theo Dự châu, một châu thời Hán. Tên gọi Hà Nam có nghĩa
là phía nam Hoàng Hà
Hồ Bắc (tiếng Trung: 湖北; bính âm: Húběi [nghe]trợ giúpchi tiết, tiếng Vũ Hán: Hŭbě) là một tỉnh ở miền
trung của Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa. Giản xưng chính thức của tỉnh
Hồ Bắc là "Ngạc" (鄂), lấy theo tên một nước
chư hầu thời xưa, sau trở thành đất thuộc nước Sở và nhà Tần, nay nằm ở phía đông của
tỉnh. Tên Hồ Bắc ám chỉ về vị
trí của tỉnh này nằm ở phía bắc của hồ Động Đình
Hồ Nam (tiếng Trung: 湖南; bính âm: Húnán; nghetrợ giúpchi tiết) là một tỉnh của Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa, nằm ở khu vực trung-nam của quốc gia. Hồ Nam nằm ở phía nam của trung du Trường Giang và phía nam của hồ Động Đình (vì thế mới có tên gọi là Hồ Nam).
Giang Tây (tiếng Trung: 江西; bính âm: Jiāngxītrợ giúpchi tiết; Wade–Giles: Chiang1-hsi1;
Gan: Kongsi) là một tỉnh nằm ở đông nam Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa. Giang Tây trải dài từ bờ Trường Giang ở phía bắc đến các khu vực cao hơn ở phía nam và phía
đông, tỉnh có ranh giới giáp với An Huy ở phía bắc, Chiết Giang ở phía
đông bắc, Phúc Kiến ở phía
đông, Quảng Đông ở phía nam, Hồ Nam ở phía tây, và Hồ Bắc ở phía tây bắc.
Thay vì điều này, điện năng cũng sẽ được truyền tải về phía tây
tới Trùng
Khánh và lưới điện Tứ Xuyên cũng như theo các tuyến khác về khu vực bờ
biển phía đông và đông nam.
Trong khi điện năng được truyền tải tới Trùng Khánh và Tứ Xuyên
thông qua hệ thống đường dây 500 kV AC thì
công nghệ HVDC (điện
cao thế một chiều) sẽ được sử dụng cho việc phân phối về phía đông. Hai tuyến
truyền tải có công suất lớn là HVDC Tam
Hiệp-Trường Châu và HVDC Tam Hiệp-Quảng Đông, sẽ
truyền tải điện năng về phía đông (tới khu vực Thượng Hải) và phía nam (tới
tỉnh Quảng Đông).
Sản xuất
điện hàng năm
Năm | Số lượng tổ máy | GWh
2003 | 6 |
8.607
2004 | 11 | 39.155
2004 | 11 | 39.155
2005 | 14 |
49.090
2006 | 14 |
49.250
2007 | 21 |
61.600
2008 | 26 |
80.812
2009 | 26 |
79.470
2010 | 26 |
84.370
2011 | 29 |
78.290
2012 | 32 |
98.100
Tổng cộng|
29(32) | 628.744
Đập Tam Hiệp - Đập thủy điện lớn nhất thế giới
[url] https://www.youtube.com/watch?time_continue=1&v=07jzROMCA4w[/url]
No comments:
Post a Comment