Cách nay 56 năm, Nelson Mandela bi cảnh sát bắt giữ với lời
buộc tội kích động đình công và phải vào tù.
Ngày 05
tháng 08, 1962
·
1962 – Nelson
Mandela bị cảnh sát bắt giữ với lời buộc tội kích động đình công
và ra nước ngoài khi chưa được phép, ông phải ở trong tù cho đến năm 1990.
Nelson Mandela
Nelson
Mandela vào năm 2008
Chức vụ
Nhiệm kỳ 10 tháng 5 năm
1994 – 14 tháng 6 năm 1999
Nhiệm kỳ 3 tháng 9 năm
1998 – 14 tháng 6 năm 1999
Thông tin chung
Học sinh trường Đại học Fort Hare
Đại học London External System
Đại học Nam Phi
Đại học Witwatersrand
Đại học London External System
Đại học Nam Phi
Đại học Witwatersrand
Chữ ký
Nelson Rolihlahla Mandela (phát
âm tiếng Xhosa: [xoˈliɬaɬa manˈdeːla]), 18 tháng 7 năm 1918 - 5 tháng 12 năm 2013)là Tổng thống Nam Phi từ năm 1994 đến 1999, và là tổng thống Nam Phi đầu
tiên được bầu cử dân chủ theo phương thức phổ thông đầu phiếu.
Trước khi trở thành tổng thống, Mandela là
nhà hoạt động chống chủ nghĩa apartheid (chủ nghĩa phân biệt chủng tộc), và là người đứng
đầu Umkhonto we Sizwe, phái vũ trang của Đảng Đại hội Dân tộc Phi
(ANC: African National Congress).
Vào năm 1962 ông bị bắt giữ và bị buộc
tội phá hoại chính trị cùng các tội danh khác, và bị tuyên án tù chung
thân. Mandela đã trải qua 27 năm trong lao tù, phần lớn thời gian là ở
tại Đảo Robben.
Sau khi được trả tự do vào ngày 11 tháng 2
năm 1990, Mandela đã lãnh đạo đảng của ông trong cuộc thương nghị để tiến tới
một nền dân chủ đa sắc tộc vào năm 1994. Trong nhiệm kỳ tổng thống của mình từ
năm 1994 đến 1999, Mandela thường ưu tiên cho vấn đề hòa giải dân tộc.
Mandela là một nhân vật gây tranh cãi trong suốt cuộc đời
của ông. Mặc dù các nhà phê bình cánh hữu đã tố cáo ông là một kẻ khủng bố theo cộng sản và
những người cánh tả cực đoan cho rằng ông quá nhiệt tình đàm phán và hòa giải
với những người ủng hộ chế độ phân biệt chủng tộc, ông đã nhận được sự hoan
nghênh tầm quốc tế vì những hoạt động của ông.
Được coi là biểu tượng của dân chủ và công bằng xã hội, Mandela đã nhận hơn 250 giải thưởng trong hơn bốn thập niên, trong đó có Giải Nobel Hòa bình vào năm 1993.
Huy chương Giải Nobel
Thơ ấu
Photograph of Mandela, taken in Umtata in
1937
Nelson Mandela thuộc chi nhỏ nhất của dòng họ phong kiến Thembu, trị vì các lãnh thổ Transkei thuộc tỉnh Cape của
Nam Phi. Ông
sinh ra tại Mvezo, một ngôi làng nhỏ thuộc
huyện Umtata, thủ phủ của Transkei. Ông
cố ruột Ngubengcuka của
ông (mất năm 1832) đã trị vì với danh hiệu Inkosi Enkhulu, tức là
vua của người Thembu.
Một trong những con trai của nhà vua, có tên là Mandela,
chính là ông nội của Nelson và đây chính là nguồn gốc họ Mandela của ông.
Tuy nhiên, vì ông là con trai của Inkosi với
một người vợ thuộc bộ tộc Ixhiba
(gọi là "Tả gia"), các
con cháu thuộc chi này tuy vẫn thuộc Hoàng gia nhưng không bao giờ được thừa kế
ngai vàng Thembu.
Cha của Nelson Mandela, Gadla Henry Mphakanyiswa, là
người đứng đầu bộ lạc ở thị trấn Mvezo. Tuy
vậy, do không được chính quyền thuộc địa vừa lòng, Mphakanyiswa bị tước chức và
cả gia đình bị chuyển đến Qunu. Dù vậy, Mphakanyiswa vẫn là thành viên Hội đồng Cơ mật của Inkosi,
và đóng vai trò là người hỗ trợ cho Jongintaba Dalindyebo lên ngôi quốc vương
Thembu. Dalindyebo sau này đã trả ơn ông bằng cách nhận nuôi Mandela sau khi
Mphakanyiswa chết.
Cha của Mandela có bốn bà vợ, sinh tổng cộng 13 người con (bốn
trai, chín gái). Mandela
là con của bà vợ thứ ba, Nosekeni Fanny. Fanny là con của Nkedama thuộc bộ tộc
Mpemvu Xhosa, thuộc về nhà Hữu gia, là vùng đất nơi Mandela đã trải qua phần
lớn thời thơ ấu. Tên
của ông Rolihlahla có nghĩa là "kéo cành cây", hay
một cách thông tục, có nghĩa là "kẻ gây rối".
Rolihlahla Mandela là người đầu tiên trong gia
đình được đi học, tại đó cô giáo Mdingane đã đặt cho ông một cái tên tiếng Anh
là "Nelson".
Lúc Mandela lên chín, cha ông qua đời vì bệnh lao phổi, quan
nhiếp chính Jongintaba trở thành người giám hộ hợp pháp của ông. Mandela
đi học trường truyền giáo thuộc Hội Giám lý nằm kế bên lâu đài của quan nhiếp
chính. Theo phong tục của người Thembu, ông được thụ giáo lúc 16 tuổi, rồi đi
học Học viện Clarkebury Boarding. Mandela
đã hoàn tất Bằng sơ trung học chỉ trong vòng hai năm, thay vì ba năm như thông
thường.
Để chuẩn bị thừa kế vị trí thành viên Hội đồng Cơ mật của cha
mình, năm 1937, Mandela chuyển đến trường
Healdtown, ngôi trường tại Fort Beaufort, nơi
hầu hết con cháu hoàng tộc Thembu đều đi học. Vào
lúc 19 tuổi, ông bắt đầu quan tâm đến bộ môn quyền anh và chạy bộ tại trường.
Sau đó, ông đậu vào học bằng Cử nhân tại Trường Đại học Fort Hare, nơi
ông đã gặp Oliver Tambo. Tambo
và Mandela sau này là những người bạn và đồng nghiệp thân thiết. Mandela cũng
kết bạn với người bà con Kaiser ("K.D.")
Matanzima, người thuộc dòng trực hệ của Hữu gia của người Thembu, là
người thừa kế ngai vàng Transkei, vì
vai trò mà sau đó đã đưa ông đến với chính sách Bantustan. Chính
sự ủng hộ chính sách này của ông và Mandela đã khiến hai người trở thành phe
chính trị đối lập. Cuối
năm thứ nhất, Mandela tham gia vào vụ tẩy chay của Hội sinh viên nhằm
chống lại quy định của trường đại học, và bị buộc phải rời trường Fort Hare không
được trở lại chừng nào ông chưa chấp nhận cuộc bầu cử của vào Hội. Sau
này, lúc ở trong tù, Mandela đã học bằng Cử nhân luật của Chương
trình đào tạo từ xa của Đại học Luân Đôn.
Một thời gian ngắn sau khi rời Fort Hare, Jongintaba đã thông
báo với Mandela và Justice (con của quan nhiếp chính và là người thừa kế ngai
vàng) rằng ông đã sắp xếp đám cưới cho cả hai người. Những thanh niên trẻ không
vừa lòng với sự sắp đặt này, và quyết định chuyển đến sống ở Johannesburg. Khi
đến Johannesburg, Mandela xin một chân canh gác tại một khu mỏ. Tuy
nhiên, ông chủ lập tức đuổi việc Mandela khi hay rằng ông là con nuôi đang chạy
trốn của Quan nhiếp chính. Mandela chuyển sang làm tập sự ở một công ty luật ở
Johannesburg, Witkin, Sidelsky và Edelman, nhờ quen biết với một người bạn và
người hướng dẫn, nhân viên địa ốc Walter Sisulu. Khi
làm việc tại hãng Witkin, Sidelsky và Edelman, Mandela đã hoàn tất tấm bằng Cử
nhân hàm thụ của Trường Đại học Nam Phi, sau
đó ông học luật tại Trường Đại
học Witwatersrand, tại đó ông kết bạn tới bạn học và sau này là đồng chí chống
chủ nghĩa apartheid của ông Joe Slovo, Harry Schwarz và Ruth First. Slovo
sau này là Bộ trưởng Bộ cư trú, còn Schwarz là Đại sứ Nam Phi tại Hoa Kỳ. Trong
thời gian này, ông sống tại thành phố ngoại ô Alexandra, phía
bắc Johannesburg.
Hoạt động chính trị
Sau chiến thắng của Đảng Quốc gia, ủng
hộ chính sách phân biệt chủng tộc apartheid của
những người Afrikaner,
Mandela bắt đầu tham gia tích cực vào hoạt động chính trị. Ông đã lãnh đạo rất
thành công trong Chiến dịch Phản đối của ANC năm 1952 và Đại hội Nhân dân năm
1955, từ đó thông qua Hiến chương Tự do là nền tảng cơ bản cho
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa apartheid. Trong
thời gian này, Mandela và luật sư đồng nghiệp Oliver Tambo điều
hành một công ty luật có tên là Mandela và Tambo, nhận
bào chữa miễn phí hoặc giá rẻ cho nhiều người da đen thiếu luật sư đại diện.
Mahatma Gandhi có ảnh hưởng lớn đến cách
thức đấu tranh của Mandela, và cả phương pháp dành thắng lợi của các nhà hoạt
động chống chủ nghĩa apartheid các thế hệ sau. Mandela
đã từng tham dự một hội nghị diễn ra tại New Delhi từ ngày 29-30 tháng 1 năm
2007 đánh dấu 100 năm ngày Gandhi đưa ra thuyết satyagraha (phản
kháng bất bạo động) tại Nam Phi.
Mahātmā Gāndhī (2 tháng 10 năm 1869 – 30 tháng 1 năm 1948), nguyên tên đầy đủ là Mohandas Karamchand Gandhi
(Devanagari: मोहनदास करमचन्द गांधी; Gujarati: મોહનદાસ કરમચંદ ગાંધી), là anh hùng dân tộc Ấn Độ, đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân
của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ của hàng
triệu người dân.
Ban đầu, khi kiên trì đường lối đấu tranh bất bạo động, Mandela và 150 người khác bị
bắt giam vào ngày 5 tháng 12 năm 1956 và bị buộc tội phản quốc. Sau quá trình
xét xử kéo dài từ năm 1956-1961, tất cả các bị cáo đều được tuyên trắng án. Từ
năm 1952–1959, xuất hiện một lực lượng các nhà hoạt động da đen mới được gọi là
những người Toàn Phi đã cản trở các hoạt động của ANC ở khu vực thành phố của
người da đen, lực lượng này đòi hỏi phải có các biện pháp quyết liệt hơn nhằm
chống lại chế độ của Đảng Quốc gia. Những
nhà lãnh đạo ANC lúc bấy giờ là Albert Luthuli, Oliver Tambo và Walter Sisulu không
những cho rằng những người Toàn Phi đang đi quá đà mà còn cảm thấy quyền lãnh
đạo của họ đang bị đe dọa. Vì
thế cánh lãnh đạo của ANC đã củng cố vị thế của mình bằng cách liên minh với
các đảng phái chính trị nhỏ của những người Da trắng, Da màu, lẫn Da đỏ nhằm
tranh thủ lôi kéo rộng rãi số người ủng hộ hơn phái Toàn Phi. Những
người Toàn Phi nhạo báng Hiến chương Tự do trong Hội nghị tại
Kliptown năm 1955 vì đảng ANC với số lượng thành viên áp đảo 100.000 người mà
chỉ có được một phiếu trong liên minh Đại hội.
Bốn trong năm tổng thư ký của các đảng phái tham gia đại hội đều
đã ngầm tham gia Đảng Cộng sản Nam Phi (SACP:
South African Communist Party) tái
cơ cấu, gắn liền với chính sách của Moskva. Đến
năm 2003 Blade Nzimande, Tổng
thư ký SACP, tiết lộ rằng Walter Sisulu, Tổng
thư ký của đảng ANC, cũng đã bí mật gia nhập SACP vào năm 1955 có
nghĩa là cả năm Tổng thư ký đều là người của SACP và do đó giải thích lý do tại
sao Sisulu quyết định đưa vai trò của ANC từ vai trò chi phối xuống thành một
trong năm bên ngang vai nhau.
Trong năm 1959, ANC mất phần lớn sự ủng hộ từ lực lượng chiến đấu
khi phần lớn những người Toàn Phi, với sự hỗ trợ tài chính từ Ghana và
chính trị từ những người Sotho tại tỉnh Transvaal, đã ly khai để thành lập Đại hội Toàn Phi (PAC)
dưới sự lãnh đạo của Robert Sobukwe và Potlako Leballo.[30]
Hoạt động
chống Chủ nghĩa Apartheid
Vào năm 1961, Mandela trở thành người đồng sáng lập và là lãnh
đạo cánh vũ trang của ANC, Umkhonto we Sizwe (tạm
dịch Cây giáo của Quốc gia, cũng viết tắt là MK).[31] Ông
điều hành các chiến dịch phá hoại chống lại các mục tiêu quân sự và
của chính quyền, lên kế hoạch cho một cuộc chiến tranh du kích nếu phương cách phá hoại
vẫn không chấm dứt được chế độ apartheid.[32] Mandela
cũng quyên tiền cho MK ở nước ngoài và sắp xếp các buổi huấn luyện bán quân sự cho nhóm.[32]
Người đồng chí trong đảng ANC Wolfie Kadesh giải thích chiến
dịch đánh bom do Mandela dẫn dắt như sau:
"Khi chúng tôi biết rằng chúng tôi sẽ bắt đầu vào ngày 16
tháng 12 năm 1961, nhằm làm nổ tung những vị trí là biểu tượng của chủ nghĩa
apartheid, như văn phòng giấy thông hành, tòa án địa phương, và những nơi tương
tự... bưu điện và... các văn phòng chính phủ. Nhưng chúng tôi dự định thực hiện
điều đó sao cho không có ai bị thương vong."[33]
Mandela đã nói về Wolfie: "Kiến thức về chiến tranh và kinh
nghiệm trận mạc của ông là cực kỳ hữu ích đối với tôi."
Mandela đã xem bước chuyển sang đấu tranh vũ trang là phương kế
cuối cùng; nhiều năm trời với chính sách đàn áp và bạo lực ngày càng tăng của
chính quyền đã cho ông thấy sự phản kháng bất bạo động chống chủ nghĩa
apartheid nhiều năm qua đã không và cũng không thể thu được tiến triển nào.[34]
Sau này, chủ yếu vào thập niên 1980, MK đã tiến hành chiến tranh
du kích chống lại chế độ apartheid với nhiều thương vong là dân thường.[32] Mandela sau này thừa nhận
rằng ANC, trong cuộc chiến đấu chống lại apartheid, cũng vi phạm quyền con
người, chỉ trích thẳng thừng những đảng viên trong đảng ông cố gắng đưa những
câu chữ phản ánh sự thật ra khỏi báo cáo của Ủy ban Sự
thật và Hòa giải.[35]
Cho đến tận tháng 7 năm 2008, Mandela và các đảng viên ANC vẫn
bị hạn chế đi đến Hoa Kỳ - ngoại trừ trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Manhattan —
nếu không có giấy phép cho phép đặc biệt của Ngoại trưởng Hoa Kỳ, vì họ
bị quy là khủng bố trong
thời kỳ chế độ apartheid ở Nam Phi.[36][37]
Bị bắt
giữ và phiên tòa Rivonia
Ngày 5 tháng 8 năm 1962 Mandela bị bắt sau khi ẩn náu được 17
tháng, và giam giữ tại Pháo đài Johannesburg.[38] Vụ
bắt giữ này xảy ra do Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa
Kỳ (CIA) đã tiết lộ nơi ẩn náu và nhân dạng giả của Mandela cho an ninh.[39][40][41] Ba
ngày sau đó, người ta đã đọc lời buộc tội ông chủ mưu kêu gọi công nhân đình
công vào năm 1961 và vượt biên bất hợp pháp tại tòa. Ngày 25 tháng 10 năm 1962,
Mandela bị tuyên án 5 năm tù giam. Hai năm sau vào ngày 11 tháng 6 năm 1964,
ông lại phải ra tòa một lần nữa vì những hoạt động trong Hội đồng Quốc gia châu
Phi (ANC).[42]
Trong lúc Mandela đang trong tù, cảnh sát đã bắt giữ nhiều lãnh
đạo cốt cán của ANC vào ngày 11 tháng 7 năm 1963, tại Liliesleaf Farm, Rivonia, phía
bắc Johannesburg. Mandela được ghép vào xét xử chung, và tại Phiên tòa Rivonia, họ bị
chánh án, Tiến sĩ Percy Yutar, cáo
buộc nhiều tội danh trong đó chủ yếu là phá hoại (Mandela thừa nhận tội này) và
các tội tương đương với phản quốc, nhưng
chính quyền dễ chứng minh hơn.[43] Lời
buộc tội thứ hai cáo buộc các bị cáo âm mưu một cuộc xâm lược của ngoại quốc
vào Nam Phi, Mandela phủ nhận tội danh này.[43]
Trong lời phát biểu tại ghế bị cáo mở đầu phiên biện hộ trong
phiên tòa ngày 20 tháng 4 năm 1964 tại Tòa án Tối cao Pretoria,
Mandela đã nói rằng việc ANC lựa chọn sử dụng vũ lực chỉ là một sách lược mà
thôi.[44] Lời
phát biểu của ông đã mô tả ANC đã sử dụng các biện pháp hòa bình như thế nào để
chống lại chủ nghĩa apartheid trong nhiều năm trời cho đến khi xảy ra vụ Thảm sát Sharpeville.[45] Sự
kiện đó đi kèm với cuộc trưng cầu dân ý để thành lập Cộng hòa Nam Phi và sự
tuyên bố tình trạng khẩn cấp cùng với việc cấm chỉ
hoạt động của ANC đã khiến cho Mandela và các đồng chí của ông thấy rằng lựa
chọn duy nhất của họ chỉ có thể thông qua các hành động phá hoại, nếu không
chẳng khác nào một sự đầu hàng vô điều kiện.[45]
Mandela tiếp tục giải thích cách họ hình thành Tuyên ngôn Umkhonto we Sizwe vào
ngày 16 tháng 12 năm 1961 dự kiến sẽ phô bày sự thất bại của các chính sách của
Đảng Quốc gia sau khi nền kinh tế bị đe dọa cho những người ngoại quốc không
còn sẵn lòng đầu tư vào đất nước nữa.[46] Ông
kết thúc bài phát biểu bằng những lời sau đây:
"Tôi cống hiến cả đời tôi cho sự nghiệp đấu tranh của người
dân châu Phi. Tôi đã chiến đấu chống lại sự thống trị của người da trắng, và tôi
cũng chiến đấu chống lại sự thống trị của người da đen. Tôi yêu mến lý tưởng về
một xã hội dân chủ và tự do trong đó mọi người dân sống với nhau hòa thuận và
bình đẳng. Đó là lý tưởng mà tôi hy vọng sẽ sống vì nó và đạt được nó. Nhưng
nếu cần, tôi cũng sẵn sàng chết vì lý tưởng đó."[34]
Bram Fischer,
Vernon Berrange, Harry Schwarz, Joel Joffe, Arthur Chaskalson và George Bizos là
các luật sự bảo vệ cho bên bị.[47] Harold Hanson cũng
được bổ sung vào cuối phiên tòa để giúp giảm nhẹ tội danh.[48] Tất
cả mọi người trừ Rusty Bernstein đều bị tuyên là có tội, nhưng họ thoát khỏi án
treo cổ mà bị tuyên tù chung thân vào ngày 12 tháng 6 năm 1964.[48] Lời
buộc tội gồm có tham gia lên kế hoạch hành động vũ trang, cụ thể là bốn cáo
buộc phá hoại, mà Mandela thừa nhận, và một âm mưu chính trị trợ
giúp nước ngoài xâm lược Nam Phi, tội này bị Mandela phủ nhận.[48]
Thời gian
trong tù
Phòng giam của Nelson Mandela trên Đảo Robben
Nelson Mandela bị giam giữ tại Đảo
Robben và đã ở đấy 18 năm trong tổng số 27 năm trong tù của ông.[49] Khi ở trong tù, ông dần
dần trở nên nổi tiếng với vai trò là nhà lãnh đạo da đen đáng chú ý nhất tại
Nam Phi.
Ở trên đảo, ông và các tù nhân khác phải lao động khổ sai ở một
mỏ đá vôi.[50] Điều
kiện sống trong tù rất cơ bản. Tù nhân cũng bị phân chia theo sắc tộc và tù
nhân da đen là những người nhận được lượng thực phẩm ít nhất.[51] Tù chính trị được
giam giữ riêng biệt với thường phạm và được hưởng ít quyền lợi hơn.[52] Mandela
đã mô tả rằng, do bị xếp vào tù nhân nhóm D (hạng thấp nhất) ông chỉ được phép
có một người khách viếng thăm và nhận một lá thư mỗi sáu tháng.[53] Những
lá thư thường bị trễ khá lâu và rất khó đọc do chế độ kiểm duyệt trong nhà tù.
Lúc ở trong tù Mandela đã tham gia khóa học từ xa của Đại học
Luân Đôn và nhận bằng Cử nhân Luật.[54] Ông sau đó được đề cử
làm Hiệu trưởng danh dự của
Đại học Luân Đôn trong cuộc bình chọn năm 1981, nhưng vị trí này đã thuộc
về Công chúa Anne.[54]
Anne, Công chúa Hoàng gia KG KT GCVO (Anne Elizabeth Alice Louise, sinh vào ngày 15 tháng 8 năm 1950), là con thứ hai và con gái duy nhất của Nữ hoàng Elizabeth II và Hoàng tế Philip,
Công tước xứ Edinburgh.
Trong cuốn hồi ký Inside BOSS xuất bản năm 1981[55] điệp
viên Gordon Winter đã kể về việc ông này tham gia kế hoạch giải cứu Mandela vào
năm 1969: kế hoạch này bị Winter tiết lộ thay mặt cho cơ quan tình báo Nam Phi,
họ muốn Mandela trốn thoát để họ có thể xử bắn ông khi tìm bắt lại. Kế hoạch
này đã bị Cơ quan Tình báo Anh chặn đứng.[55]
Vào tháng 3 năm 1982 Mandela được chuyển từ Đảo Robben
sang Nhà tù Pollsmoor, cùng
với các nhà lãnh đạo ANC khác như Walter Sisulu, Andrew Mlangeni, Ahmed Kathrada và Raymond Mhlaba.[53]
Đã có suy đoán rằng đây là cách để xóa bỏ sức ảnh hưởng của các
nhà lãnh đạo cấp cao này đối với thế hệ những nhà hoạt động da đen trẻ đang bị
giam tại Đảo Robben, cái gọi là "Trường Đại học Mandela".[56] Tuy nhiên, Thủ
tướng Kobie Coetsee thuộc Đảng Quốc gia nói
rằng việc chuyển trại này giúp cho việc liên hệ giữa họ và chính quyền Nam Phi
được thuận tiện hơn.[57]
Tháng 2 năm 1985 Tổng thống P.W. Botha đề
nghị trả tự do cho Mandela với điều kiện ông phải 'từ bỏ phương cách đấu tranh
chính trị bằng bạo lực một cách vô điều kiện'.[58] Coetsee
và các bộ trưởng khác phản đối đề xuất của Botha, cho rằng Mandela sẽ không bao
giờ yêu cầu tổ chức của ông từ bỏ đấu tranh vũ trang để đổi lấy sự tự do cho cá
nhân mình.[59] Đúng
là Mandela đã bác bỏ đề xuất và đưa ra lời tuyên bố thông qua cô con gái Zindzi
trong đó nói rằng "Thứ tự do đang được đề nghị cho tôi là cái gì trong khi
tổ chức của nhân dân vẫn bị cấm đoán? Chỉ có những người tự do mới có thể
thương lượng mà thôi. Một tù nhân không thể tham gia vào một thỏa hiệp nào
hết."[57]
Cuộc gặp đầu tiên giữa Mandela và chính quyền Đảng Quốc gia diễn
ra vào tháng 11 năm 1985, khi Kobie Coetsee gặp gỡ Mandela tại Bệnh viện Volks
Hospital ở Cape Town nơi Mandela đang tịnh dưỡng sau cuộc
phẫu thuật tuyến tiền liệt.[60] Trong
bốn năm sau đó, một loạt các cuộc gặp mang tính thăm dò đã diễn ra, làm nền
tảng cho các cuộc tiếp xúc và thương lượng về sau, nhưng tiến bộ thực sự thì
không nhiều.[57]
Cape Town (tiếng Afrikaans: Kaapstad,
tiếng Xhosa: iKapa) là thành
phố đông dân thứ nhì Nam Phi và đồng
thời là một bộ phận của khu vực đại đô thị thành phố Cape Town. Cape Town là
thủ phủ của tỉnh Tây Cape và đóng
vai trò là thủ đô lập pháp của Nam Phi.
Vào năm 1988 Mandela được chuyển đến Nhà tù Victor Verster và
ở đó cho đến khi ông được phóng thích. Người ta đã dỡ bỏ nhiều hạn chế đối với
ông và những người như Harry Schwarz đã
có thể tự do thăm viếng ông. Schwarz, một người bạn của Mandela, biết ông từ
khi họ học chung lớp luật ở trường đại học. Ông này cũng là luật sư biện hộ cho
Mandela tại Phiên tòa Rivonia và sau này là đại sứ tại Washington khi
Mandela làm tổng thống.
Trong suốt thời kỳ Mandela bị giam giữ, đã có nhiều áp lực ở
trong cũng như ngoài nước đòi chính quyền Nam Phi phải trả tự do cho ông, với
khẩu hiệu nổi tiếng Free Nelson Mandela! (Hãy thả Nelson
Mandela)[61]
Đến năm 1989, Nam Phi có sự chuyển biến khi Botha bị đột quỵ
và Frederik Willem de Klerk thay
thế vào vị trí tổng thống.[62] De Klerk tuyên bố thả tự
do cho Mandela vào tháng 2 năm 1990.[63]
Frederik Willem de Klerk (18 tháng 3 năm 1936, Johannesburg -) là một
nhà chính trị Nam Phi, từng làm
tổng thống Nam Phi và là người phá bỏ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Apartheid.
Mandela đã được Ủy hội Chữ thập đỏ Quốc tế viếng thăm vài lần
khi ông còn ở Đảo Robben và sau này ở nhà tù Pollsmoor. Mandela đã nói về những
chuyến thăm viếng như sau: "với cá nhân tôi, và với những ai đã từng trải
qua thời gian là tù chính trị, Hội chữ thập đỏ là một tia sáng nhân đạo trong
thế giới tăm tối thiếu nhân tính của nhà tù chính trị."[64][65]
Trả tự do
Ngày 2 tháng 2 năm 1990, Tổng thống
Quốc gia F.W. de Klerk đã hủy lệnh cấm hoạt động đối với Đảng ANC
và các tổ chức chống chủ nghĩa apartheid khác, đồng thời thông báo Mandela sẽ
sớm được trả tự do.[66] Mandela
được trả tự do từ Nhà tù Victor Verster ở Paarl vào ngày 11 tháng 2 năm
1990. Sự kiện này được phát hình trực tiếp trên khắp thế giới.[67]
Vào ngày được phóng thích, Mandela đã có một bài diễn văn gửi
đến toàn quốc.[68] Ông tuyên bố cam kết hòa
bình và hòa giải với những người da trắng thiểu số trong nước, nhưng nói rõ
rằng cuộc đấu tranh vũ trang của ANC vẫn chưa chấm dứt khi ông nói "phương
sách đấu tranh vũ trang vào năm 1960 khi chúng tôi hình thành phái quân sự
trong ANC (Umkhonto we Sizwe) đơn
thuần là hành động tự vệ chống lại sự tàn bạo của chủ nghĩa apartheid. Các yếu
tố đưa đến cuộc đấu tranh vũ trang đến nay vẫn hiển diện. Chúng tôi không có sự
lựa chọn nào khác ngoài việc phải tiếp tục. Chúng tôi bày tỏ hy vọng một không
khí có lợi cho một cuộc thương lượng sẽ sớm được tạo ra, để nhu cầu đấu tranh
vũ trang không còn nữa."
Ông cũng nói rằng tập trung chính của ông là mang lại hòa bình
cho những người da đen đa số và cho họ quyền bỏ phiếu trong những cuộc bầu cử
cấp quốc gia lẫn địa phương.[68]
Thương
thuyết
Tổng thống de Klerk và Mandela trong Đại hội
Kinh tế Thế giới tại Davos năm 1992
Sau khi được trả tự do, Mandela trở lại làm lãnh đạo ANC, rồi từ
năm 1990 đến 1994, ông lãnh đạo đảng này trong cuộc thương lượng đa đảng dẫn
tới cuộc bầu cử đa sắc tộc đầu tiên trong nước.[69]
Năm 1991, ANC tổ chức hội nghị toàn quốc đầu tiên của mình ở Nam
Phi sau khi được dỡ bỏ lệnh cấm, hội nghị đã bầu Mandela làm Chủ tịch
(President) của tổ chức. Người bạn và người đồng nghiệp lâu năm của ông, Oliver
Tambo, người lãnh đạo tổ chức lưu vong khi Mandela còn ở trong tù, trở thành
Chủ tịch Quốc gia (National Chairperson).[70]
Vai trò lãnh đạo của Mandela trong cuộc thương thuyết, cũng như
mối quan hệ của ông với Tổng thống F.W. de Klerk, đã được thừa nhận khi họ cùng
được trao Giải Nobel Hòa bình năm 1993. Tuy nhiên, mối
quan hệ này thỉnh thoảng trở nên căng thẳng, cụ thể như trong một phát biểu nảy
lửa vào năm 1991 khi ông nói De Klerk là người cầm đầu một "chế độ không
hợp pháp, mất uy tín, gồm toàn những người thiểu số". Cuộc thương thuyết
có lần đã đổ vỡ do vụ thảm sát Boipatong tháng
6 năm 1992, khi đó Mandela cùng đoàn đại biểu của ANC bước ra khỏi cuộc thương
thuyết, cáo buộc chính quyền De Klerk đồng lõa với các vụ giết chóc.[71] Tuy
nhiên, những cuộc hội đàm đã được tiếp diễn sau vụ thảm sát Bisho tháng
9 năm 1992, khi bóng ma bạo lực khiến cho người ta nhận thấy hội đàm là cách
duy nhất để tiến tới một giải pháp.
Sau vụ ám sát nhà lãnh đạo ANC Chris Hani tháng
4 năm 1993, lại dấy lên sự sợ hãi đất nước sẽ lại tan vỡ trong bạo lực.[72] Mandela
đã gửi thông điệp toàn quốc yêu cầu mọi người bình tĩnh, trong bài phát biểu
với vai trò 'tổng thống' dù khi đó ông chưa phải là tổng thống thực sự. Mandela
nói rằng "tối nay tôi đang nói với từng người Nam Phi, cả đen lẫn trắng,
những lời nói xuất phát từ sâu thẳm lòng mình. Một người da trắng đầy thành
kiến và căm giận đã đến đất nước chúng ta và thực hiện một hành vi sai lầm đến
mức khiến cả nước phải đối mặt với vực thẳm khủng hoảng. Một người phụ nữ da
trắng, gốc Afrikan, đã liều mạng sống của bà để chúng ta có thể biết đến, và
mang lại sự công bằng cho vụ ám sát này. Vụ giết người máu lạnh nhằm vào Chris
Hani đã tạo một làn sóng rung chuyển đất nước và thế giới... Giờ đây đã đến lúc
mọi người dân Nam Phi sát cánh cùng nhau để chống lại bất cứ hành vi nào nhằm
phá hủy những gì Chris Hani đã cống hiến cả đời ông cho nó – sự tự do cho tất
cả chúng ta".[73] Dù
đã có một số vụ bạo loạn xảy ra sau vụ ám sát, các bên thương lượng vẫn tích
cực hành động, và sớm thỏa thuận một cuộc bầu cử dân chủ diễn ra vào ngày 27
tháng 4 năm 1994, chỉ hơn một năm sau vụ ám sát Hani.[57]
Thời kỳ làm Tổng thống
Nam Phi
Cuộc bầu
cử đa sắc tộc đầu tiên ở Nam Phi với quyền bỏ phiếu được
trao cho tất cả mọi người đã diễn ra vào ngày 27 tháng 4 năm 1994. ANC giành
được 62% số phiếu bầu, và Mandela, với vai trò là lãnh đạo ANC, đã nhậm chức
làm Tổng thống da đen đầu tiên của Nam Phi vào ngày
10 tháng 5 năm 1994, de Klerk của Đảng Quốc gia là phó tổng thống thứ nhất và Thabo
Mbeki là phó tổng thống thứ hai trong Chính phủ
Thống nhất Quốc gia.
Với vị trí là Tổng thống từ tháng 5 năm 1994 cho đến tháng 6 năm
1999, Mandela đã chủ trì sự chuyển giao từ quyền lực của thiểu số và chủ nghĩa
apartheid, giành được sự tôn trọng của quốc tế đối với những nỗ lực hòa giải
quốc gia và thế giới của ông.[75] Mandela
đã khích lệ những người Nam Phi da đen ủng hộ cho đội Springbok (đội
tuyển rugby quốc gia Nam Phi) trước đây bị dân chúng ghét bỏ khi Nam Phi tổ
chức Cúp Rugby Thế giới 1995.[76] Sau
khi Springbok giành chiến thắng trong trận chung kết trước New Zealand, Mandela
đã trao cúp vô địch cho đội trưởng Francois Pienaar, một
người Afrikan, trên người mặc chiếc áo đấu Springbok với con số 6 của Pienaar
sau lưng. Hành động này được xem là bước tiến lớn của sự hòa giải giữa người
Nam Phi da trắng và da đen.[77]
Sau khi nhậm chức tổng thống, một trong những dấu hiệu đặc trưng
của Mandela là chiếc áo Batik của
ông, còn được biết đến với cái tên "Áo Madiba",
kể cả trong những sự kiện long trọng.[78] Trong hành động
quân sự đầu tiên sau thời kỳ apartheid của Nam Phi,
Mandela đã ra lệnh cho quân đội xâm nhập lãnh thổ Lesotho vào
tháng 9 năm 1998 để bảo vệ chính quyền của Thủ tướng Pakalitha Mosisili.
Vương quốc Lesotho (phiên âm tiếng Việt: Lê-xô-thô; tiếng Sotho: Muso oa Lesotho; tiếng Anh: Kingdom of Lesotho) là một quốc gia
tại cực Nam châu Phi. Nó nằm
hoàn toàn bên trong nước Cộng hòa Nam Phi và là một thành viên của khối Thịnh vượng
chung Anh.
Bethuel Pakalitha Mosisili (14 tháng 3 năm 1945) là chính trị gia, hiện đang là thủ tướng mới đắc cử
của Lesotho. Trước đây, ông cũng từng giữ
chức thủ tướng nhiệm kỳ từ tháng 5 năm 1998 đến tháng 6 năm 2012.
Vụ việc này diễn ra sau một cuộc bỏ phiếu gây tranh cãi trong đó
lực lượng phản đối đã đe dọa đến chính quyền thiếu ổn định này.[79] Những nhà bình luận và
phê bình trong đó có cả các nhà hoạt động vì AIDS như Edwin Cameron đã
chỉ trích Mandela vì sự thiếu hiệu quả của chính quyền ông trong việc ngăn chặn
cuộc khủng hoảng AIDS.[80][81] Sau
khi nghỉ hưu,
Mandela thừa nhận rằng ông đã thất bại vì đã không chú ý nhiều hơn đến bệnh
dịch HIV/AIDS.[82][83] Mandela
từ đó đã có một số bài phát biểu chống lại bệnh dịch AIDS.[84][85]
Vụ xử
Lockerbie
Tổng thống Mandela có sự quan tâm đặc biệt trong việc giúp đỡ
giải quyết tranh cãi kéo dài giữa một bên là quốc gia Lybia dưới thời Gaddafi, còn bên kia là Hoa Kỳ và Anh, đối với
việc mang ra xét xử hai người Lybia bị truy tố vào tháng 11 năm 1991 và bị buộc
tội phá hoại Chuyến bay 103 của Pan Am, khiến
nó rơi tại thị trấn Lockerbie của
Scotland ngày 21 tháng 12 năm 1988, làm cho 270 người thiệt mạng.[86] Từ
đầu năm 1992, Mandela đã có lời đề nghị không chính thức gửi tới Tổng
thống George H.W. Bush yêu cầu xét xử hai nghi
phạm Lybia tại quốc gia thứ ba. Bush tỏ ra tán thành đề nghị này, cả Tổng
thống François Mitterrand của Pháp và Vua Juan Carlos I của Tây Ban Nha cũng
vậy.[87] Vào tháng 11 năm 1994 –
sáu tháng sau khi ông đắc cử tổng thống – Mandela chính thức đề nghị Nam Phi
nên là nơi diễn ra phiên
toàn xét xử vụ đánh bom Chuyến bay 103 của Pan Am.[88]
Tuy nhiên, Thủ tướng Anh John
Major thẳng thừng từ chối ý tưởng này nói rằng chính phủ Anh
không tin tưởng vào tòa án nước ngoài.[89] Đến
ba năm sau, Mandela một lần nữa lại gửi lời đề nghị đến người kế nhiệm
Major, Tony Blair, khi ông có chuyến viếng thăm Luân Đôn vào
tháng 7 năm 1997. Cuối năm đó, tại Cuộc họp những người đứng đầu chính phủ của
khối Thịnh vượng chung năm 1997 tại Edinburgh tháng
10 năm 1997, Mandela đã cảnh báo:
"Không thể có một quốc gia vừa là nguyên cáo, vừa là bên
nguyên lẫn quan tòa."
Cuối cùng đã có một thỏa hiệp để tổ chức phiên tòa ở Trại quân sự Zeist ở
Hà Lan, xét xử theo Luật Scotland, và
Tổng thống Mandela bắt đầu thương thuyết với Đại tá Gaddafi để dẫn độ hai bị cáo (Megrahi và Fhimah) vào
tháng 4 năm 1999.[90] Sau
phiên tòa kéo dài 9 tháng, phán quyết đã được công bố vào ngày 31 tháng 1 năm
2001. Fhimah được tuyên trắng án, nhưng
Megrahi bị buộc tội và phải lãnh 27 năm tù trong một nhà tù ở Scotland. Kháng
cáo lần đầu của Megrahi đã bị bác vào tháng 3 năm 2002, và cựu tổng thống
Mandela đã đến thăm người này tại nhà tù
Barlinnie vào ngày 10 tháng 6 năm 2002.
'Megrahi hoàn toàn cô độc', Mandela nói trong cuộc họp báo nhỏ
trong phòng thăm viếng của nhà tù. 'Anh ta không có ai để nói chuyện cả. Đây là
sự hành hạ về tâm lý mà một người đàn ông phải chịu đựng trong suốt thời gian
dài chịu án hoàn toàn một mình. Sẽ công bằng hơn nếu anh ta được chuyển đến một
quốc gia Hồi giáo — và có nhiều quốc gia Hồi giáo mà phương Tây tin tưởng. Nó
sẽ giúp gia đình anh dễ viếng thăm anh hơn nếu anh ở một nơi như vương quốc
Maroc, Tunisia hay Ai Cập.'[91]
Megrahi sau đó được chuyển đến nhà tù Greenock và không còn
bị biệt giam nữa.[92] Tháng 8 năm 2009,
Megrahi, sau khi được chẩn đoán bị ung thư và chỉ còn sống được 3 tháng, đã
được trả tự do trong một đợt ân xá và được phép trở về Libya. Quỹ Nelson
Mandela đã ủng hộ quyết định ân xá cho Megrahi trong một bức thư gửi tới Chính
quyền Scotland thay mặt cho Mandela.[93]
Hôn nhân và gia
đình
Mandela đã kết hôn ba lần, và có sáu con, 20 đứa cháu và số chắt
thì ngày càng tăng. Ông là ông nội của Tù trưởng Mandla Mandela.[94]
Cuộc hôn
nhân đầu tiên
Cuộc hôn nhân đầu tiên của Mandela là kết hôn với Evelyn Ntoko
Mase người cũng như Mandela, xuất thân từ nơi về sau gọi là vùng Transkei của
Nam Phi, mặc dù thực ra họ gặp nhau tại Johannesburg.[95] Hai người chia tay vào
năm 1957 sau 13 năm chung sống, ly dị vì sự căng thẳng do ông thường xuyên vắng
nhà, dành quá nhiều thời gian cho công cuộc cách mạng, và một phần do bà là tín
đồ Chứng nhân Jehovah, một tôn giáo đòi hỏi một sự
trung lập về chính trị.[96] Evelyn
Mase chết năm 2004.[97] Hai người có với nhau hai
con trai, Madiba Thembekile (Thembi) (1946–1969) và Makgatho Mandela (1950–2005),
và hai con gái, cả hai đều có tên Makaziwe Mandela (được
biết đến với tên Maki; sinh 1947 và 1953). Đứa con gái đầu chết lúc 9 tháng
tuổi, và họ đặt tên đứa con gái thứ hai theo
tên cô con gái đầu lòng.[98] Các
con của họ đều đi học Trường Thế
giới Thống nhất ở Waterford Kamhlaba.[99] Thembi
chết trong tai nạn xe hơi năm 1969 ở tuổi 25, khi Mandela đang bị giam giữ tại
Đảo Robben, và Mandela không được phép tham dự lễ tang.[100] Makgatho
chết vì bệnh AIDS năm 2005, khi 54 tuổi.[101]
Cuộc hôn
nhân thứ hai
Người vợ thứ hai của Mandela, Winnie
Madikizela-Mandela, cũng xuất thân từ vùng Transkei, mặc dù hai người cũng gặp
nhau tại Johannesburg, nơi bà là công chức da đen đầu tiên của thành phố.[102] Họ
có hai con gái, Zenani (Zeni), sinh ngày 4 tháng 2 năm 1958 và Zindziswa
(Zindzi) Mandela-Hlongwane, sinh năm 1960.[102]Zindzi chỉ
mới 18 tháng tuổi khi cha cô bị giam tại nhà tù Đảo Robben. Sau này, Winnie
phải chịu mối bất hòa trong gia đình, phản ảnh cuộc xung đột chính trị của đất
nước; khi chồng bà đang chịu án chung
thân ở Đảo Robben, còn cha bà lại làm bộ trưởng nông nghiệp ở
Transkei.[102] Cuộc
hôn nhân kết thúc bằng một cuộc ly thân rồi ly dị, được kích thêm từ mối bất
hòa về chính trị.[103]
Mandela vẫn mòn mỏi trong tù khi con gái ông Zenani kết hôn
với Hoàng thân Thumbumuzi
Dlamini năm 1973, anh trai của Vua Mswati III của Swaziland.[104] Mặc
dù bà có ấn tượng sâu sắc về cha mình, nhà chức trách Nam Phi không cho phép bà
thăm ông từ khi bà 4 tuổi cho đến lúc bà 16 tuổi.[105] Hai
vợ chồng Dlamini sinh sống và kinh doanh tại Boston.[106] Một trong hai đứa con
trai của họ, Hoàng tử Cedza Dlamini (sinh
năm 1976), được giáo dục tại Hoa Kỳ, đã đi theo bước chân của ông ngoại làm một
người ủng hộ cho quyền con người và trợ giúp nhân đạo.[106]
Zindzi Mandela-Hlongwane đã làm nên lịch sử trên toàn thế giới
khi bà đọc bài diễn văn của Mandela từ chối lời đề nghị tha bổng có điều kiện
vào năm 1985. Bà là nữ doanh nhân tại Nam Phi với ba con, đứa đầu lòng là con
trai, Zondwa Gadaffi Mandela.[107]
Cuộc hôn
nhân thứ ba
Mandela đã tái giá vào sinh nhật lần thứ 80 của ông năm 1998,
với Graça Machel nhũ
danh Simbine, góa phụ của Samora Machel, cựu
tổng thống Mozambique và là đồng minh của ANC bị chết trong
vụ rơi máy bay 12 năm trước đó.[108] Cuộc
hôn nhân là kết quả của hàng tháng trời thương thảo ở cấp quốc tế để đặt ra đồ
sính lễ chưa từng có trong lịch sử để được rút khỏi bộ tộc của Machel. Một thỏa
thuận miệng đã được thực hiện bởi nhà vua truyền thống đại diện cho Mandela,
Vua Buyelekhaya Zwelibanzi Dalindyebo.[109] Ông nội của thủ lĩnh tối
cao là quan nhiếp chính Jongintaba Dalindyebo, người đã sắp xếp cuộc hôn nhân
cho Mandela, đã lảng tránh bằng cách trốn sang Johannesburg vào
năm 1940.
Mandela hiện vẫn còn ngôi nhà tại Qunu do đứa cháu trai nối dõi
của ông quản lý, hiện ông vẫn trả tiền học phí và giữ quyền ủy viên hội đồng.[110]
Nghỉ hưu
Mandela là Tổng thống đắc cử lớn tuổi nhất của Nam Phi khi ông
nhậm chức ở tuổi 75 vào năm 1994. Ông đã quyết định không cầm quyền nhiệm kỳ
thứ hai và nghỉ hưu vào năm 1999, người kế nhiệm ông là Thabo
Mbeki.
Thabo Mvuyelwa Mbeki (phát âm Xhosa: [tʰaɓɔ mbɛːk'i]; sinh 18 tháng 6 năm
1942) là một chính trị gia Nam Phi trong chín năm làm Tổng thống Nam Phi thứ hai trong giai đoạn hậu phân biệt chủng tộc của Nam Phi từ ngày 14 tháng 6 năm 1999 đến 24 tháng 9 năm 2008.
Ngày 20 tháng 9 năm 2008, với khoảng chín tháng còn lại trong nhiệm kỳ
thứ hai, Mbeki tuyên bố từ chức sau khi bị kỷ luật do Ban chấp hành Quốc gia
của ANC[
Sau khi rời ghế Tổng thống, Mandela tiếp tục đóng vai trò tích
cực trong nhiều tổ chức xã hội và vì quyền con người. Ông biểu lộ sự ủng hộ
phong trào Make Poverty History (Biến
đói nghèo thành dĩ vãng) mà trong đó Chiến dịch ONE là
một bộ phận.[111] Giải
golf gây quỹ Khách mời Nelson Mandela,
do Gary Player chủ
trì, đã thu được hơn 20 triệu rand cho
các quỹ vì trẻ em từ lúc bắt đầu năm 2000.[112]
Mandela cũng là người ủng hộ cho Làng trẻ em SOS, tổ chức chuyên quyên tiền
giúp đỡ trẻ em mồ côi và bị bỏ rơi lớn nhất thế giới.[113] Mandela cũng xuất hiện
trong một đoạn quảng cáo cho Thế vận hội mùa đông 2006, và đã
được trích dẫn trong chiến dịch Chúc mừng nhân loại của Ủy ban Olympic Quốc tế:[114]
For seventeen days, they are roommates.
For seventeen days, they are soulmates. And for twenty-two
seconds, they are competitors. Seventeen days as equals. Twenty-two seconds as
adversaries. What a wonderful world that would be. That's the hope I see in the
Olympic Games.
Tạm dịch:
Trong mười bảy ngày, chúng ta là bạn hữu.
Trong mười bảy ngày, chúng ta là tâm giao. Và trong mười hai
giây, chúng ta là đối thủ. Mười bảy ngày bình đẳng. Mười hai giây đối địch. Thế
giới như thế mới tuyệt vời làm sao. Đó là niềm hy vọng mà tôi thấy được trong
Thế vận hội.
Sức khỏe
Tháng 7 năm 2001 Mandela được chẩn đoán bệnh ung thư tuyến tiền liệt và tiến hành chữa trị.
Ông được xạ trị trong 7 tuần.[115] Năm 2003, Mandela bị CNN
thông báo nhầm là đã chết khi bản cáo phó viết sẵn của ông (cùng với vài yếu
nhân khác) do sơ suất đã hiển thị trên website của CNN vì lỗi bảo vệ mật khẩu.[116] Vào
năm 2007, một nhóm cánh tả không chính thống đã phổ biến email và tin nhắn SMS
giả mạo nói rằng nhà chức trách đang giấu giếm cái chết của Mandela và những
người Nam Phi da trắng sẽ bị tàn sát sau tang lễ của ông. Mandela lúc đó đang
đi nghỉ tại Mozambique.[117]
Tháng 6 năm 2004, ở tuổi 85, Mandela thông báo rằng ông sẽ không
tham gia các hoạt động công cộng nữa. Sức khỏe của ông dần giảm sút, và ông
muốn có nhiều thời gian hơn với gia đình. Mandela nói rằng không định cách ly
hoàn toàn khỏi công chúng, nhưng muốn mình ở vị thế "sẽ gọi cho các bạn để
hỏi xem tôi có được chào đón hay không, chứ không phải được mời làm các thứ và
tham dự các sự kiện nữa. Lời thỉnh cầu của tôi là: Đừng gọi cho tôi, tôi sẽ gọi
cho các bạn."[118] Từ
năm 2003, ông ít xuất hiện trước công chúng hơn và ít phát ngôn trước các vấn
đề.[119] Tóc ông bạc trắng và ông
di chuyển chậm chạp với sự hỗ trợ của gậy. Cũng có báo cáo là ông đang bị chứng
mất trí nhớ của người già.[120]
Sinh nhật lần thứ 90 của Mandela đã được tổ chức ở nhiều nơi
khắp đất nước ngày 18 tháng 7 năm 2008, lễ mừng chính được tổ chức tại quê nhà
Qunu của ông.[121]Một
buổi hòa nhạc vinh danh ông cũng được tổ chức tại Hyde Park, Luân Đôn.[122] Trong
buổi diễn văn kỷ niệm sinh nhật của mình, Mandela kêu gọi những người giàu hãy
giúp đỡ người nghèo trên khắp thế giới.[121] Mặc dù vẫn ít xuất hiện
trong suốt kỳ World Cup 2010 tại Nam Phi, Mandela cũng xuất hiện tại buổi bế
mạc, tại đó ông đã được "chào đón nhiệt liệt".[123]
The
Elders
Ngày 18 tháng 7 năm 2007, Nelson Mandela, Graça Machel,
và Desmond Tutu tụ họp một nhóm các nhà lãnh đạo thế
giới tại Johannesburg để đóng góp sự hiểu biết và khả năng lãnh đạo độc lập để
giải quyết các vấn đề khó khăn nhất trên thế giới. Nelson Mandela thông báo lập
nên một nhóm mới, The Elders, trong
một bài diễn văn nhân sinh nhật lần thứ 89 của mình.[124]
Tổng giám mục Tutu làm chủ tịch của The Elders. Các thành viên
sáng lập nhóm bao gồm Graça Machel, Kofi
Annan, Ela Bhatt, Gro Harlem Brundtland, Jimmy
Carter, Lý Triệu Tinh, Mary Robinson và Muhammad
Yunus.[125]
"Nhóm này có tiếng nói tự do và khẳng khái, hoạt động công
khai lẫn hậu trường về bất cứ hành động nào cần thực hiện", Mandela nói.
"Cùng với nhau chúng tôi sẽ hoạt động để ủng hộ lòng can đảm tại nơi có sợ
hãi, nuôi dưỡng thỏa thuận tại nơi có tranh chấp, và truyền hy vọng tại nơi
tuyệt vọng."[126]
Chống
AIDS
Bài quá dài, phải cắt
bớt
Phê phán
chính sách ngoại giao của Mỹ và Anh
Nelson Mandela phản đối mạnh mẽ vụ can thiệp của NATO tại Kosovo năm
1999 và gọi đó là nỗ lực của các cường quốc nhằm kiểm soát thế giới.[131] Năm
2002 và 2003, Mandela chỉ trích chính sách ngoại giao của chính quyền Tổng
thống Mỹ George W. Bush trong nhiều bài phát
biểu.[132][133] Phê
phán về việc thiếu sự tham gia của Liên Hiệp Quốc trong quyết định bắt
đầu Chiến tranh Iraq, ông nói, "Đó là một bi
kịch, những gì đang xảy ra, những gì Bush đang làm. Nhưng Bush giờ đây đang làm
xói mòn Liên Hiệp Quốc." Mandela cho rằng ông chỉ ủng hộ hành động chống
lại Iraq nếu
đó là do Liên Hiệp Quốc ra lệnh. Mandela cũng nói bóng gió đến việc Liên Hiệp
Quốc có lẽ đã bị ảnh hưởng bởi sự phân biệt chủng tộc vì đã không tuân theo ý
kiến của Liên Hiệp Quốc và tổng thư ký Kofi
Annan về vấn đề chiến tranh. "Có phải vì tổng thư ký Liên
Hiệp Quốc hiện tại là một người da đen hay không? Họ không bao giờ làm vậy khi
tổng thư ký là người da trắng".[134]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Tranh
chấp với Ismail Ayob
Ismail Ayob từng
là một người bạn tin cậy và là luật sư riêng của Mandela trong hơn 30 năm. Vào
tháng 5 năm 2005, Ayob được Mandela yêu cầu dừng bán các ấn phẩm có chữ ký của
Mandela và tính toán lại lợi nhuận thu được từ việc bán chúng. Tranh chấp này
đã khiến Mandela đệ đơn lên Tòa án Tối cao Nam Phi vào
năm đó.[137] Ayob
cho rằng mình không làm điều gì sai trái,[138] và
nói rằng ông là nạn nhân của một chiến dịch bôi nhọ do các cố vấn của Mandela,
mà cụ thể là luật sư George Bizos, dựng
lên.[139]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Tranh cãi
về Kim cương máu
Trong một bài viết trong báo The New Republic tháng
12 năm 2006, Nelson Mandela bị chỉ trích vì một số lời nhận xét tốt đẹp về
ngành công nghiệp kim cương. Người ta lo ngại là điều này sẽ làm lợi cho những
nhà cung cấp kim cương máu.[150] Trong
bức thư gửi tới Edward Zwick, đạo
diễn của bộ phim Kim cương máu,
Mandela nói rằng:
...sẽ cực kỳ đáng tiếc nếu bộ phim này vô tình sai sự thật, và
kết quả là, khiến cho thế giới tin rằng cần phải có hành động thích hợp để
ngưng việc mua kim cương được khai thác từ châu Phi....
Bài quá dài, phải cắt bớt
Zimbabwe
và Robert Mugabe
Robert Mugabe, tổng thống Zimbabwe, người
đã lãnh đạo đất nước này từ khi độc lập năm 1980, đã nhận được nhiều lời chỉ
trích trên thế giới vì trận đánh giết chết khoảng
3000 người vào thập niên 1980 cũng như tham nhũng, quản lý yếu kém,
đàn áp chính trị và theo gia đình trị dẫn
đến nền kinh tế nước này sụp đổ.[153][154]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Tôn vinh
https://s20.postimg.cc/qm3gpjxlp/1988_CPA_5971.jpg
Theo một bài viết trên tạp chí Newsweek, "Mandela đã có
được một vị trí bất khả xâm phạm khi nhắc đến Nam Phi. Ông là nhà giải phóng
dân tộc, vị cứu tinh, là Washington và Lincoln hòa
lại làm một".[161]
Tháng 11 năm 2009, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông
báo ngày sinh của Mandela, 18 tháng 7, sẽ được gọi là "Ngày Mandela"
để ghi nhớ sự đóng góp của ông vào nền tự do của thế giới.[162]
Huân huy
chương
Mandela đã nhận được nhiều giải thưởng của Nam Phi, nước ngoài
và quốc tế, trong đó có Giải Nobel Hòa bình năm 1993 (cùng với Frederik Willem de Klerk),[163] được Nữ hoàng
Elizabeth II trao Huân
chương Công lao và Baliff Grand Cross của Huân
chương Thánh John, Huân chương Tự do Tổng thống của George W.
Bush.[164][không có trong nguồn trích
dẫn][165] Tháng
7 năm 2004, thành phố Johannesburg trao
tặng danh hiệu cao nhất cho Mandela sự tự do của thành phố tại
buổi lễ ở Orlando, Soweto.[166]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Bài hát
ca ngợi
Nhiều nghệ sĩ đã viết bài hát và nhạc về Mandela. Một trong
những nhóm nổi tiếng nhất là The Specials đã
thu âm bài hát "Free Nelson Mandela"
vào năm 1983. Stevie Wonder viết bài hát đã đoạt
giải Oscar "I Just
Called to Say I Love You" cho Mandela, dẫn đến bài này
bị Hãng thông tấn Nam Phi cấm
lưu hành.[174] Vào
năm 1985, album Nelson Mandela của Youssou N'Dour là
bản phát hành đầu tiên tại Mỹ của ca sĩ người Senegal này.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Sách tiểu
sử đã xuất bản
Tự truyện của Mandela, Long Walk
to Freedom, được xuất bản vào năm 1994. Mandela đã bắt đầu viết cuốn sách
này một cách bí mật khi ở trong tù.[184] Trong quyển sách này
Mandela không tiết lộ điều gì về sự đồng lõa của F. W. de Klerk trong những vụ bạo
lực xảy ra vào thập niên 80 và 90, hay vai trò của bà vợ cũ Winnie Mandela trong
những vụ tắm máu đó. Tuy nhiên, ông sau này có cộng tác cùng với bạn ông, nhà
báo Anthony Sampson bàn
luận về các vấn đề này trong Mandela:
The Authorised Biography.[185]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Điện ảnh
và truyền hình
Bộ phim Mandela and De Klerk kể lại câu chuyện
phóng thích Mandela.[188] Mandela do Sidney
Poitier đóng vai. Goodbye Bafana, một
bộ phim phóng sự nói về cuộc đời của Mandela, ra mắt tại liên hoan phim Berlin
ngày 11 tháng 2 năm 2007. Bộ phim có diễn viên Dennis
Haysbert đóng vai Mandela và diễn tả tình bạn trong tù giữa Mandela
và James Gregory.[189]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Tượng đài
Vật tưởng niệm Nelson Mandela
Bài quá dài, phải cắt bớt
Các câu nói
·
"Thể thao là phương tiện hữu hiệu có khả năng làm thay đổi
cục diện thế giới, là công cụ hữu ích cho tương quan thân hữu và nền hòa bình của
thế giới..."
1.Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà bạn có thể dùng để thay đổi
thế giới.
2.Tôi học được rằng can đảm không phải là sự biến mất của nỗi sợ
hãi, mà là sự chiến thắng chính nó. Một người đàn ông can đảm không phải là
người không biết sợ, mà là người biết chế ngự nỗi sợ hãi đó.
3.Tự do không chỉ là cắt đứt xiềng xích trói buộc, mà còn là
sống với lòng tôn trọng, cổ vũ sự tự do của những người khác.
4.Không có cách nào để đạt được tự do một cách dễ dàng và nhiều
người trong chúng ta sẽ phải liên tiếp vượt qua những giai đoạn cận kề cái chết
cho đến khi chạm đến đỉnh cao của khát khao.
5.Không ai được sinh ra để ghét người khác vì màu da, địa vị hay
tôn giáo của anh ta. Con người phải học cách ghét, và chính vì có thể học được
điều này, họ cũng có thể được dạy cách yêu thương, bởi tình yêu vốn được sinh
ra trong trái tim con người tự nhiên hơn so với kẻ thù của nó.
6.Sẽ hay hơn nếu bạn đứng đằng sau lãnh đạo và đặt những người
khác ở trước mình, nhất là khi ăn mừng một chiến thắng hay có những điều tốt
đẹp. Ngược lại, bạn cần đứng ở phía chiến tuyến khi có hiểm nguy xảy ra. Nhờ
đó, mọi người sẽ ghi nhận sự lãnh đạo của bạn.
7. “Người chiến thắng là người biết ước mơ và không bao giờ bỏ
cuộc.”
8.“Những khó khăn có thể đánh gục một vài người nhưng lại là
động lực cho những người khác. Không chiếc rìu nào đủ sắc để có thể phá hủy tâm
hồn của một người phạm lỗi muốn chuộc tội, một người mang bên mình niềm hy vọng
sẽ thành công thậm chí khi họ ở trong bước đường cùng.”
9."Đừng đánh giá tôi dựa trên những thành công của tôi, hãy
đánh giá tôi dựa trên số lần tôi gục ngã và đứng dậy trở lại".
10."Dẫn đầu từ phía sau, và để cho những người khác tin
rằng họ đang dẫn đầu.”
11."Vinh quang lớn nhất trong cuộc đời không phải là không
hề thất bại mà đứng lên sau mỗi thất bại”.
12."Mọi việc đều tưởng chừng như bất khả thi cho đến khi nó
được hoàn thành.”
13"Nếu tôi lấy lại được thời gian của mình, tôi cũng hành
động như vậy, và bất cứ ai dám tự nhận là con người cũng làm vậy.”
14.“Tôi thích những người bạn biết suy nghĩ độc lập bởi vì họ sẽ
giúp bạn nhìn nhận vấn đề từ mọi khía cạnh.”
15.“Biết lo lắng những điều căn bản cho người khác, chúng ta sẽ
tiến một chặng đường dài làm cho thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn như
trong những mơ ước mãnh liệt của chúng ta.”
16. “Mọi người có thể biến đổi hoàn cảnh và đạt được thành công
nếu họ khao khát và đam mê việc họ đang làm.”
17."Giáo dục là vũ khí mạnh nhất bạn có thể dùng để thay
đổi thế giới.”
18."Tôi đã học hỏi được rằng sự dũng cảm không thể không đi
kèm nỗi sợ hãi, nhưng sự chiến thắng sẽ vượt qua điều đó. Một chiến binh can
đảm không phải là người không cảm thấy sợ hãi, mà đó là người có thể chinh phục
được nỗi sợ đó.”
19.“Vinh quang lớn nhất trong cuộc đời không phải là không hề
thất bại mà đứng lên sau mỗi thất bại” 20. “Những nhà lãnh đạo đích thực phải
sẵn sàng hy sinh tất cả cho sự tự do của những người dân của họ."
21"Khi tôi bước đến với tự do, tôi biết rằng nếu không bỏ
lại nỗi đau và sự căm thù lại phía sau, tôi sẽ vẫn ở trong tù.
22."Tôi ghét tột cùng sự phân biệt chủng tộc và tất cả mọi
biểu hiện của nó. Tôi đã chiến đấu vì điều đó suốt cả cuộc đời. Tôi đang chiến
đấu và sẽ tiếp tục cho đến cuối đời.”
23."“Sự oán giận giống như tự mình uống thuốc độc mà hy
vọng kẻ thù của mình chết vậy.”
24."Một cái đầu thông minh và một trái tim ấm áp luôn là
một sự kết hợp có sức mạnh kinh hoàng.”
25."Cái chết là điều không thể tránh khỏi. Khi một người đã
hoàn thành điều người đó coi là trách nhiệm với dân tộc của ông ta, với đất
nước của ông ta, ông ta có thể yên nghỉ. Tôi tin rằng tôi đã hoàn thành nỗ lực
đó, và vì vậy, đó là lý do tôi sẽ ngủ yên trong vĩnh hằng.”
Qua đời
Lãnh tụ Nelson Mandela từ trần vào ngày 5 tháng
12 năm 2013 tại
thành phố Johannesburg, hưởng thọ 95 tuổi.
No comments:
Post a Comment