Nước Tuva được Liên Xô giúp tách ra khỏi Tàu Ô
Cách nay đúng 97 năm, Liên Xô hỗ trợ Đường Nỗ Ô Lương Hải
lập nên nhà nước Tuva, thoát khỏi ảnh hưởng của Tàu
Ngày 14
tháng 08, 1921
·
1921 – Với sự hỗ trợ của Liên Xô, Đường Nỗ
Ô Lương Hải tuyên bố độc lập khỏi Trung Quốc và
lập nên Cộng hòa Nhân dân Tuva.
Cộng hòa Nhân dân Tuva
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tьвa Arat Respuвlik
1921–1944
Quốc huy
Quốc
ca
Thủ
tướng Salchak Toka
Giai
đoạn lịch sử Thời kỳ giữa hai thế chiến
Thành
lập 14 tháng 8 1921
bị
sáp nhập 11 tháng 10 1944
1944 170.500 km² (65.830 sq mi)
1944
(ước tính) 95.400
Mật
độ 0,6 /km²
(1,4 /sq mi)
Tiền
tệ Akşa Tuva
Khertek Amyrbitovna Anchimaa-Toka (tiếng Nga: Хертек Амырбитовна Анчимаа-Тока, 1 tháng 1 năm 1912 – 4 tháng 11 năm 2008) là một chính
trị gia Tuva/Liên Xô, trong giai đoạn 1940–44 bà giữ chức chủ tịch Tiểu Khural
(quốc hội) của Cộng hòa Nhân dân
Tuva, và là nữ nguyên thủ quốc gia
được bầu hay bổ nhiệm đầu tiên trong lịch sử thế giới hiện đại.
Cộng hòa Nhân dân Tuva (hay Cộng hòa Nhân dân Tannu Tuva; tiếng Tuva: Tьвa
Arat Respuвlik, Тыва Арат Республик, Tyva Arat Respublik;
1921-1944) là một nhà nước độc lập được hai nước Liên Xô và Cộng
hòa Nhân dân Mông Cổ công
nhận, nằm trên lãnh thổ xứ bảo hộ Tuva trước
đây của Đế quốc Nga- cũng được gọi là Uryankhaisky Krai (tiếng Nga: Урянхайский край).
Đây là một quốc
gia vệ tinh của Liên Xô và
hậu thân của nó là nước Cộng hòa Tuva trong thành phần Liên bang Nga hiện
nay.
Location of the Tuva Republic in Russia
Ancien globe terrestre montrant le Tannou-Touva indépendant
entre la Mongolie et l'URSS
Lịch sử
Sự hỗn loạn trong giai đoạn này đã tạo điều kiện để người Tuva
một lần nữa tuyên bố nền độc lập của họ.
Ngày 14 tháng 8 năm 1921, những người Bolshevik (được Nga ủng
hộ) đã thành lập Cộng hòa Nhân dân Tuva, được gọi là Tannu Tuva cho
đến năm 1926.
Thủ đô Khem-Beldir cuối cùng được đổi tên thành Kyzyl ('Đỏ'
trong tiếng Tuva; trong tiếng Tuva và tiếng Nga: Кызыл; trong giai đoạn 1922-26
được đổi tên thành "Красный", Krasnyy, 'Đỏ' trong tiếng
Nga).
The "Center of Asia" monument in Kyzyl
Kyzyl (Russian: Кызы́л, IPA: [kɨˈzɨl]; Tuvan: Кызыл, Kьzьl/Kızıl, Tuvan
pronunciation: [kɯˈzɯl]) is the capital city of the Tuva Republic, Russia. The name of the city means "red" or
"crimson" in Tuvan (as well as in many other Turkic languages).
Một hiệp định giữa Liên Xô và Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ trong
năm 1926 đã khẳng định nền độc lập của quốc gia này.
Không có quốc gia nào khác chính thức công nhận Cộng hòa Nhân
dân Tuva, song nó đã xuất hiện trên một số bản đồ và quả địa cầu sản xuất tại
Hoa Kỳ.
Thủ tướng đầu tiên của Cộng hòa Nhân dân Tuva là Donduk Kuular thuộc Đảng Cách
mạng Nhân dân Tuva. Kuular chọn Phật giáo làm
quốc giáo và cố gắng giới hạn số người định cư và sự tuyên truyền đến từ Nga.
Ông cũng cố gắng thiết lập các mối quan hệ với Mông Cổ. Liên Xô ngày càng trở
nên lo lắng trước những hành động này và đến năm 1929, Thủ tướng Kuular đã bị
bắt giữ và sau đó bị hành quyết.
Trong lúc ấy (năm 1930), tại Liên Xô, năm thành viên của Trường Đại học Lao động Cộng
sản Phương Đông (KUTV), cũng chính là nhóm đã hành quyết Kuular, đã được
bổ nhiệm "các chính ủy đặc mệnh" của Tuva.
Những người này đặc biệt trung thành với chính phủ Joseph Stalin, họ đã tiến hành thanh
trừng một phần ba số thành viên trong Đảng Cách mạng Nhân dân Tuva và thúc
đẩy tập thể hóa tại
một quốc gia có kinh tế dựa vào chăn nuôi gia súc du mục truyền thống.
Chính phủ mới bắt đầu các hành động nhằm tiêu diệt Phật giáo và
Shaman giáo tại Tuva, một chính sách được Stalin khuyến khích. Bằng chứng về sự
thành công của các hành động này thể hiện trong việc suy giảm số lượng các
vị Lạt-ma tại quốc gia này: vào năm 1929 có 25 tu viện Lạt-ma với
khoảng 4.000 lạt-ma và pháp sư; vào năm 1931 chỉ còn 1 tu viện Lạt-ma, 15
lạt-ma, và khoảng 725 pháp sư.
Những nỗ lực xóa bỏ chăn nuôi du mục thì khó khăn hơn. Một cuộc
điều tra dân số vào năm 1931 cho thấy 82,2% người Tuva vẫn tham gia chăn nuôi
gia súc du mục. Salchak Toka, một
trong số các chính ủy đặc mệnh đã đề cập ở trên, đã được lập làm Tổng bí thư
của Đảng Cách mạng Nhân dân Tuva vào năm 1932. Ông vẫn nắm giữ quyền lực tại
Tuva cho đến khi qua đời vào năm 1973.
Tuva bước vào Thế chiến II cùng với Liên Xô vào
ngày 25 tháng 6 năm 1941, ba ngày sau khi Đức tấn công vào Liên Xô.
Ngày 11 tháng 10 năm 1944, theo yêu cầu của Tiểu Khural Nhân dân
Tuva (nghị viện), Tuva trở thành một phần của Liên Xô và được tổ chức
thành tỉnh tự trị Tuva của CHXHCNXV Liên bang Nga theo
quyết định của Đoàn chủ
tịch Xô viết Tối cao Liên Xô.
Tiểu Khural Nhân dân đã chính thức hóa việc sáp nhập tại phiên
họp cuối cùng của nó vào ngày 1 tháng 11 năm 1944.
Salchak Toka trở thành Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Tuva.
Tuva duy trì vị thế là cộng hòa tự trị (CHXHCNXVTT
Tuva trong thành phần CHXHCNXV Liên bang Nga) từ ngày 10 tháng
10 năm 1961 cho đến năm 1992.
Drapeau de la République
populaire de Tannou-Touva de 1926 à 1930.
Quốc kỳ của
Cộng hòa Nhân dân Tuva từ ngày 24 tháng 11 năm 1926 đến 28 tháng 6 năm 1930.
Văn bản viết bằng tiếng Mông Cổ, chuyển tự Latinh là Bügüde Nayiramdaqu Tuva Arad Ulus
"Cộng hòa Nhân dân Tuva".
Drapeau de la République
populaire de Tannou-Touva de 1930 à 1935.
Drapeau de la République populaire
de Tannou-Touva de 1935 à 1941.
Drapeau de la République
populaire de Tannou-Touva de 1941 à 1943.
Drapeau de la République populaire de
Tannou-Touva de 1943 à 1944.
Lors de la Seconde Guerre mondiale
Billet de 10 aksha de 1940
Le Tannou-Touva entre en guerre aux côtés des Alliés le 25 juin 1941, soit
trois jours après l'Union soviétique.
Le 11 octobre 1944, avec
l'approbation du petit Khural(parlement) touvain, le
Touva fut annexé par l'URSS, intégré sous le nom d'Oblast autonome de Touva, bien
qu'il n'y ait pas eu de consultation à l'échelle du pays sur la question.
Toka
reçut le titre de premier secrétaire du Parti communiste touvain.
Touva fut
une république socialiste
soviétique autonome (République
socialiste soviétique autonome de Touva au sein de la République
socialiste fédérative soviétique de Russie) du 10
octobre 1961 jusqu'en 1992.
Le Tannou-Touva aujourd'hui
Tannu Touva, surcharge de 5 Lan sur 5
Roubles, 1923
La république populaire touvaine est à présent connue
officiellement sous le nom de république touvaine au sein de la Fédération
russe. Bien qu'il y ait eu déjà des discussions au sujet d'une
restauration de la souveraineté du Touva (ce qui reste formellement possible),
celles-ci n'ont pas eu d'impact jusqu'à présent. Plusieurs raisons à cela,
notamment la forte dépendance de la province vis-à-vis de l'économie russe, et
de la russification rampante de la population
(près de 75 % sont des Touvains).
Lãnh đạo
1930s US map
of Asia that includes the Tuvan People's Republic.
Nguyên
thủ quốc gia
·
Chủ tịch Khural Lập hiến
·
Chủ tịch Đoàn chủ tịch Tiểu Khural
Đứng đầu
chính phủ
·
Chủ tịch Hội đồng Trung ương
·
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Đứng đầu
đảng
·
Tổng bí thư
·
Chủ tịch
·
Tổng bí thư
·
Bí thư thứ nhất
·
Tổng bí thư
Dân số
1918 1931 1944 1958
Người Tuva 48.000 64.900 81.100 98.000
Người Nga và các dân tộc khác 12.000 17.300 14.300 73.900
Tổng 60.000 82.200 95.400 171.900
Tham khảo
1.
^ Minahan, James (2009). The
Complete Guide to National Symbols and Emblems. ABC-CLIO. tr. 193. ISBN 0313344973.
3.
^ Paine, S.C.M. Imperial Rivals: China, Russia, and
Their Disputed Frontier, M.E. Sharpe, 1996, p. 329.
No comments:
Post a Comment