Đội Cấn
Cách nay đúng 101 năm, đội Cấn khởi nghĩa ở Thái Nguyên
Ngày 30
tháng 08, 1917
·
1917 – Lính khố xanh người Việt tại Thái
Nguyên, Đông Dương thuộc Pháp do Trịnh Văn Cấn chỉ huy bắt đầu tiến
hành nổi dậy chống lại
chính quyền thực dân.
Khởi nghĩa Thái Nguyên
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Kết quả Khởi nghĩa thất bại
Tham chiến
Chỉ huy
Lực lượng
2.700 630
Tổn thất
? Đa
số tử trận hoặc bị bắt.
Khởi nghĩa Thái Nguyên hay Binh biến Thái Nguyên là tên
gọi cuộc nổi dậy ở tỉnh lỵ Thái Nguyên vào
năm 1917 do Trịnh Văn Cấn chỉ huy, chống lại chính quyền Bảo hộ của Pháp để giành độc lập cho người Việt.
Bản đồ hành chính Thái Nguyên
Tỉnh lỵ Thái Nguyên năm 1909
Đội Cấn, hay Ông Đội Cấn (1881 - 11 tháng 1 năm 1918) là biệt danh của Trịnh Văn Cấn,
một thủ lĩnh trong cuộc binh biến chống chính quyền thực dân Pháp tại Thái Nguyên năm 1917.
Bối cảnh lịch sử
Sau vụ Hà Thành đầu độc năm 1908 vỡ lở và âm mưu
đưa vua Duy Tân ra ngoài bưng khởi nghĩa năm 1916 thất
bại, xã hội Việt Nam ngày càng sôi động mặc dầu chính quyền Bảo hộ cố dập tắt
các phong trào kháng cự và bắt giam nhiều người. Trong số những người phải thụ
án giam ở Thái Nguyên là Lương Ngọc Quyến, con cụ Cử Lương Văn Can, hiệu trưởng của Đông Kinh Nghĩa thục. Lương Ngọc Quyến cũng là
thành viên của Việt Nam Quang phục Hội và qua
ông, trại lính khố
xanh canh phòng ở Thái Nguyên hưởng ứng lời kêu gọi nổi dậy
chống lại chỉ huy người Pháp. Họ tôn ông là quân sư.
Duy Tân (chữ Hán: 維新; 19 tháng 9 năm 1900 – 26 tháng 12 năm 1945), tên khai sinh là Nguyễn Phúc Vĩnh San (阮福永珊), là vị Hoàng đế thứ 11 của
nhà Nguyễn, ở ngôi từ năm 1907 đến năm 1916), sau vua Thành Thái.
Lương Ngọc Quyến (1885 - 1917), tên hiệu Lương Lập Nham, là một
chí sĩ Việt Nam thời cận đại. Sinh thời, ông sớm chịu ảnh hưởng tư tưởng canh
tân của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu (Trung Quốc) rồi theo đuổi áp dụng
ở Việt Nam.
Lương Văn Can (1854 - 1927), hay Lương Ngọc Can[1], tự Hiếu
Liêm và Ôn Như[2], hiệu Sơn
Lão; là một nhà cách mạng Việt Nam, và là một
trong số người sáng lập ra trường Đông Kinh Nghĩa Thục năm 1907.
Trong số các binh lính được Lương Ngọc Quyến cảm hóa, có đội
trưởng lính khố xanh Trịnh Văn Cấn (Đội Cấn). Đội Cấn là một người rất khâm
phục cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám, đồng thời phẫn nộ trước sự
khinh miệt của chỉ huy Pháp với binh lính người Việt. Thông qua Lương Ngọc
Quyến, Đội Cấn đã biết tới đường lối đấu tranh của Việt Nam Quang phục Hội và
tình nguyện gia nhập tổ chức. Sau đó Đội Cấn đã cùng với Đội Giá, Đội Xuyên,
Đội Nam... bàn bạc quyết định tổ chức một cuộc nổi dậy chiếm tỉnh Thái Nguyên
với lực lượng binh lính ở tỉnh lỵ và các đồn xung quanh cùng với số tù chính
trị trong nhà lao.
Tuy nhiên, những sĩ quan Pháp đã nhận biết được ý định khởi
nghĩa của binh lính nên đã tìm cách đảo lộn hàng ngũ binh lính, liên tục điều
chuyển đồng thời ra sức đề phòng. Cuộc khởi nghĩa do đó bị trì hoãn nhiều lần.
Đến tháng 8 năm 1917, được tin sắp có cuộc thuyên chuyển, Đội Cấn quyết định
khởi nghĩa vào đến 30 tháng 8 năm 1917.
Diễn biến
Đại
Hùng đế quốc
Đế quốc
Lịch sử
Tuyên bố thành lập 1917
Pháp tái chiếm thành Thái Nguyên 1917
Trịnh Văn Cấn, viên cai đội (caporal)
lính khố xanh ở Thái Nguyên cầm đầu cuộc nổi dậy vào đêm 30 Tháng
Tám năm 1917. Ông chỉ huy lực lượng 175 người lính giết giám
binh người Pháp, Noël, đoạt khí giới đạn dược, rồi phá ngục, giết cai ngục
Loew, giải cứu Lương Ngọc Quyến cùng 203 tù nhân. Nghĩa
quân sau đó cướp kho bạc và làm chủ toàn tỉnh lỵ, trừ
đồn lính khố đỏ cố thủ ở bên bờ sông Cầu.
Trong sáu ngày từ đêm 30 Tháng Tám đến ngày 5 Tháng Chín, quân
của Đội Cấn trấn giữ thành Thái Nguyên, lại thu nạp thêm các dân phu mỏ và dân
địa phương nâng quân số lên khoảng hơn 600 người. Thành phần lực lượng khởi
nghĩa gồm khoảng 130 lính vệ binh, hơn 200 tù nhân, 300 dân phu và dân địa
phương. Theo
gợi ý của Lương Ngọc Quyến, Đội Cấn chia lực lượng khởi nghĩa thành hai tiểu
đoàn, tiểu đoàn thứ nhất gồm các lính vệ binh cũ, tiểu đoàn thứ hai gồm tù nhân
và dân quân, chỉ huy là Ba Chi. Trang bị của đội quân này gồm 92 súng hỏa mai và 75 súng trường mà quân nổi dậy thu được từ kho vũ
khí của Pháp.
Súng hỏa mai đốt bằng dây cháy chậm- bảo tàng vũ khí- Hà
Nội
Họ truyền hịch, đợi
các nơi hưởng ứng nổi dậy cùng ngoại viện từ bên Trung Quốc và Nhật đến
vì tin rằng Việt Nam Quang phục Hội có lực lượng đợi sẵn để
trợ lực. Lãnh tụ cuộc khởi nghĩa cũng tuyên bố độc lập, lấy quốc hiệu là
"Đại Hùng". Họ trương cờ Ngũ tinh liên châu của Việt Nam Quang phục Hội trên cửa thành.
Quân dụng phiếu in quân kỳ và hội kỳ Việt Nam
Quang phục Hội.
Vào ngày 2 Tháng Chín năm 1917 thì quân Pháp bắt đầu phản công
với đội quân 2.700 người và
đến ngày 5 Tháng Chín thì đánh vào tỉnh lỵ. Lương Ngọc Quyến trúng đạn ở đầu
chết. Đội
Cấn phải triệt thoái khỏi Thái Nguyên chạy về phía bắc. Đến trưa ngày mồng 5
thì Pháp tái chiếm được thành. Số thương vong bên nghĩa quân là 56 người; quân
Pháp thiệt mạng 107 người.
Đội Cấn sau đó dẫn quân chạy lên Đại Từ, Tam Đảo rồi
xuống Vĩnh Yên, trước khi trở lại vùng Thái Nguyên nhưng
lực lượng hao mòn dần.
Tam Đảo là một dãy núi đá ở vùng Đông Bắc Việt Nam nằm trên địa bàn
ba tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Gọi là Tam Đảo, vì ở đây
có ba ngọn núi cao nhô lên trên biển mây, đó là Thạch Bàn, Thiên Thị và Phù
Nghĩa [1]. Ngọn cao nhất có độ cao tuyệt đối là 1.591 m.
Bị truy nã, ông rút về núi Pháo rồi để không bị bắt ông tự tử
bằng súng, bắn vào bụng.
Theo các tài liệu chính thức của Pháp, một vệ sỹ của ông giết
ông để lấy thưởng.
Người này dẫn quân Pháp đến nơi được coi là mộ của Đội Cấn.
Tuy nhiên dù người Pháp không tỏ vẻ nghi ngờ đương sự, họ vẫn
cho là Đội Cấn do bị thương nặng, đã yêu cầu thuộc
hạ kết liễu đời mình để khỏi rơi vào tay quân Pháp.
Quân Pháp tiếp tục càn quét tàn quân của cuộc khởi nghĩa tới
tháng 3 thì xong, với một chiến thuật mà họ sử dụng rất hiệu quả là bắt giữ
thân nhân của quân khởi nghĩa để buộc họ phải ra hàng. Một số người bị bắt bị
kết án tử hình, những người khác bị kết án và đày ra Côn Đảo.
Chú thích
1.
^ Đứng đầu tỉnh lỵ Thái Nguyên lúc đó là công sứ Darles
(4/1913 - 9/1917), một kẻ tàn ác; được liệt vào "Tứ hung" (nhất Đác
(Darles), nhì Ke (Eckert), tam Be (Galembert), tứ Bích (Bride)). Lúc còn ở
Pháp, Darles chỉ là một người bán cháo ở xóm dân nghèo Latin tại thủ đô Paris.
Tên này cố gắng học hành và có bằng cử nhân văn chương. Khi sang Việt Nam, do
có "công lao" đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ta, tên Darles
được cất nhắc lên làm công sứ tỉnh Thái Nguyên. Y cai trị cùng với tên phó công
sứ Tusle. Darles và những tên quan cai trị dưới quyền đàn áp nhân dân Thái
Nguyên tàn bạo mà những lời kể của Nguyễn Ái Quốc trong "Bản án chế độ thực
dân Pháp" đã chứng minh rõ. Khi khởi nghĩa Thái Nguyên nổ ra, hai tên này
đi nghỉ mát nên thoát chết...về sau chúng hợp với bộ chỉ huy Pháp (đứng đầu là
Thống sứ le Gallen) đàn áp dã man. Đến tháng 9/1917, y từ chức và tên Tussot
lên làm công sứ (1917 - 1920?), y được cử làm ủy viên Hội đồng thành phố Sài
Gòn Một số quan cai trị Thái Nguyên có thể kể ra ở đây: Cutte de la Riviere
(1889, trưởng đồn Thái Nguyên); Desteney (1900 - 1901), Emmerich (1901 - 1902);
Conrandy (1903 - 1906), Maire (1907 - 1908), Conrandy (1908 - 1910?)....,
Mathieu (1923 - 1927), Chapoulart (1928 - 1929), Echinard (1929 - ?)
3.
^ theo Zinoman, trang 166, trích Trần Huy Liệu Loạn
Thái Nguyên, lực lượng Pháp có hơn 500 quân chính quy được trang bị trọng
pháo
4.
^ "Những
phong trào chống Pháp đầu thế kỷ 20" Theo
tài liệu này thì Lương Ngọc Quyến nhờ Trịnh Văn Cấn bắn vào ngực để quyên sinh
Tham khảo
·
Trần Huy Liệu
(1955). Cách mạng cận đại Việt Nam, tập 3. Hà Nội.
·
Peter Zinoman
(2001). The
colonial Bastille: a history of imprisonment in Vietnam, 1862-1940. University of California Press. ISBN 0520224124.
No comments:
Post a Comment