Tiệp Khắc
Cách nay đúng 50 năm, Hồng quân LX tiến vào Tiệp-Khắc không
cho xứ này “Đổi mới”
Ngày 21
tháng 08, 1968
·
1968 – Mùa xuân Praha kết thúc tại Tiệp Khắc sau
khi quân đội Khối
Warszawa xâm nhập, sát hại 72 người Tiệp Khắc và bắt giữ nhà lãnh đạo Alexander Dubček.
Mùa xuân Praha
(1918)
(1938–1945)
(1945–1948)
(1948–1989)
(1989–1992)
(1 tháng 1
năm 1993)
Mùa xuân Praha (tiếng Séc: Pražské jaro, tiếng Slovak: Pražská jar) là một giai đoạn phi Xô Viết (tự do hóa) nền chính trị
tại Tiệp Khắc trong
thời kỳ nước này chịu ảnh hưởng từ Liên bang Xô viết sau cuộc Chiến
tranh thế giới lần thứ hai. Nó bắt
đầu ngày 5 tháng 1 năm 1968, khi nhà cải cách người Slovak Alexander Dubček lên nắm quyền lực, và kéo dài tới ngày 21 tháng 8
khi Liên Xô và các thành viên Khối hiệp ước Warszawa đồng minh tấn công
nước này để ngăn cản các cuộc cải cách.
Alexander Dubček (27 tháng 11 năm 1921 – 7 tháng 11 năm 1992) là một
chính trị gia người Slovak và trong một thời gian ngắn là lãnh đạo Tiệp Khắc
(1968-1969), nổi tiếng về nỗ lực cải cách chế độ Cộng sản (Mùa xuân Praha). Sau này, sau khi chính phủ Cộng sản bị lật đổ năm
1989, ông là Người phát ngôn của Nghị viện Liên bang Tiệp Khắc.
Các cuộc cải cách Mùa xuân Praha là
một nỗ lực của Dubček nhằm trao thêm quyền cho các công dân trong một hành động
nhằm phi tập trung đảng phái nền kinh tế và dân chủ hoá. Các quyền tự do được
trao gồm nới lỏng các hạn chế với truyền thông, ngôn luận và đi lại. Dubček cũng liên bang hoá đất nước thành hai nhà nước
cộng hoà riêng biệt; đây là thay đổi duy nhất còn tồn tại sau khi phong trào
Mùa xuân Praha chấm dứt.
Những cuộc cải cách, không được những người Xô viết tiếp
nhận, và sau những cuộc đàm phán không thành công, Liên xô đã gửi hàng nghìn
quân của Khối hiệp ước Warszawa cùng xe tăng tới chiếm Tiệp Khắc. Một làn sóng
di cư lớn xảy ra trên cả nước. Trong khi nhiều cuộc tuần hành phi bạo lực diễn ra
trong nước, gồm cả vụ tự sát để phản đối của một sinh viên, không hề có sự
kháng cự quân sự và Tiệp Khắc tiếp tục bị chiếm đóng cho tới năm 1990.
Sau cuộc xâm lược, Tiệp Khắc bước vào một
giai đoạn "bình thường hoá":
những nhà lãnh đạo sau đó đã tìm cách tái lập các giá trị chính trị và kinh tế
từng có trước kia, trước khi Dubček giành được quyền kiểm soát Đảng Cộng
sản Tiệp Khắc (KSČ). Gustáv Husák,
người thay thế Dubček và cũng trở thành Chủ tịch nước,
đã đảo ngược hầu hết các biện pháp cải cách của Dubček. Mùa xuân Praha đã trở
nên bất tử trong âm nhạc và văn học như trong tác phẩm của Václav Havel, Karel Husa, Karel Kryl và Milan Kundera với
cuốn tiểu thuyết Đời nhẹ khôn kham.
Gustáv Husák (10 tháng 1 năm 1913 -
18 tháng 11 năm 1991) là một chính khách người Slovakia. Ông từng là một nhà lãnh đạo cộng sản lâu dài của Đảng Cộng sản Tiệp
Khắc và từng giữ chức Chủ tịch của Tiệp Khắc
(1969-1987). Thời gian cầm quyền của ông được gọi là giai đoạn "bình
thường hóa" sau mùa xuân Praha.
Václav Havel, GCB, CC (IPA: [ˈva:ʦlaf
ˈɦavɛl]; 5 tháng 10 năm 1936 – 18 tháng 12 năm 2011) là nhà văn, triết gia, người bất đồng chính
kiến, nhà viết kịch và chính khách người Séc. Ông là tổng thống Tiệp Khắc cuối cùng và tổng thống Séc đầu tiên.
Milan Kundera (thường
được phiên âm Việt hóa là Mi-lan
Kun-đê-ra, sinh ngày 1 tháng 4 năm 1929 tại Brno, Tiệp Khắc) là một nhà văn Tiệp Khắc, hiện mang
quốc tịch Pháp. Tác phẩm
nổi tiếng nhất của ông là tiểu thuyết Đời
nhẹ khôn kham.
Bối
cảnh
Quá trình Phi
Stalin hóa tại Tiệp Khắc đã bắt đầu từ thời cầm quyền của Antonín Novotný hồi cuối những năm 1950
và đầu 1960, nhưng diễn ra chậm hơn so với tại các nước xã hội chủ nghĩa khác
thuộc Khối Đông Âu.
Antonín Novotný (10 tháng 12 năm 1904 - 28 tháng 1 năm 1975) là Tổng Bí
thư của Đảng Cộng sản Tiệp
Khắc giai đoạn 1953-1968, và cũng là
Chủ tịch Tiệp Khắc 1957-1968. Ông được sinh ra ở Letnany, nay là một phần của Praha. Antonín Novotný đã trở thành một đảng viên của Đảng
Cộng sản vào năm 1921. Sau đó, ông làm đại biểu Đại hội lần thứ 7 của Quốc tế
Cộng sản (1935).
Phân chia trước năm 1989 giữa
"Tây" (màu xám) và "Khối Đông" (màu cam) chồng lên biên
giới hiện thời: Nga (màu cam xẫm), các quốc gia khác xưa kia thuộc Liên Xô (màu cam trung bình),
các thành viên của Khối Warszawa (màu cam
lợt), và những chính thể cựu cộng sản khác không liên kết với Moskva (màu cam
lợt nhất).
Sau khi Nikita Khrushchev lên
cầm quyền, Novotný tuyên bố đã hoàn thành chủ nghĩa xã hội, và hiến
pháp mới, theo
đó, đổi tên nước thành Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Tiệp
Khắc. Tuy nhiên, tốc độ thay đổi còn chậm chạp; việc hồi phục cho
các nạn nhân thời Stalin, như những người bị kết án trong những vụ xét xử Slánský, có
thể đã được xem xét ngay từ năm 1963, nhưng mãi đến năm 1967 mới diễn ra. Khi
chế độ nới lỏng các quy định, Hội nhà văn Tiệp Khắc bắt
đầu thận trọng lên tiếng về sự bất bình, và trên tờ tạp chí của hội, Literární noviny, các
thành viên cho rằng văn học phải độc lập với học thuyết của Đảng.
Nikita Sergeyevich Khrushchyov (phiên âm tiếng Việt: Ni-ki-ta Khơ-rút-siốp; tiếng Nga: Ники́та
Серге́евич Хрущёв, IPA: [nʲɪˈki.tə
sʲɪrˈɡʲe.jɪ.vʲɪ̈tʃʲ xrʊˈʃʲːof] ( nghe); tiếng Anh: Nikita
Khrushchev; tiếng Pháp: Nikita Khrouchtchev) (sinh 17 tháng 4 năm 1894 – mất 11 tháng 9 năm 1971) là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô.
Tháng 6 năm 1967, một phái nhỏ trong Hội nhà văn Séc có thiện
cảm với những người xã hội chủ nghĩa cấp tiến, đặc biệt là Ludvík Vaculík, Milan
Kundera, Jan Procházka, Antonín Jaroslav Liehm, Pavel Kohout và Ivan Klíma. Vài
tháng sau, tại một cuộc họp của đảng, một quyết định cần phải có biện pháp hành
chính chống lại các tác giả công khai thể hiện ủng hộ sự cải cách được đưa ra.
Bởi chỉ có một phần nhỏ của hội ủng hộ điều này, các thành viên còn lại được
tin cậy để kỷ luật những người đồng nghiệp của họ. Quyền
kiểm soát với Literární noviny và nhiều nhà xuất bản khác được
chuyển cho bộ văn hoá, và
thậm chí các thành viên của đảng sau này là những nhà cải cách chính—gồm cả
Dubček—tán thành các động thái đó.
Đầu
thập niên 1960, Tiệp Khắc, khi ấy có tên chính thức là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Tiệp
Khắc (ČSSR: Czechoslovak Socialist Republic), trải
qua một cuộc suy giảm kinh tế. Mô
hình công nghiệp hoá của Liên xô bị áp dụng một cách kém cỏi vào Tiệp Khắc.
Tiệp Khắc đã khá công nghiệp hoá từ trước Thế chiến II và
mô hình Liên xô chủ yếu chỉ tính đến những nền kinh tế kém phát triển. Nỗ lực
của Novotný nhằm tái cơ cấu nền kinh tế, mô hình Kinh tế mới năm 1965, cũng
thúc đẩy nhu cầu cải cách chính trị.
Tới năm 1967, chủ tịch Antonín Novotný mất sự ủng hộ. Bí thư thứ
nhất của Đảng
cộng sản Slovakia, Alexander Dubček, và nhà kinh tế Ota Šik lên
tiếng phản đối ông tại Uỷ ban Trung ương, và Dubček đã mời thủ tướng Liên
xô Leonid Brezhnev tới Praha vào
tháng 12 năm ấy. Brezhnev
ngạc nhiên trước mức độ sự phản đối chống lại Novotný và ủng hộ việc loại bỏ
ông khỏi chức lãnh đạo Tiệp Khắc. Nhờ thế Dubček lên thay Novotný trở thành Bí
thư thứ nhất ngày 5 tháng 1 năm 1968.Ngày 22
tháng 3 năm 1968, Novotný từ chức chủ tịch và bị thay thế bởi Ludvík Svoboda, người
sau này cho phép cuộc cải cách diễn ra.
Leonid Ilyich Brezhnev (Леони́д Ильи́ч Бре́жнев, 1906-1982) là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, và vì thế là lãnh đạo chính trị của Liên bang Xô viết, từ năm
1964 đến năm 1982, giữ chức vụ này trong thời gian lâu thứ hai, chỉ sau Joseph Stalin.
Tự
do hoá và cải cách
Công chúng Tiệp Khắc không hề biết gì về cuộc đấu tranh chính
trị, và những dấu hiệu đầu tiên của sự thay đổi khá ít. Khi thành viên đoàn chủ
tịch Đảng Cộng sản Tiệp Khắc (KSČ) Josef Smrkovský được
phỏng vấn trong một bài báo của Rudé Právo, với
tiêu đề "Điều gì phía trước", ông đã nhấn mạnh rằng việc chỉ định
Dubček trong cuộc họp toàn thể vào tháng 1 sẽ nâng cao hơn nữa các mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội và duy trì vai trò của tầng lớp công nhân trong Đảng Cộng sản.
Nhân kỷ niệm lần thứ 20 của "Tháng 2
thắng lợi", Dubček đã có một bài diễn văn giải thích sự cần thiết
phải thay đổi sau thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Ông nhấn mạnh nhu cầu
"tăng cường vai trò lãnh đạo của đảng một cách hiệu quả hơn nữa" và
thừa nhận rằng, dù có những hối thúc của Klement Gottwald nhằm
có quan hệ tốt hơn với xã hội, Đảng quá thường xuyên can thiệp sâu vào các vấn
đề nhỏ. Dubček tuyên bố sứ mệnh của đảng là "xây dựng một xã hội xã hội
chủ nghĩa tiên tiếp trên những nền tảng kinh tế lành mạnh... một chủ nghĩa xã
hội tương thích với các truyền thống dân chủ lịch sử của Tiệp Khắc, tương ứng
với kinh nghiệm của các đảng cộng sản khác..."
Tháng 4, Dubček đưa ra một "Chương
trình hành động" tự do hoá, gồm tăng tự do cho báo chí, tự do ngôn luận và
tự do di chuyển, với sự nhấn mạnh kinh tế trên hàng hoá tiêu dùng và
khả năng một chính phủ đa đảng. Chương trình dựa trên quan điểm rằng "Chủ
nghĩa xã hội không thể chỉ có nghĩa là giải phóng người lao động khỏi sự thống
trị của tầng lớp bóc lột, mà phải tính xa hơn nữa tới một cuộc sống đầy đủ hơn
cho cá nhân hơn bất kỳ tại một chế độ dân chủ tư sản nào."Chương
trình sẽ giới hạn quyền lực của công an chìm và
dự định liên bang hoá ČSSR
thành hai nước cộng hoà có vị thế như nhau. Chương
trình cũng có đề cập tới chính sách đối ngoại, gồm cả việc duy trì mối quan hệ
tốt với các nước phương Tây và hợp tác với Liên xô và
các quốc gia cộng sản khác. Chương
trình đề cập tới một khả năng về một quá trình chuyển tiếp mười năm sang các
cuộc bầu cử dân chủ và một hình thức chủ nghĩa xã hội dân chủ mới có thể thay
thế hình thức hiện tại.
Tuy nhiên, những người soạn thảo Chương trình, đã thận trọng
không chỉ trích các hành động của chế độ cộng sản thời hậu chiến, chỉ ra các
chính sách mà họ cho là đã lỗi thời và không còn tác dụng. Ví
dụ, tình hình ngay sau chiến tranh cần "các biện pháp hành chính tập trung
và mệnh lệnh" để
chống lại "các tàn tích của giới tư sản." Bởi
"các tầng lớp đối kháng" được
cho là đã bị đánh bại với sự thành công của chủ nghĩa xã hội, những biện pháp
đó không còn cần thiết nữa. Cải cách là cần thiết, Chương trình viết, để nền
kinh tế Tiệp Khắc gia nhập "cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế
giới" chứ
không phải dựa vào nền công nghiệp nặng, nhân lực, và vật liệu thô như
thời Stalin. Hơn
nữa, bởi cuộc xung đột trong nội bộ giai cấp đã không còn nữa, những người công
nhân hiện đã có thể hoàn toàn được tưởng thưởng cho chất lượng công việc và khả
năng của mình mà không hề trái ngược với Chủ nghĩa Mác-Lenin. Chương trình cho
rằng đó là thời điểm cần thiết để việc đảm nhận vị trí quan trọng phải được
thực hiện bởi "các chuyên gia có khả năng, được giáo dục xã hội chủ
nghĩa" nhằm cạnh tranh với chủ nghĩa tư bản.
Dù Chương trình hành động cho rằng cải cách phải được tiến hành
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, áp lực của dân chúng lên cao đòi
thực hiện cải cách ngay lập tức. Các
thành viên cấp tiến trở nên to mồm hơn: những cuộc bút chiến chống Liên xô xuất
hiện trên báo chí (sau khi chính thức bãi bỏ kiểm duyệt ngày 26 tháng 6 năm
1968), Những người Dân chủ Xã
hội bắt đầu thành lập một đảng riêng biệt, và những câu lạc bộ
chính trị mới phi đảng phái được lập ra. Những người thân Liên Xô trong đảng
hối thúc các biện pháp trấn áp, nhưng Dubček không có hành động thái quá và tái
nhấn mạnh sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tại
cuộc họp của Đoàn chủ tịch Đảng Cộng sản Tiệp Khắc vào tháng 4, Dubček thông
báo một chương trình chính trị "chủ nghĩa xã hội với khuôn mặt
người".[20] Tháng
5, ông thông báo rằng Đại hội Đảng lần thứ 14 sẽ được nhóm họp một phiên sớm
vào ngày 9 tháng 9. Đại hội sẽ đưa Chương trình hành động vào trong các nghị
quyết của đảng, phác thảo một luận liên bang, và bầu ra một Uỷ ban Trung ương
mới.[21]
Các cuộc cải cách của Dubček đảm bảo quyền tự do của báo chí, và
những lời bình luận chính trị lần đầu tiên được cho phép xuất hiện trên truyền
thông chính thống.[22] Ở
thời điểm phong trào Mùa xuân Praha, xuất khẩu của Tiệp Khắc đang suy giảm tính
cạnh tranh, và những biện pháp cải cách của Dubček nhằm giải quyết vấn đề này
bằng cách pha trộn kinh tế kế hoạch với kinh tế thị trường. Bên trong đảng, có những ý
kiến về việc Kế hoạch phải diễn ra như thế nào; một số nhà kinh tế muốn có một
nền kinh tế hỗn hợp mạnh hơn nữa trong khi
những người khác muốn nền kinh tế tiếp tục hầu hết là chủ nghĩa xã hội. Dubček
tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của cải cách kinh tế, được tiến hành dưới sự
lãnh đạo của Đảng.[23]
Ngày 27 tháng 6 Ludvík Vaculík, một
nhà báo và tác gia nổi tiếng, xuất bản một bản tuyên ngôn có tiêu đề Hai ngàn từ. Bản
tuyên ngôn thể hiện sự lo ngại về các thành phần bảo thủ bên trong Đảng Cộng
sản Tiệp Khắc và cái gọi là các lực lượng "nước ngoài". Vaculík kêu
gọi người dân đưa ra sáng kiến trong cách áp dụng chương trình cải cách.[24] Dubček,
Chủ tịch đảng, Mặt trận Quốc gia, và nội các bác bỏ bản tuyên ngôn này.[25]
Phản
ứng của Liên xô
Phản ứng ban đầu biên trong khối
Cộng sản khá khác biệt. János Kádár, lãnh đạo Hungary nhiệt
liệt ủng hộ việc chỉ định Dubček vào tháng 1, nhưng Leonid Brezhnev và những người khác ngày
càng lo ngại về những cuộc cải cách của Dubček, mà họ sợ rằng có thể làm suy
yếu vị thế của Khối Cộng sản trong thời Chiến tranh Lạnh.[26][27][28]
Tại một cuộc họp ngày 23 tháng 3 tại Dresden, các lãnh đạo của
nhóm "Warsaw Five" (Liên xô,
Hungary, Ba Lan, Bulgaria và Đông Đức) đặt câu hỏi với phái đoàn của Tiệp Khắc
về các cuộc cải cách, cho rằng bất kỳ cuộc trò chuyện nào về "dân chủ
hoá" đều là một lời chỉ trích công khai với các chính sách khác.[29] Władysław Gomułka và Janos Kádár ít lo ngại
hơn về các cuộc cải cách so với sự chỉ trích ngày càng tăng của truyền thông
Tiệp Khắc, và lo lắng tình hình sẽ "giống như phần mở đầu của cuộc phản cách mạng Hungary".[29] Một
số ngôn ngữ trong Chương trình hành động tháng 4 của Đảng Cộng sản Tiệp khắc đã
được chọn ra để chứng minh rằng không có hành động phản cách mạng nào được sắp
đặt, nhưng Kieran Williams cho rằng có lẽ Dubček ngạc nhiên, nhưng không bực
bội về những đề xuất của Liên xô.[30]
Władysław Gomułka (vwaˈdɨswaf ɡɔˈmuwka 6 tháng 2 năm 1905 & ndash; 1 tháng 9 năm 1982) là một chính trị gia Ba Lan cộng sản. Ông là
lãnh đạo của Ba Lan sau chiến tranh cho đến năm 1948. Theo Ba Lan tháng Mười ông trở thành lãnh đạo một lần nữa từ năm 1956 đến năm
1970.
Giới lãnh đạo Liên xô tìm cách ngăn chặn hay hạn chế những thay
đổi trong Tiệp Khắc thông qua một loạt các cuộc đàm phán. Liên
bang Xô viết đồng ý các cuộc đàm phán song phương với Tiệp Khắc vào
tháng 7 tại Čierna nad Tisou, gần
biên giới Slovak-Liên xô. Tại cuộc gặp, Dubček đã bảo vệ chương trình của phái
cải cách bên trong Đảng Cộng sản Tiệp Khắc trong khi hứa hẹn trung thành
với Khối hiệp ước Warszawa và Comecon. Tuy
nhiên, giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Tiệp Khắc bị chia rẽ giữa những nhà cải cách
nhiệt thành (Josef Smrkovský, Oldřich Černík,
and František Kriegel) ủng
hộ Dubček, và những người bảo thủ (Vasil Biľak,
Drahomír Kolder, và Oldřich Švestka) có lập trường chống cải cách. Brezhnev
quyết định thoả hiệp. Các đại biểu Đảng Cộng sản Tiệp Khắc tái xác nhận sự
trung thành của họ với Khối hiệp ước Warszawa và hứa hẹn ngăn chặn các khuynh
hướng "chống chủ nghĩa xã hội", ngăn cản sự hồi phục của Đảng Dân chủ
Xã hội Tiệp Khắc, và kiểm soát báo chí một cách hiệu quả hơn. Những người Xô
viết đồng ý rút quân (vẫn ở Tiệp Khắc sau cuộc tập luyện vào tháng 6) và cho
phép Đại hội đảng ngày 9 tháng 9 diễn ra.[31]
Ngày 3 tháng 8 các đại biểu từ Liên xô, Đông Đức, Ba Lan,
Hungary, Bulgaria, và Tiệp Khắc họp tại Bratislava và
ký Tuyên bố Bratislava. Tuyên
bố tái khẳng định sự trung thành không thể lay chuyển với Chủ nghĩa Mác-Lenin và chủ nghĩa vô sản quốc tế và
tuyên bố một cuộc chiến đấu không ngừng nghỉ chống lại tư tưởng "tư
sản" và mọi thế lực "chống chủ nghĩa xã hội".[32] Liên
xô thể hiện ý định can thiệp vào một quốc gia thuộc Khối hiệp ước Warszawa nếu
một hệ thống "tư sản" —một hệ thống đa đảng gồm nhiều đảng chính trị
đại diện cho các phe phái khác nhau — được hình thành. Sau hội nghị Bratislava,
quân đội Liên xô rời lãnh thổ Tiệp Khắc nhưng vẫn đóng dọc theo biên giới nước
này.[33]
Cuộc tấn
công của Khối Hiệp ước Warsaw
Khi những cuộc đàm phán đó không mang lại kết quả như mong đợi,
những người Liên Xô bắt đầu xem xét một hành động quân sự. Chính sách của Liên
xô trấn áp các chính phủ các quốc gia vệ tinh buộc
họ phải gắn các lợi ích quốc gia với các lợi ích của "Khối
Đông Âu" (thông qua hành động quân sự nếu cần thiết) bắt đầu được
gọi là Học thuyết Brezhnev.[34] Đêm
ngày 20-21 tháng 8 năm 1968, quân đội các nước thuộc khối Warszawa — Liên
xô, Bulgaria, Ba Lan và Hungary—xâm
lược Tiệp Khắc.[35][36]
[color=red][b]Đêm hôm đó, 200,000 lính Khối hiệp ước Warszawa và
2,000 xe tăng tiến vào Tiệp Khắc.[37] Đầu
tiên họ chiếm Sân bay quốc tế Ruzyně, nơi quân lính tiếp tục được
không vận tới. Các lực lượng Tiệp Khắc bị
cấm trại và bị bao vây cho tới khi mối đe doạ về một cuộc phản công đã bị loại
bỏ. Tới sáng ngày 21 tháng 8 Tiệp Khắc đã bị chiếm đóng.[36][/color][/b]
Cả România và Albania đều
không tham gia vào cuộc tấn công, Albania rút khỏi Khối hiệp ước Warszawa năm
1962.[38] Trong cuộc tấn công của
quân đội Khối Warszawa, 72 người Séc và người Slovak đã bị giết hại (19 trong số đó tại
Slovakia), 266 người bị thương nặng và 436 người khác bị thương nhẹ.[39][40] Alexander
Dubček kêu gọi người dân không kháng cự.[40] Tuy
nhiên, có sự kháng cự lẻ tẻ trên các đường phố. Các biển hiệu tại các thị trấn
có mũi tên chỉ hướng đến Moscow bị phá huỷ hay bị sơn đè lên.[41] Nhiều
làng mạc đổi tên thành "Dubcek" hay "Svoboda"; không có các
thiết bị dẫn đường, Quân đội Khối Hiệp ước thường bị lạc.[42]
Dù trong đêm diễn ra cuộc tấn công, Đoàn chủ tịch Tiệp Khắc
tuyên bố rằng quân đội Khối Warszawa đã vượt biên giới mà không thông báo cho
chính phủ Tiệp Khắc, báo chí
Liên Xô đã in một yêu cầu không có chữ ký, được cho là của đảng
cộng sản Tiệp Khắc và các lãnh đạo nhà nước, về sự "hỗ trợ ngay lập tức,
gồm hỗ trợ quân sự".[43] Tại Đại hội đảng lần
thứ 14 của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc (được tổ chức bí mật, ngay sau sự can thiệp),
có sự nhấn mạnh rằng không thành viên nào của ban lãnh đạo yêu cầu sự can
thiệp.[44] Những
bằng chứng gần đây hơn cho thấy một số thành viên thân Liên Xô bên trong Đảng
Cộng sản Tiệp Khắc (gồm Biľak, Švestka, Kolder, Indra, và Kapek) quả thực có
gửi một yêu cầu can thiệp tới chính phủ Liên Xô.[45] Sau
cuộc xâm lược là một làn sóng di cư, lớn chưa từng có, và cũng chấm dứt ngay
sau đó. Ước tính 70,000 người đã bỏ đi ngay lập tức, và con số tổng cộng lên
tới 300,000 người.[46]
Người Liên Xô gắn cuộc tấn công với "Chủ nghĩa
Brezhnev" cho rằng Liên bang Xô viết có quyền can thiệp bất cứ khi nào một
quốc gia thuộc Khối Đông Âu có vẻ đang có hành động hướng tới chủ nghĩa tư bản.[47] Tuy
nhiên, vẫn có một số điều chưa chắc chắn, về việc điều kiện nào, nếu có, đã xảy
ra để khiến quân đội Khối Warszawa can thiệp. Những ngày dẫn tới cuộc tấn công
thực sự là một giai đoạn yên tĩnh không có bất kỳ một sự kiện lớn nào diễn ra ở
Tiệp Khắc.[21]
Phản ứng
trước cuộc xâm lược
Chủ tịch Romania Nicolae Ceauşescu có một bài diễn văn chỉ trích cuộc xâm lược trước một
đám đông tại Bucharest, ngày 21 tháng 8 năm 1968
Tại Tiệp Khắc, sự phản đối của dân chúng với cuộc xâm lược được
thể hiện bằng nhiều hành động phản kháng đồng thời và phi bạo lực. Ngày 19
tháng 1 năm 1969, sinh viên Jan Palach tự
thiêu tại Quảng trường Wenceslas ở Praha để phản đối sự
trấn áp quyền tự do ngôn luận mới được tái lập.[48] Sự
phản đối của dân chúng khiến Liên bang Xô viết phải từ bỏ kế hoạch ban đầu loại
bỏ vị Bí thư thứ nhất. Dubček, đã bị bắt giữ vào đêm ngày 20 tháng 8, bị đưa về
Moscow cho các cuộc đàm phán. Tại đó, ông và nhiều nhà lãnh đạo khác đã ký,
nhưng dưới áp lực tâm lý lớn từ các chính trị gia Liên xô, Nghị định thư Moscow và
hai bên đồng ý rằng Dubček sẽ tiếp tục tại vị và một chương trình cải cách ôn
hoà sẽ tiếp tục.
Băng rôn phản đối bằng tiếng Nga viết
"Vì tự do của các bạn và của chúng tôi"
Vào ngày 25
tháng 8 năm 1968, các công dân Liên Xô không ủng hộ cuộc tiến
công biểu
tình trên Quảng trường Đỏ; tám người biểu tình có mang theo các băng
rôn với các khẩu hiệu chống lại cuộc tấn công của Khối Hiệp ước. Những người
biểu tình đã bị bắt giữ và sau này bị trừng phạt; cuộc biểu tình bị chụp mũ là
"phản Cách mạng".[49]
Một hiệu ứng được phát biểu nhiều hơn diễn ra tại nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Romania, nơi lãnh đạo nước này Nicolae Ceauşescu, đã là một người đối lập mạnh
với các ảnh hưởng từ Liên xô và tự tuyên bố mình là một người ủng hộ Dubček, có
một bài phát biểu công khai tại Bucharest trong
ngày diễn ra cuộc xâm lược, lên án các chính sách của Liên xô với những lời lẽ
mạnh mẽ.[38]
Tại Phần
Lan, một quốc gia nằm dưới một số ảnh hưởng chính trị của Liên xô,
vụ xâm lược đã gây ra một scandal lớn.[50] Như Italia và Pháp[51] Các
Đảng Cộng sản, Đảng Cộng sản Phần Lan bác
bỏ sự chiếm đóng. Tuy vậy, Tổng thống Phần Lan Urho
Kekkonen là chính trị gia phương Tây đầu tiên chính thức tới thăm
Tiệp Khắc sau tháng 8 năm 1968; ông nhận được sự đón tiếp ở mức vinh dự cao
nhất từ chủ tịch Ludvík Svoboda, ngày
4 tháng 10 năm 1969.[50] Tổng
bí thư Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha Álvaro Cunhal là
một trong số ít lãnh đạo chính trị từ Tây Âu đã ủng hộ cuộc xâm lược là phản cách mạng.[52] cùng
với Đảng Cộng sản Luxembourg[51] và
các nhóm bảo thủ trong Đảng Cộng sản Hy Lạp.[51]
Cuộc tuần hành tại Helsinki phản đối xâm lược
Tiệp Khắc
Các quốc gia phương Tây chỉ đưa ra những lời chỉ trích sau cuộc
xâm lược. Đêm diễn ra cuộc xâm lược Canada, Đan
Mạch, Pháp, Paraguay, Anh
Quốc và Hoa Kỳ yêu cầu một cuộc họp của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc.[53] Tại
cuộc họp, đại sứ Tiệp Khắc Jan Muzik bác
bỏ cuộc xâm lược. Đại sứ Liên xô Jacob
Malik nhấn mạnh rằng những hành động của Khối hiệp ước Warszawa
là "sự giúp đỡ anh em" chống lại "các lực lượng chống xã
hội".[53] Ngày
hôm sau, nhiều quốc gia đề nghị một nghị quyết lên án sự can thiệp và kêu gọi
rút quân ngay lập tức. Cuối cùng, một cuộc bỏ phiếu diễn ra. Mười thành viên
ủng hộ đề nghị; Algérie, Ấn Độ và Pakistan bỏ
phiếu trắng; Liên xô (với
quyền phủ quyết) và Hungary phản đối. Các đại biểu Canada ngay
lập tức đưa ra một đề xuất khác đòi một đại diện Liên hiệp quốc tới Praha và
làm việc theo hướng đòi thả các lãnh đạo Tiệp Khắc đang bị giam giữ.[53] Tới
ngày 26 tháng 8 một cuộc bỏ phiếu khác diễn ra, nhưng một đại diện Tiệp Khắc mới
yêu cầu toàn bộ vấn đề bị loại ra khỏi chương trình nghị sự của Hội đồng Bảo
an. Chính phủ Hoa Kỳ đã gửi Shirley Temple Black tới
Praha trong tháng 8 năm 1968 chuẩn bị trở thành đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên ở Tiệp
Khắc tự do. Hai thập kỷ sau, khi Tiệp Khắc đã độc lập, Black là đại sứ Hoa Kỳ
đầu tiên tại nước này.[54]
Hậu
quả
Tháng 4 năm 1969, Dubček bị thay thế khỏi chức vụ Bí thư thứ
nhất bởi Gustáv
Husák, và một giai đoạn "bình
thường hóa" bắt đầu.[55] Dubček
bị trục xuất khỏi Đảng Cộng sản Tiệp Khắc và được trao cho một công việc tại sở
kiểm lâm.[56]
Husák đã đảo ngược các biện pháp cải cách của Dubček, thanh
trừng các thành viên tự do trong đảng, và loại bỏ khỏi các văn phòng nhà nước các cá
nhân chuyên môn và trí thức đã công khai thể hiện sự bất bình với sự chuyển
tiếp chính trị.[57] Husák
tái lập quyền lực của cảnh sát và tăng cường quan hệ với các quốc gia xã hội
chủ nghĩa khác. Ông cũng tìm cách tái tập trung hoá nền
kinh tế, bởi một số lượng lớn các quyền tự do đã được trao cho các ngành công
nghiệp trong thời kỳ diễn ra phong trào Mùa xuân Praha.[57] Việc
bình luận về chính trị một lần nữa bị ngăn cấm trên truyền thông chính thức và
những lời tuyên bố chính trị của bất kỳ ai không được coi là "tin tưởng
hoàn toàn về chính trị" đều bị ngăn cấm.[22] Sự
thay đổi lớn duy nhất còn tồn tại là việc liên bang hoá đất
nước, tạo ra Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Séc và Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Slovak năm 1969.
Năm 1987, lãnh đạo Liên xô Mikhail Gorbachev thừa
nhận rằng các chính sách tự do hoá glasnost và perestroika của
ông rất giống với "chủ nghĩa xã hội với khuôn mặt người" của Dubček.[58] Với
sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội năm 1989, Dubček
trở thành chủ tịch nghị viện liên bang thuộc chính quyền Havel.[59] Khi
được hỏi về sự khác biệt giữa Mùa xuân Praha và những cuộc cải cách của
Gorbachev, một người phát ngôn Bộ Ngoại giao đã trả lời, "Mười chín
năm."[60]
Sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ tại Tiệp Khắc trong cuộc Cách mạng Nhung năm 1989,
Dubček được bầu làm Chủ tịch Nghị viện Liên bang, chức vụ mà ông giữ tới tận
tháng 6 năm 1992. Cuối cùng ông lãnh đạo Đảng
Dân chủ Xã hội Slovakia, và phát biểu chống lại việc giải tán Tiệp Khắc trước
khi mất tháng 11 năm 1992.[cần dẫn nguồn]
Dấu ấn
văn hoá
Mùa xuân Praha càng làm vỡ mộng nhiều người cánh tả ở phương Tây
có quan điểm Mác-Lenin. Nó góp phần vào sự phát triển của các ý
tưởng chủ nghĩa Cộng sản Tây Âu trong
các đảng cộng sản phương Tây, tìm cách tách xa khỏi Liên xô, và cuối cùng dẫn
tới sự giải tán nhiều nhóm trong số đó.[61] Một
thập kỷ sau, một giai đoạn tự do hóa chính trị của Trung Quốc được gọi là Mùa xuân Bắc Kinh. Nó
cũng một phần gây ảnh hưởng tới phong trào Mùa xuân Croatia tại
Nam Tư.[62] Trong một cuộc nghiên cứu
năm 1993 tại Séc, 60% người tham gia có một ký ức cá nhân liên quan tới Mùa
xuân Praha trong khi 30% người khác quen thuộc với các sự kiện ở một số hình
thức khác.[63]
Sự kiện này đã được đề cập trong âm nhạc đại chúng, gồm bài hát
của Karel Kryl, Luboš Fišer Requiem,[64] và Music for Prague 1968 của Karel Husa.[65] "They
Can't Stop The Spring", một bài hát của nhà báo và nghệ sĩ sáng tác người
Ireland John Waters, đã
đại diện cho Ireland tại Eurovision Song Contest năm 2007. Waters đã miêu
tả nó là "một kiểu chào mừng của người Celtic với các cuộc cách mạng Đông
Âu và những kết quả của nó", trích dẫn câu nói được cho là của Dubček:
"Họ có thể dẫm đạp hoa, nhưng họ không thể ngăn cản mùa xuân."[66]
Mùa xuân Praha cũng xuất hiện trong văn học. Milan
Kundera đã nghiền ngẫm tác phẩm The
Unbearable Lightness of Being của mình trong thời gian
diễn ra phong trào Mùa xuân Praha. Nó đi theo những tác động của sự hiện diện
ngày càng tăng của Liên xô và sự kiểm soát cảnh sát độc tài với dân chúng.[67] Một
bộ phim chuyển thể vào năm 1988.[68] Những
người giải phóng, của Viktor Suvorov, là
một miêu tả của một chứng nhân về cuộc xâm lược Tiệp Khắc năm 1968, từ quan
điểm của một sĩ quan xe tăng Liên xô.[69] Rock 'n' Roll, một
vở kịch của nhà soạn kịch Tom Stoppard, có đề
cập đến Mùa xuân Praha, cũng như cuộc Cách mạng Nhung năm 1989.[70] Heda Margolius Kovály cũng
chấm dứt cuốn hồi ký của mình Under a Cruel Star với một lời
đề cập tới Mùa xuân Praha và cuộc xâm lược sau đó, và những cảm nhận của bà về
các sự kiện đó.[71]
Ngoài chuyển thể kịch bản phim của tác phẩm The
Unbearable Lightness of Being, cũng có một bộ phim Pelíšky của
đạo diễn Jan Hřebejk và
tác giả kịch bản Petr Jarchovský, thể
hiện các sự kiện của Mùa xuân Praha, dù nó nói nhiều hơn về giai đoạn bình
thường hoá.[72] Bộ
phim âm nhạc Séc, Những kẻ nổi loạn của Filip Renč, cũng
thể hiện các sự kiện và cuộc xâm lược sau đó cũng như làn sóng di cư.[72]
Số 68 đã trở thành biểu tượng tại Tiệp
Khắc cũ. Vận động viên Hockey Jaromír Jágr mặc
số này bởi tầm quan trọng của nó trong lịch sử Tiệp Khắc.[73][74] Một
nhà xuất bản cũ có trụ sở tại Toronto, 68 Publishers, xuất
bản những cuốn sách của các tác gia người Séc và Slovak đang sống lưu vong, lấy
tên theo sự kiện đó.
No comments:
Post a Comment