Tuesday, August 7, 2018

Cách nay đúng 75 năm, quân đồng minh đổ bộ lên nhóm đảo Guadalcanal đang bị Nhật chiếm giữ.

Ngày 07 tháng 08, 1943

·        1943 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Quân đội Đồng Minh đổ bộ lên nhóm đảo Guadalcanal nhằm đánh bật quân đội Nhật Bản, khởi đầu Chiến dịch Guadalcanal (hình).


Chiến dịch Guadalcanal

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Tháng 11 năm 1942. Lực lượng Thủy quân Lục chiến Mỹ, có lẽ thuộc Sư đoàn 2, đang nghỉ ngơi tại chiến trường trong chiến dịch Guadalcanal.

Thời gian                     7 tháng 8 năm 1942 – 9 tháng 2 năm 1943
Địa điểm                       Guadalcanal thuộc Quần đảo Solomon
Kết quả                        Thắng lợi chiến lược cho phía Đồng Minh

Tham chiến
Hoa Kỳ, Úc, New Zealand,                            Đế quốc Nhật Bản
Anh Quốc (cư dân quần đảo Solomon) 

Chỉ huy
Robert Ghormley                          Isoroku Yamamoto
William Halsey, Jr.                        Nishizo Tsukahara
 Richmond K. Turner                   Jinichi Kusaka
Alexander Vandegrift                   Hitoshi Imamura
Alexander Patch                           Harukichi Hyakutake

Lực lượng
60.000                                                       36.200

Tổn thất
7.100 chết                                     31.000 chết
4 bị bắt                                         1.000 bị bắt
29 tàu                                           38 tàu
615 máy bay                                          683–880 máy bay


Chiến dịch Guadalcanal, còn gọi là Trận Guadalcanal, và tên mã của Đồng Minh là Chiến dịch Watchtower, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên đảo Guadalcanal và khu vực phụ cận tại quần đảo Solomon của Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.
Guadalcanal (indigenous name: Isatabu) is the principal island in Guadalcanal Province of the nation of Solomon Islands, located in the south-western Pacific, northeast of Australia. The island is mainly covered in dense tropical rainforest and has a mountainous interior.
Guadalcanal's position (inset) and main towns
Việc tranh chấp diễn ra ác liệt cả trên bộ, trên biển và trên không; chiến dịch này là cuộc tấn công lớn đầu tiên của phe Đồng Minh chống lại Đế quốc Nhật Bản sau một thời gian dài phòng thủ.
Vào ngày 7 tháng 8 năm 1942, lực lượng Đồng Minh, chủ yếu là Mỹ, thực hiện đổ bộ lên các đảo Guadalcanal, Tulagi, và Florida (Nggela Sule) phía Nam quần đảo Solomon với mục tiêu ngăn chặn quân Nhật sử dụng chúng làm căn cứ đe dọa con đường vận chuyển từ Mỹ đến Australia và New Zealand. Đồng Minh còn định sử dụng Guadalcanal và Tulagi như những căn cứ hỗ trợ cho chiến dịch chiếm đóng hoặc vô hiệu hóa căn cứ chủ lực của Nhật tại Rabaul trên đảo New Britain.
New Britain, with selected towns and volcanoes
Lực lượng Đồng Minh đã áp đảo số lượng quân Nhật phòng thủ nhỏ bé, vốn đã chiếm đóng các đảo này từ tháng 5 năm 1942, chiếm giữ Tulagi và Florida cùng một sân bay (sau này được đặt tên là Henderson) đang được xây dựng trên đảo Guadalcanal.
Bị bất ngờ bởi đòn tấn công của Đồng Minh, phía Nhật Bản từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1942 đã nhiều lần tìm cách chiếm lại sân bay Henderson. Ba trận chiến lớn trên bộ, năm trận hải chiến lớn, và các cuộc không chiến diễn ra liên tục hầu như hàng ngày, mà đỉnh điểm là trận Hải chiến Guadalcanal mang tính quyết định vào đầu tháng 11 năm 1942, trong đó nỗ lực cuối cùng nhằm tăng viện đủ số lượng binh lính để chiếm lại sân bay Henderson bị đánh bại.
Sang tháng 12 năm 1942, phía Nhật từ bỏ mọi hy vọng tái chiếm Guadalcanal và triệt thoái các lực lượng còn lại vào ngày 7 tháng 2 năm 1943.
Chiến dịch Guadalcanal đánh dấu một chiến thắng chiến lược đáng kể nhờ phối hợp các binh chủng bởi lực lượng Đồng Minh đối với Nhật Bản tại mặt trận Thái Bình Dương. Quân Nhật đã đạt đến cao trào trong sự xâm chiếm của họ tại Thái Bình Dương, và Guadalcanal đánh dấu sự chuyển mình của Đồng Minh từ các chiến dịch phòng thủ sang tấn công chiến lược tại mặt trận này.

Bối cảnh

Cuộc tấn công đã đánh bại hạm đội thiết giáp hạm Mỹ, chính thức khai mào cuộc chiến tranh giữa hai nước. Mục tiêu ban đầu của những nhà lãnh đạo Nhật Bản là vô hiệu hóa Hải quân Mỹ, chiếm đóng các vùng đất giàu tài nguyên thiên nhiên và thiết lập các căn cứ quân sự chiến lược nhằm bảo vệ vòng ngoài cho Đế quốc Nhật Bản tại châu Á và Thái Bình Dương.
Đi xa hơn các mục tiêu đó, lực lượng Nhật Bản đã chiếm đóng PhilippinesThái LanMalaya thuộc AnhSingaporeĐông Ấn thuộc Hà Lanđảo Wakequần đảo GilbertNew Britain và Guam.
Tham gia cùng với Mỹ trong cuộc chiến chống lại Nhật Bản là tất cả các thế lực Đồng Minh, nhiều nước trong số đó, bao gồm Anh Quốc, Australia và Hà Lan, cũng bị Nhật Bản tấn công.
Nhật Bản kiểm soát khu vực Tây Thái Bình Dương từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1942. Guadalcanal ở phía dưới bên phải giữa bản đồ.
Hai dự tính của Nhật Bản muốn duy trì thế chủ động chiến lược và mở rộng vành đai phòng thủ về phía Nam và Trung Thái Bình Dương đã bị ngăn trở trong những trận hải chiến tại biển Coral và Midway. Midway không chỉ là một chiến thắng lớn đầu tiên của phía Đồng Minh trước đối thủ Nhật Bản chưa hề nếm mùi chiến bại, nó còn làm suy giảm đáng kể khả năng tấn công của lực lượng tàu sân bay Nhật. Cho đến lúc này, phía Đồng Minh vẫn còn trong thế phòng ngự tại Thái Bình Dương, nhưng những thắng lợi chiến lược này cho họ cơ hội lấy lại quyền chủ động chiến lược từ tay quân Nhật.
Đồng Minh đã chọn quần đảo Solomon, một vùng đất dưới quyền bảo hộ của Anh, đặc biệt là các đảo phía Nam gồm Guadalcanal, Tulagi, và Florida như những mục tiêu ban đầu. Hải quân Nhật đã chiếm đóng Tulagi vào tháng 5 năm 1942và xây dựng một căn cứ thủy phi cơ gần đó. Sự lo ngại của phía Đồng Minh gia tăng, khi vào đầu tháng 7 năm 1942, Hải quân Nhật bắt đầu xây dựng một sân bay lớn tại Lunga Point trên đảo Guadalcanal kế cận. Đến tháng 8 năm 1942, quân Nhật có khoảng 900 lính hải quân trú đóng tại Tulagi và các đảo lân cận, và 2.800 người trên đảo Guadalcanal (2.200 trong số đó là lao động người Triều Tiên và các chuyên viên xây dựng Nhật Bản dân sự). Các căn cứ này, một khi hoàn tất, sẽ bảo vệ cho căn cứ trọng yếu của quân Nhật tại Rabaul, đe dọa con đường tiếp tế và liên lạc của Đồng Minh đến Australia và New Zealand, và là một khu vực tập trung quân cho chiến dịch được dự định tấn công vào FijiNew Caledonia và Samoa. Quân Nhật dự định bố trí 45 máy bay tiêm kích và 60 máy bay ném bom đến Guadalcanal một khi sân bay hoàn tất. Những máy bay này sẽ hỗ trợ trên không cho lực lượng hải quân tiến sâu hơn vào khu vực Nam Thái Bình Dương.
Kế hoạch của Đồng Minh nhằm chiếm đóng Nam Solomon là sáng kiến của Đô đốc Ernest King, Tổng tư lệnh Hạm đội Hoa Kỳ. Ông đề nghị cuộc tấn công này nhằm ngăn chặn việc quân Nhật sử dụng các hòn đảo làm căn cứ đe dọa con đường tiếp tế giữa Hoa Kỳ và Australia, và sử dụng chúng như những điểm xuất phát các cuộc tấn công trong tương lai. Được sự tán thành ngấm ngầm của Tổng thống Roosevelt, King hết lòng bênh vực cho cuộc chiếm đóng Guadalcanal. Khi Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Lục quân George C. Marshall phản đối hoạt động trên tuyến này đồng thời đặt vấn đề ai sẽ chỉ huy chiến dịch, King nhấn mạnh rằng Hải quân và Thủy quân Lục chiến sẽ tự thân thực hiện chiến dịch này, và chỉ thị cho Đô đốc Chester Nimitz tiến hành vạch kế hoạch sơ thảo. Cuối cùng thì King cũng chiến thắng trong cuộc tranh luận, và cuộc tấn công được tiến hành dưới sự hậu thuẫn của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân.
Chiến dịch Guadalcanal được thực hiện phối hợp cùng một chiến dịch tấn công tại New Guinea dưới quyền chỉ huy của tướng Douglas MacArthur nhằm chiếm lấy các quần đảo Admiralty và Bismarck, kể cả căn cứ chủ lực của Nhật tại Rabaul. Mục tiêu cuối cùng của nó là việc Mỹ sẽ tái chiếm Philippines. Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân cho thành lập Mặt trận Nam Thái Bình Dương do Phó Đô đốc Robert L. Ghormley chỉ huy kể từ ngày 19 tháng 6 năm 1942, để chỉ đạo cuộc tấn công tại khu vực Solomon. Đô đốc Chester Nimitz, đặt bộ chỉ huy tại Trân Châu Cảng, được chỉ định làm Tổng tư lệnh lực lượng Đồng Minh tại Thái Bình Dương.
Sân bay tại Lunga Point trên đảo Guadalcanal đang được xây dựng bởi các công nhân-nô lệ vào tháng 7 năm 1942.
Để chuẩn bị cho các hoạt động sắp tới tại Thái Bình Dương, vào tháng 5 năm 1942Thiếu tướng Thủy quân Lục chiếnAlexander Vandegrift được lệnh điều động Sư đoàn 1 Thủy quân Lục chiến của ông từ Hoa Kỳ đến New Zealand. Các đơn vị lục quân, hải quân và không quân Đồng Minh khác được gửi đến để thiết lập các căn cứ tại Fiji, Samoa, New Hebrides và New Caledonia. Espiritu Santo thuộc New Hebrides được chọn để đặt bộ chỉ huy và là căn cứ chính của cuộc tấn công, vốn được đặt tên mã là Chiến dịch Watchtower, và ngày dự định thực hiện được đặt ra là 7 tháng 8 năm 1942. Thoạt tiên, cuộc tấn công của Đồng Minh được vạch kế hoạch nhắm vào Tulagi và quần đảo Santa Cruz, bỏ qua Guadalcanal. Tuy nhiên, sau khi trinh sát phát hiện ra các nỗ lực xây dựng sân bay Nhật trên đảo Guadalcanal, việc chiếm nó được bổ sung vào kế hoạch, và cuối cùng việc đổ bộ lên Santa Cruz bị loại bỏ. Thông qua tình báo vô tuyến, quân Nhật có biết được sự điều động quân lực với quy mô lớn tại khu vực Nam Thái Bình Dương, nhưng họ cho rằng Đồng Minh đang củng cố phòng thủ cho Australia và có thể cho Port Moresby tại New Guinea.
Lực lượng tham gia Chiến dịch Watchtower, bao gồm 75 tàu chiến và tàu vận tải của cả Mỹ và Australia, được tập trung gần Fiji vào ngày 26 tháng 7 năm 1942, và tham gia một cuộc tổng dượt đổ bộ trước khi lên đường hướng đến Guadalcanal vào ngày 31 tháng 7.[20]. Chỉ huy trưởng lực lượng viễn chinh Đồng Minh tại chỗ là Phó Đô đốc Frank Fletcher, đặt cờ hiệu của mình trên tàu sân bay Saratoga. Chỉ huy lực lượng đổ bộ là Chuẩn Đô đốc Richmond K. Turner. Thiếu tướng Vandegrift dẫn đầu lực lượng bộ binh Đồng Minh khoảng 16.000 người (chủ yếu là Thủy quân Lục chiến Mỹ) để thực hiện đổ bộ.[21]

Cuộc đổ bộ


Con đường đi của các lực lượng đổ bộ Đồng Minh lên Guadalcanal và Tulagi, ngày 7 tháng 8 năm 1942.
Thời tiết xấu đã giúp cho lực lượng viễn chinh Đồng Minh tiến gần đến Guadalcanal mà không bị quân Nhật trông thấy vào buổi sáng ngày 7 tháng 8 năm 1942.[22] Lực lượng đổ bộ được chia thành hai nhóm, một tấn công lên Guadalcanal, và nhóm kia vào Tulagi, Florida và các đảo lân cận.[23] Các tàu chiến Đồng Minh tiến hành nả pháo các bãi đổ bộ trong khi máy bay từ các tàu sân bay ném bom các vị trí của quân Nhật trên các đảo mục tiêu, và tiêu diệt 15 thủy phi cơ Nhật tại căn cứ của chúng gần Tulagi.[24] Tulagi và hai đảo nhỏ lân cận Gavutu và Tanambogo bị một lực lượng 3.000 Thủy quân Lục chiến Mỹ tấn công.[25] Lực lượng hải quân Nhật gồm 886 người trú đóng tại căn cứ hải quân và căn cứ thủy phi cơ đã kháng cự kịch liệt cuộc tấn công của Mỹ.[26] Với đôi chút khó khăn, Thủy quân Lục chiến Mỹ chiếm được cả ba hòn đảo; Tulagi vào ngày 8 tháng 8, còn Gavutu và Tanambogo vào ngày 9 tháng 8.[27] Quân Nhật phòng thủ trên các đảo bị tiêu diệt hầu như cho đến người cuối cùng, trong khi Thủy quân Lục chiến Mỹ chịu tổn thất 122 người tử trận.[28]
Tương phản với Tulagi, Gavutu, và Tanambogo, cuộc đổ bộ lên Guadalcanal gặp phải rất ít sự kháng cự. Lúc 09 giờ 10 phút ngày 7 tháng 8, tướng Vandegrift cùng 11.000 Thủy quân Lục chiến đổ bộ lên Guadalcanal tại địa điểm giữa Koli Point và Lunga Point. Tiến quân về phía Lunga Point, họ không gặp phải bất kỳ sự kháng cự nào ngoại trừ những cơn mưa rào nhiệt đới "lộn xộn", và họ phải dừng lại nghỉ đêm cách sân bay tại Lunga Point không đầy 900 m (1.000 yard). Ngày hôm sau, chỉ gặp sự chống cự yếu ớt, Thủy quân Lục chiến tiến đến sông Lunga và hoàn toàn kiểm soát sân bay lúc 16 giờ 00 phút ngày 8 tháng 8. Các đơn vị xây dựng hải quân và đơn vị chiến đấu Nhật Bản, dưới quyền chỉ huy của Đại úy Kanae Monzen, hoảng loạn do các loạt hải pháo và các cuộc ném bom, đã bỏ khu vực sân bay tháo chạy về phía Tây cách khoảng 5 km (3 dặm) cạnh sông Matanikau và khu vực Point Cruz, bỏ lại phía sau lương thực, tiếp liệu, xe cộ và máy móc xây dựng còn nguyên vẹn cùng 13 người chết.[29]
Thủy quân Lục chiến Mỹ đổ bộ lên Guadalcanal, ngày 7 tháng 8 năm 1942.
Trong khi cuộc đổ bộ đang diễn ra vào các ngày 7 và 8 tháng 8, máy bay Hải quân Nhật đặt căn cứ tại Rabaul dưới sự chỉ huy của Sadayoshi Yamada đã nhiều lần tấn công lực lượng đổ bộ Đồng Minh, làm cháy chiếc tàu vận tải Mỹ George F. Elliot (nó chìm hai ngày sau đó) và làm hỏng nặng chiếc tàu khu trục Jarvis.[30] Trong hai ngày giao chiến, phía Nhật mất 36 máy bay, trong khi các tàu sân bay Mỹ thiệt hại 19 chiếc do cả chiến đấu lẫn tai nạn, trong đó có 14 máy bay tiêm kích.[31]
Bài quá dài, phải cắt bớt

Các chiến dịch ban đầu

Các vị trí phòng thủ ban đầu của Thủy quân Lục chiến Mỹ chung quanh sân bay tại Lunga Point, Guadalcanal, ngày 12 tháng 8 năm 1942.
Sơ đồ các cuộc tấn công của Thủy quân Lục chiến Mỹ về phía Tây sông Matanikau, ngày 19 tháng 8 năm 1942.
Lực lượng 11.000 lính Thủy quân Lục chiến trên đảo Guadalcanal trước tiên tập trung vào việc thiết lập một ngoại vi phòng thủ chung quanh Lunga Point và sân bay, di chuyển hàng tiếp liệu đã bốc dỡ được vào bên trong phạm vi này, và hoàn tất việc xây dựng sân bay. Sau bốn ngày nỗ lực khẩn trương, số hàng tiếp liệu được chuyển từ bãi đổ bộ đến các kho phân tán trong phạm vi bảo vệ. Công việc hoàn tất sân bay được tiến hành ngay lập tức, chủ yếu bằng các thiết bị chiếm được của quân Nhật. Vào ngày 12 tháng 8, sân bay được đặt tên là Henderson Field theo tên của một phi công Thủy quân Lục chiến, Lofton R. Henderson, hy sinh trong Trận Midway. Đến ngày 18 tháng 8, sân bay sẵn sàng hoạt động.[36] Lúc đó chỉ có năm ngày lương thực được dỡ xuống từ các tàu vận chuyển, cộng với số chiếm được từ quân Nhật, cho phép lực lượng Thủy quân Lục chiến có được 14 ngày lương thực.[37] Để dành dụm tiếp liệu lượng thực, các đơn vị bị giới hạn chỉ được hai bữa ăn mỗi ngày.[38] Lực lượng Đồng Minh còn mắc phải chứng bệnh tiêu chảy nặng không lâu sau khi đổ bộ, cứ mỗi năm người thì có một người mắc phải vào giữa tháng 8. Cho dù có một số ít công nhân xây dựng người Triều Tiên ra đầu hàng, đa số người Nhật và người Triều Tiên còn lại tập trung ngay phía Đông ngoại vi Lunga bên bờ Tây sông Matanikau và sống sót chủ yếu nhờ vào dừa. Một trạm quan sát hải quân Nhật cũng được phát hiện tại Taivu Point cách khoảng 35 km (22 dặm) phía Đông ngoại vi Lunga. Vào ngày 8 tháng 8, một tàu khu trục Nhật từ Rabaul đã chuyển 113 lính thủy đến tăng cường cho Matanikau.[39]
Bài quá dài, phải cắt bớt

Trận Tenaru


Phản ứng lại việc Đồng Minh đổ bộ lên Guadalcanal, Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản giao cho Quân đoàn 17 đặt căn cứ tại Rabaul dưới quyền chỉ huy của Trung tướng Harukichi Hyakutake, nhiệm vụ tái chiếm Guadalcanal. Tập đoàn quân này được sự hỗ trợ của các đơn vị Hải quân Nhật, kể cả Hạm đội Liên hợp dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Isoroku Yamamoto, đặt căn cứ tại Truk. Vào lúc này, Quân đoàn 17 đang bận rộn tham gia hoạt động tại New Guinea nên chỉ có ít đơn vị dự bị. Trong số đó, Lữ đoàn bộ binh 35 của Thiếu tướng Kiyotake Kawaguchi đang ở Palau, Trung đoàn 4 bộ binh Aoba đang ở Philippines và Trung đoàn 28 bộ binh Ichiki dưới quyền chỉ huy của Đại tá Kiyonao Ichiki đang trên tàu vận chuyển gần đảo Guam. Các đơn vị khác nhau lập tức bắt đầu di chuyển về phía Guadalcanal ngang qua Truk và Rabaul, nhưng Trung đoàn Ichiki, vốn là đơn vị ở gần nhất, đã đến khu vực này trước tiên. Một "Lực lượng thứ nhất" của đơn vị Ichiki, với khoảng 917 binh sĩ, đã đổ bộ từ các tàu khu trục lên Taivu Point, phía Đông ngoại vi Lunga vào ngày 19 tháng 8.[43]
Bài quá dài, phải cắt bớt

Trận chiến đông Solomon


Tàu sân bay Enterprise đang bị tấn công trong Trận chiến đông Solomon.
Khi trận Tenaru kết thúc, có thêm nhiều lực lượng tăng cường Nhật Bản sẵn sàng lên đường. Khởi hành từ Truk vào ngày 16 tháng 8 là ba tàu vận tải chậm chạp chở 1.400 binh sĩ còn lại của Trung đoàn 28 bộ binh Ichiki và 500 lính thủy thuộc đơn vị Yokosuka 5 Đổ bộ Đặc biệt.[45] Bảo vệ các con tàu vận tải là 13 tàu chiến dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Raizo Tanaka, với kế hoạch đổ bộ các lực lượng nói trên lên đảo Guadalcanal vào ngày 24 tháng 8.[46] Để bảo vệ cho cuộc đổ bộ các lực lượng trên và để hỗ trợ cho việc tái chiếm sân bay Henderson từ tay Đồng Minh, Yamamoto chỉ thị cho Đô đốc Chuichi Nagumo xuất phát cùng một lực lượng tàu sân bay từ Truk vào ngày 21 tháng 8 hướng đến khu vực Nam quần đảo Solomon. Lực lượng của Nagumo bao gồm ba tàu sân bay và 30 tàu chiến khác.[47]
Bài quá dài, phải cắt bớt

Không chiến bên trên sân bay Henderson và tăng cường phòng thủ Lunga


Máy bay tiêm kích F4F WildcatThủy quân Lục chiến cất cánh từ sân bay Henderson, khoảng cuối tháng 8hay đầu tháng 9 năm 1942.
Trong suốt tháng 8, một số lượng nhỏ máy bay Mỹ và đội bay của chúng tiếp tục được tăng cường đến Guadalcanal. Đến cuối tháng 8, có tổng cộng 64 máy bay đủ loại đặt căn cứ tại sân bay Henderson.[49] Vào ngày 3 tháng 9, chỉ huy trưởng Không đoàn 1 Thủy quân Lục chiếnChuẩn tướng Roy S. Geiger, đến nơi cùng bộ tham mưu của ông và nắm quyền chỉ huy mọi hoạt động không lực tại Henderson.[50] Các trận không chiến giữa máy bay Đồng Minh tại Henderson cùng máy bay ném bom và máy bay tiêm kích Nhật xuất phát từ Rabaul diễn ra hầu như hàng ngày. Từ ngày 26 tháng 8 đến ngày 5 tháng 9, phía Mỹ mất khoảng 15 máy bay trong khi Nhật tổn thất khoảng 19 chiếc. Hơn phân nửa số phi công Mỹ bị bắn rơi được giải cứu trong khi đa số thành viên đội bay Nhật bị mất tích hẳn. Chuyến bay khứ hồi kéo dài tám giờ từ Rabaul đến Guadalcanal, với khoảng cách 1.800 km (1.120 dặm) tổng cộng, đã ảnh hưởng nặng nề đến những nỗ lực của Nhật Bản muốn chiếm lấy ưu thế trên không bên trên sân bay Henderson. Các trinh sát duyên hải người Australia trên các đảo Bougainville và New Georgia thường có thể cảnh báo sớm cho Lực lượng Đồng Minh tại Guadalcanal về các cuộc không kích, cho phép máy bay tiêm kích Mỹ có đủ thời gian cất cánh và chiếm được vị trí thích hợp để tấn công máy bay ném bom và máy bay tiêm kích Nhật khi chúng bay đến. Vì vậy, không lực Nhật Bản dần dần kiệt sức tại bầu trời bên trên Guadalcanal.[51]
Bài quá dài, phải cắt bớt

Tốc hành Tokyo

Đến ngày 23 tháng 8, Lữ đoàn 35 bộ binh của Kawaguchi đến được Truk và được chất lên các tàu vận tải chậm để đi nốt đoạn cuối của hành trình đến Guadalcanal. Những thiệt hại xảy đến cho đoàn tàu vận tải của Tanaka trong trận chiến đông Solomon khiến phía Nhật Bản phải cân nhắc lại việc gửi thêm lực lượng đến Guadalcanal bằng các tàu vận tải. Thay vì vậy, những con tàu chở binh lính của Kawaguchi được cho hướng đến Rabaul. Tại đây, họ có kế hoạch đưa người của Kawaguchi đến Guadalcanal bằng tàu khu trục thông qua một căn cứ hải quân Nhật tại quần đảo Shortland.
Bài quá dài, phải cắt bớt

Trận chiến đồi Edson


Trung tá Thủy quân Lục chiến Merritt A. Edson (ảnh chụp khi ông đã được thăng lên Thiếu tướng) chỉ huy lực lượng Đồng Minh trong trận chiến đồi Edson
Vào ngày 7 tháng 9, Kawaguchi công bố kế hoạch tấn công của ông nhằm "đánh bại và tiêu diệt đối phương tại vùng lân cận sân bay trên đảo Guadalcanal". Kế hoạch tấn công của Kawaguchi chia lực lượng của ông làm ba mũi, tiếp cận vùng ngoại vi Lunga và tung ra một cuộc tấn công bất ngờ vào ban đêm. Lực lượng của Đại tá Oka sẽ tấn công vùng ngoại vi sân bay từ phía Tây trong khi Lực lượng thứ hai của Ichiki, giờ đây được đổi tên thành Tiểu đoàn Kuma, sẽ tấn công từ phía Đông. Mũi tấn công chính sẽ được thực hiện bởi lực lượng chủ lực của Kawaguchi, với binh lực lên đến 3.000 người thuộc ba tiểu đoàn, từ cánh rừng phía Nam vùng ngoại vi Lunga.[61] Đến ngày 7 tháng 9, hầu hết lực lượng của Kawaguchi đã rời Taivu hướng về phía Lunga Point dọc theo bờ biển. Có khoảng 250 lính Nhật ở lại phía sau để bảo vệ căn cứ hậu cần của Lữ đoàn tại Taivu.[62]
Bài quá dài, phải cắt bớt

Bản đồ khu vực ngoại vi Lunga tại Guadalcanal, cho thấy những con đường tiếp cận của quân Nhật và địa điểm tấn công trong trận đánh. Mũi tấn công của Oka ở hướng Tây (bên trái), Tiểu đoàn Kuma tấn công từ hướng Đông (bên phải) và lực lượng chủ lực tấn công "đồi Edson " (đồi Lunga) phía dưới phần giữa của bản đồ.
Đêm 12 tháng 9, Tiểu đoàn 1 của Kawaguchi tấn công đơn vị Raider giữa sông Lunga và dãy đồi, buộc một đại đội Thủy quân Lục chiến phải rút lui về dãy đồi trước khi quân Nhật dừng cuộc tấn công lúc trời sáng. Đêm tiếp theo, đối đầu với 830 người trong lực lượng Raider của Edson là 3.000 quân trong lữ đoàn Kawaguchi cùng một lực lượng pháo binh nhẹ. Quân Nhật bắt đầu tấn công ngay khi trời vừa tối, Tiểu đoàn 1 của Kawaguchi tấn công sườn phải của Edson về phía Tây dãy đồi. Sau khi chọc thủng đội hình của Thủy quân Lục chiến, cuối cùng cuộc tấn công của tiểu đoàn bị chặn đứng bởi lực lượng Thủy quân Lục chiến phòng thủ phần phía Bắc của dãy đồi.[67]
Bài quá dài, phải cắt bớt

Tăng viện



Tàu sân bay Wasp bốc cháy sau khi trúng ngư lôi của tàu ngầm Nhật ngày 15 tháng 9.
Trong khi quân Nhật đang tái tập trung lực lượng tại phía Tây Matanikau, lực lượng Mỹ tập trung vào việc chống đỡ và tăng cường phòng thủ Lunga. Vào ngày 14 tháng 9, Vandegrift cho chuyển thêm Tiểu đoàn 3 thuộc Trung đoàn 2 Thủy quân Lục chiến (3/2) từ Tulagi đến Guadalcanal. Sang ngày 18 tháng 9, một đoàn tàu vận tải Đồng Minh đưa đến thêm 4.157 người thuộc Lữ đoàn 3 Thủy quân Lục chiến (gồm Trung đoàn 7 Thủy quân Lục chiến, Trung đoàn 11 và một số đơn vị hỗ trợ), 137 xe cộ, lều bạt, nhiên lliệu máy bay, đạn dược, thực phẩm và các thiết bị công cụ đến Guadalcanal. Sự tăng viện kịp thời này cho phép Vandegrift, bắt đầu từ ngày 19 tháng 9, thành lập một vành đai phòng thủ liên tục chung quanh ngoại vi Lunga. Tuy nhiên, trong khi hộ tống đoàn tàu vận tải này, tàu sân bay Wasp bị tàu ngầm Nhật I-19 đánh chìm phía Đông Nam Guadalcanal, tạm thời khiến cho chỉ còn lại một tàu sân bay Đồng Minh duy nhất (Hornet) hoạt động tại vùng Nam Thái Bình Dương.[71] Vandegrift cũng thay đổi một số chỉ huy cao cấp trong các đơn vị chiến đấu, điều đi khỏi đảo nhiều sĩ quan mà theo ông không đáp ứng tiêu chuẩn thể hiện, đề bạt vào vị trí đó nhiều sĩ quan cấp dưới từng khẳng định được mình trong chiến đấu. Một trong số đó là Đại tá vừa được thăng cấp Merritt Edson, được giao trách nhiệm chỉ huy Trung đoàn 5 Thủy quân Lục chiến.[72]
Bài quá dài, phải cắt bớt

Các hoạt động dọc theo sông Matanikau


Lực lượng Thủy quân Lục chiến tuần tra dọc theo sông Matanikau vào tháng 9 năm 1942.
Vandegrift và bộ tham mưu của ông ý thức rằng lực lượng của Kawaguchi đã rút lui về khu vực phía Tây sông Matanikau và nhiều nhóm quân Nhật lang thang đang tản mác trong suốt khu vực giữa ngoại vi Lunga cho đến sông Matanikau. Vì vậy Vandegrift quyết định thực hiện một loạt các hoạt động của các đơn vị nhỏ chung quanh thung lũng Matanikau. Mục đích của các hoạt động này là nhằm càn quét các nhóm quân Nhật tản mác ở phía Đông Matanikau và nhằm giữ cho nhóm quân chủ lực Nhật mất quân bình để họ không thể củng cố các vị trí quá gần ngoại vi phòng thủ của Thủy quân Lục chiến chung quanh Lunga Point.[76]
Bài quá dài, phải cắt bớt

Trận chiến mũi Esperance


Trong suốt tuần lễ cuối cùng của tháng 9 và tuần đầu tiên của tháng 10 năm 1942, các chuyến "Tốc hành Tokyo" đã đưa các đơn vị thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh Lục quân Nhật đến Guadalcanal. Hải quân Nhật hứa hẹn sẽ hỗ trợ cho kế hoạch tấn công của Lục quân, không chỉ bằng việc vận chuyển binh lực, thiết bị và tiếp liệu cần thiết đến hòn đảo, mà còn gia tăng cường độ ném bom sân bay Henderson và gửi các tàu chiến đến bắn phá hòn đảo.[80]
Tàu tuần dương Mỹ Helena, trong thành phần Lực lượng Đặc nhiệm 64 dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Norman Scott.
Cùng lúc đó, Millard F. Harmon, Tư lệnh lực lượng Quân đội Hoa Kỳ tại Nam Thái Bình Dương, đã thuyết phục Ghormley rằng lực lượng Thủy quân Lục chiến trên đảo Guadalcanal cần được tăng cường ngay để phía Đồng Minh có thể giữ vững được hòn đảo trong cuộc tấn công sắp tới của quân Nhật được dự đoán. Vì vậy, vào ngày 8 tháng 10, 2.837 người thuộc Trung đoàn 164 Bộ binh thuộc Sư đoàn Americal Lục quân Mỹ lên tàu tại New Caledonia thực hiện chuyến đi đến Guadalcanal và dự định cập bến vào ngày 13 tháng 10. Để bảo vệ đoàn tàu vận tải đi đến Guadalcanal, Ghormley ra lệnh cho Lực lượng Đặc nhiệm 64, bao gồm bốn tàu tuần dương và năm tàu khu trục dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Norman Scott, để đánh chặn và chống lại mọi tàu chiến Nhật có thể xuất hiện tại Guadalcanal đe dọa đến đoàn tàu vận tải.[81]
Bài quá dài, phải cắt bớt

Nã pháo bằng thiết giáp hạm xuống Henderson

Cho dù Hải quân Mỹ chiến thắng trong trận hải chiến ngoài khơi mũi Esperance, người Nhật tiếp tục thực hiện kế hoạch và chuẩn bị cho cuộc tấn công lớn được dự định vào cuối tháng 10. Họ quyết định mạo hiểm một lần, không theo quy luật chỉ sử dụng các tàu chiến nhanh để đưa người và vật tư đến đảo. Ngày 13 tháng 10, một đoàn tàu vận tải bao gồm sáu tàu vận tải và tám tàu khu trục hộ tống khởi hành từ quần đảo Shortland hướng đến Guadalcanal. Đoàn tàu vận tải này chuyên chở 4.500 binh sĩ thuộc các trung đoàn 16 và 230 bộ binh, một số lính thủy, hai đại đội pháo binh hạng nặng và một đại đội xe tăng.[84]
Thiết giáp hạm Haruna.
Để bảo vệ đoàn tàu vận tải không bị máy bay của Không lực Cactus tấn công, Yamamoto gửi hai thiết giáp hạm từ Truk đến dội pháo xuống sân bay Henderson. Lúc 01 giờ 33 phút ngày 14 tháng 10, các thiết giáp hạm Kongō và Haruna, được hộ tống bởi một tàu tuần dương hạng nhẹ và chín tàu khu trục, đi đến Guadalcanal và khai hỏa vào sân bay Henderson từ khoảng cách 16 km (17.500 yard). Trong 1 giờ và 23 phút, hai chiếc thiết giáp hạm đã bắn 973 quả đạn pháo 356 mm (14 inch) vào khu vực Lunga, hầu hết rơi trúng bên trong phạm vi 2.200 m của sân bay. Nhiều quả đạn trong số chúng là những quả đạn miểng đặc biệt, được thiết kế để phá hủy những mục tiêu trên đất liền. Đợt bắn phá đã gây hư hỏng nặng nề cả hai đường băng hạ cánh, đốt cháy gần hết nhiên liệu máy bay, phá hủy 48 máy bay trong tổng số 90 chiếc của Không lực Cactus, và làm thiệt mạng 41 trong đó có sáu phi công. Lực lượng thiết giáp hạm sau đó rút lui ngay về Truk.[85]
Cho dù bị thiệt hại nặng nề, người của sân bay Henderson đã có thể phục hồi một trong hai đường băng hạ cánh sau vài giờ. Một đợt tăng viện 17 máy bay SBD và 20 máy bay Wildcat từ Espiritu Santo nhanh chóng bay đến Henderson, và máy bay vận tải của Lục quân và Thủy quân Lục chiến bắt đầu đưa nhiên liệu từ Espiritu Santo đến Guadalcanal. Giờ đây ý thức được về một đoàn tàu vận tải lớn của Nhật đang tiến đến gần, phía Mỹ xoay xở tìm mọi cách ngăn chặn chúng trước khi chúng đến được Guadalcanal. Sử dụng nhiên liệu rút ra từ những chiếc máy bay bị phá hủy và từ một kho dự trữ trong rừng lân cận, máy bay của Không lực Cactus trong ngày 14 tháng 10 đã hai lần tấn công đoàn tàu vận tải, nhưng không gây được thiệt hại gì.[86]
Tàu vận tải Nhật bị phá hủy tại Tassafaronga bởi máy bay của Không lực Cactus, ngày 15 tháng 10.
Đoàn tàu vận tải Nhật đến Tassafaronga thuộc Guadalcanal lúc nữa đêm ngày 14 tháng 10 và bắt đầu bốc dỡ. Trong suốt ngày 15 tháng 10, một chuỗi máy bay từ Henderson đã đến ném bom và bắn phá các tàu vận tải đang bốc dỡ, diệt được ba tàu vận tải. Phần còn lại của đoàn tàu khởi hành đêm hôm đó sau khi bốc dỡ tất cả binh lực và khoảng hai phần ba thiết bị và hàng tiếp liệu. Nhiều tàu tuần dương hạng nặng của Nhật cũng bắn phá sân bay Henderson trong đêm 14 rạng ngày 15 tháng 10, phá hủy thêm một số máy bay của Không lực Cactus, nhưng không gây thêm hư hỏng nào đáng kể cho sân bay.[87]

Trận chiến sân bay Henderson

Từ ngày 1 đến ngày 17 tháng 10, Nhật đưa được 15.000 quân đến Guadalcanal, cho phép Hyakutake có tổng cộng 20.000 người để thực hiện việc công kích. Vì đã bị mất các cứ điểm bên bờ Đông sông Matanikau, quân Nhật cho rằng việc tấn công vành đai phòng thủ của Mỹ dọc theo bờ biển sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, Hyakutake quyết định mũi tấn công chính trong kế hoạch của ông sẽ từ phía Nam sân bay Henderson. Sư đoàn 2 Bộ binh (được tăng cường các đơn vị của Sư đoàn 38), do Trung tướng Masao Maruyama chỉ huy, bao gồm 7.000 người thuộc ba trung đoàn bộ binh, mỗi trung đoàn có ba tiểu đoàn, sẽ hành quân qua rừng rậm và tấn công cứ điểm phòng thủ của Mỹ từ phía Nam gần bờ Đông sông Lunga.[88] Ngày tấn công ban đầu được ấn định là 22 tháng 10, sau đó đổi thành 23 tháng 10. Để thu hút sự chú ý của phía Mỹ khỏi mũi tấn công chủ yếu từ phía Nam, lực lượng pháo binh hạng nặng cùng năm tiểu đoàn bộ binh (khoảng 2.900 người) do Thiếu tướng Tadashi Sumiyoshi chỉ huy sẽ tấn công chu vi phòng thủ của quân Mỹ từ phía tây dọc theo hành lang bờ biển. Nhật Bản ước lượng có 10.000 quân Mỹ trên đảo, trong khi con số thực là khoảng 23.000 người.[89]
Bản đồ trận đánh, từ ngày 23 tháng 10 đến ngày 26 tháng 10. Lực lượng của Sumiyoshi tấn công từ phía Tây tại Matanikau (bên trái) trong khi Sư đoàn 2 của Maruyama tấn công ngoại vi Lunga từ phía Nam (bên phải)
Vào ngày 12 tháng 10, một đại đội công binh Nhật Bản bắt đầu mở một con đường mòn, được gọi là "Đường mòn Maruyama", bắt đầu từ Matanikau hướng đến phần phía Nam của ngoại vi Lunga. Con đường dài 24 km (15 dặm) này trải qua một trong những địa hình phức tạp nhất trên đảo Guadalcanal: nhiều sông suối, khe sâu, đầm lầy đầy bùn, các ngọn đồi dốc đứng và rừng rậm. Từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 10, Sư đoàn 2 bắt đầu hành quân dọc theo con đường mòn Maruyama.[90]
Bài quá dài, phải cắt bớt

Trận chiến quần đảo Santa Cruz

Trong khi các đơn vị của Hyakutake đang tấn công ngoại phạm vi Lunga, các tàu sân bay Nhật cùng các tàu chiến lớn khác dưới sự chỉ đạo chung của Đô đốc Isoroku Yamamoto đã tiến đến một vị trí gần phía Nam quần đảo Solomon. Từ nơi này, lực lượng Hải quân Nhật hy vọng tiếp chiến và đánh bại mọi lực lượng hải quân Đồng Minh (chủ yếu là Mỹ), đặc biệt là lực lượng tàu sân bay, có ý định phản công lại cuộc tấn công trên bộ của Hyakutake. Lực lượng hải quân Đồng Minh trong khu vực, giờ đây dưới quyền chỉ huy của Đô đốc William Halsey, Jr., người đã thay thế Ghormley vào ngày 18 tháng 10, cũng hy vọng sẽ giáp chiến cùng Hải quân Nhật trong trận này. Nimitz đã thay thế Ghormley bằng Halsey sau khi kết luận rằng Ghormley quá bi quan và thiển cận để có thể tiếp tục lãnh đạo hiệu quả các lực lượng Đồng Minh tại khu vực Nam Thái Bình Dương.[96]
Tàu sân bay Hornet bị tấn công bằng ngư lôi và không kích từ tàu sân bay Nhật vào ngày 26 tháng 10.
Hai lực lượng tàu sân bay đối đầu nhau vào buổi sáng ngày 26 tháng 10, sau này được biết đến như là Trận chiến quần đảo Santa Cruz. Sau khi tung vào nhau các đợt không kích bằng máy bay trên tàu sân bay, các tàu nổi Đồng Minh buộc phải rút lui khỏi chiến trường sau khi tàu sân bay Hornet bị đánh chìm và chiếc Enterprise duy nhất còn lại bị hỏng nặng. Tuy nhiên, lực lượng tàu sân bay Nhật cũng phải rút lui do chịu tổn thất nặng về máy bay và đội bay, cũng như hư hại đáng kể cho hai tàu sân bay. Cho dù đây là một thắng lợi chiến thuật rõ ràng cho phía Nhật Bản xét về số lượng tàu chiến bị đánh chìm và hư hại, hầu hết những tổn thất của các đội bay dày dạn chinh chiến của Nhật là không thể bù đắp được, trở thành một lợi thế chiến lược lâu dài cho phía Đồng Minh, khi tổn thất về phi công của họ trong trận này tương đối thấp. Các tàu sân bay Nhật sau đó không còn đóng vai trò nào đáng kể trong chiến dịch này.[97]

Các hoạt động trên bộ trong tháng 11

Để tiếp tục khai thác thắng lợi sau trận chiến sân bay Henderson, Vandegrift tung sáu tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến, sau đó còn có thêm một tiểu đoàn Lục quân, vào một cuộc tấn công ra phía Tây Matanikau. Cuộc hành quân do Merritt Edson chỉ huy, và mục đích của nó là chiếm Kokumbona, nơi đặt Bộ chỉ huy của Tập đoàn quân 17, về phía Tây Point Cruz. Phòng thủ tại khu vực Point Cruz là các đơn vị của Trung đoàn 4 Bộ binh Nhật do Nomasu Nakaguma chỉ huy. Trung đoàn 4 bị thiếu hụt binh lực nặng nề do tổn thất trong chiến đấu, bệnh tật vùng nhiệt đới và đói ăn.[98]
Bài quá dài, phải cắt bớt

Khi lực lượng Mỹ bắt đầu di chuyển, Shōji và binh lính của ông cũng bắt đầu đến Koli Point. Bắt đầu từ ngày 8 tháng 11, lực lượng Mỹ dự định bao vây lực lượng của Shōji tại đồi Gavaga gần Koli Point. Trong khi đó, Hyakutake ra lệnh cho Shōji bỏ các vị trí của mình tại Koli để hội quân tại Kokumbona trong khu vực Matanikau. Một địa hình đồi thấp và đầm lầy ngăn cách sườn phía Nam của phòng tuyến phía Mỹ. Từ ngày 9 đến ngày 11 tháng 11, Shōji cùng khoảng 2.000 đến 3.000 binh sĩ của mình đã thoát được vào rừng về phía Nam. Vào ngày 12 tháng 11, lực lượng Mỹ hoàn toàn áp đảo và tiêu diệt hết số binh sĩ Nhật còn lại trong vòng vây. Người ta đếm được có khoảng 450 đến 475 xác binh lính Nhật tại khu vực Koli Point, và chiếm được hầu hết vũ khí nặng và tiếp liệu của Shōji. Lực lượng Mỹ bị tổn thất 40 người chết và 120 người bị thương trong trận đánh này.[101]
Lực lượng Raider của Carlson đổ bộ lên vịnh Aola ngày 4 tháng 11.
Trong khi đó, vào ngày 4 tháng 11, hai đại đội thuộc Tiểu đoàn 2 Raider dưới quyền chỉ huy của Trung tá Evans Carlson đã đổ bộ bằng xuồng lên vịnh Aola Bay, cách Lunga Point 64 km (40 dặm) về phía Đông. Đơn vị của Carlson cùng với các đơn vị của Trung đoàn 147 Bộ binh có nhiệm vụ bảo vệ cho lực lượng 500 lính công binh xây dựng một sân bay tại địa điểm này. Halsey, theo đề nghị của Turner, đã chấp thuận cho xây dựng một sân bay tại vịnh Aola. Tuy nhiên, công việc xây dựng này sau đó bị hủy bỏ vào cuối tháng 11 do địa hình không phù hợp.[102]
Bài quá dài, phải cắt bớt

Hải chiến Guadalcanal

Sau thất bại trong Trận chiến sân bay Henderson, một lần nữa Lục quân Nhật vạch kế hoạch nhằm tái chiếm sân bay vào tháng 11 năm 1942, nhưng cần có thêm lực lượng tăng viện trước khi có thể tiến hành tấn công. Lục quân đã nhờ đến sự giúp đỡ của Yamamoto để chuyển giao lực lượng tăng viện cần thiết đến hòn đảo và hỗ trợ cho cuộc tấn công tiếp theo. Yamamoto đã cung cấp 11 tàu vận chuyển lớn để có thể chuyên chở lực lượng 7.000 người còn lại của Sư đoàn 38 Bộ binh, đạn dược, lương thực và trang thiết bị nặng từ Rabaul đến Guadalcanal. Ông cũng cung cấp một lực lượng tàu chiến hỗ trợ, bao gồm hai thiết giáp hạm Hiei và Kirishima, được trang bị loại đạn pháo miểng đặc biệt, sẽ bắn phá sân bay Henderson vào đêm 12-13 tháng 11 nhằm phá hủy nó cũng như các chiếc máy bay tại đây; điều đó sẽ cho phép các tàu vận tải nặng nề chậm chạp có thể đến được Guadalcanal và bốc dỡ an toàn ngày hôm sau.[105] Lực lượng tàu chiến được chỉ huy từ chiếc Hiei bởi vị Phó Đô đốc vừa được thăng cấp Hiroaki Abe.[106]
Chuẩn Đô đốc Daniel J. Callaghan.
Cùng lúc đó, vào khoảng 02 giờ 00 ngày 14 tháng 11, một lực lượng tàu tuần dương và tàu khu trục dưới quyền chỉ huy của Gunichi Mikawa xuất phát từ Rabaul đã tiến hành một đợt bắn phá xuống sân bay Henderson mà không hề bị kháng cự. Tuy nhiên, đợt bắn phá này chỉ gây ra một số thiệt hại mà không thể vô hiệu hóa sân bay hay hầu hết máy bay. Khi lực lượng của Mikawa rút lui về hướng Rabaul, đoàn tàu vận tải của Tanaka, tin rằng sân bay Henderson giờ đã bị phá hủy hay hư hỏng nặng, bắt đầu tiến vào "cái khe" để hướng đến Guadalcanal. Trong suốt ngày 14 tháng 11, máy bay từ sân bay Henderson và của Enterprise đã tấn công các con tàu của Mikawa và Tanaka, đánh chìm một tàu tuần dương hặng nặng và bảy tàu vận tải. Các phi vụ từ Henderson đã có thể cất cánh được hầu hết là nhờ sự cung cấp 488 thùng 208 lít (55 gallon) xăng 100-octane dành cho máy bay được cất dấu tại một khu vực riêng biệt dưới cánh rừng bởi thủy thủ August Martello. Đa số binh lính được cứu vớt khỏi các tàu vận tải bị đánh chìm bởi các tàu khu trục theo hộ tống của Tanaka và quay lại Shortlands. Khi trời tối, Tanaka và bốn tàu vận tải còn lại tiếp tục hành trình đến Guadalcanal trong khi lực lượng của Kondo tiến đến gần để thực hiện bắn phá sân bay Henderson.[115]
Thiết giáp hạm Mỹ Washington đang nả pháo vào thiết giáp hạm Nhật Kirishima.
Bài quá dài, phải cắt bớt

Trận Tassafaronga

Quân Nhật tiếp tục đối mặt với vấn đề cung cấp đủ tiếp liệu nhằm duy trì đạo quân của họ tại Guadalcanal. Những cố gắng chỉ sử dụng toàn tàu ngầm trong hai tuần lễ cuối tháng 11 bị thất bại do không cung cấp đủ lương thực cho lực lượng Hyakutake. Một nỗ lực riêng biệt khác nhằm xây dựng các căn cứ tại khu vực Solomon để giúp sử dụng thuận tiện các sà lan tiếp liệu đến Guadalcanal cũng bị thất bại do bị các đợt không kích Đồng Minh tiêu diệt. Vào ngày 26 tháng 11, Tập đoàn quân 17 lưu ý Imamura rằng họ đang đối mặt với khủng hoảng lương thực, khi một số đơn vị tiền phương không được tiếp lương thực trong sáu ngày, và ngay cả các đơn vị phía sau chỉ nhận được một phần ba khẩu phần thông thường. Tình huống này buộc phía Nhật phải tiếp tục sử dụng các tàu khu trục trong việc cung cấp tiếp liệu cần thiết.[119]
Chuẩn Đô đốc Raizo Tanaka
Bộ tham mưu Hạm đội 8 vạch ra kế hoạch nhằm giảm thiểu nguy cơ phơi ra của các tàu khu trục vận chuyển tiếp liệu đến Guadalcanal. Các thùng dầu hoặc gas lớn được rửa sạch rồi chất đầy lương thực hay thuốc men, với đủ không khí bên trong giúp nó nổi, rồi kết lại với nhau bằng dây thừng. Khi các tàu khu trục đi đến Guadalcanal, chúng sẽ đổi hướng nhanh trong khi dây thùng được cắt rời, và một người bơi ra biển hay xuồng có thể vớt đầu phao nổi của dây và kéo chúng vào bờ, nơi các binh sĩ có thể nhận được đồ tiếp liệu.[120]
Bài quá dài, phải cắt bớt

Nhật Bản quyết định rút lui

Ngày 12 tháng 12, Hải quân Nhật đề nghị rút khỏi Guadalcanal. Cùng lúc đó, nhiều sĩ quan tham mưu lục quân trong Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc cũng có quan điểm cho rằng mọi nỗ lực trong tương lai nhằm tái chiếm Guadalcanal đều không thể thực hiện. Một phái đoàn do Đại tá Joichiro Sanada, trưởng phòng hành quân Bộ Tổng tư lệnh dẫn đầu, đã đến thăm Rabaul vào ngày 19 tháng 12 và tham khảo Imamura cùng ban tham mưu của ông. Sau khi phái đoàn quay trở về Tokyo, Sanada đề nghị bỏ Guadalcanal.
Bài quá dài, phải cắt bớt

Trận chiến núi Austen, đồi Galloping Horse và đồi Sea Horse

Đến tháng 12Sư đoàn 1 Thủy quân Lục chiến đã mệt mỏi được rút ra để nghỉ ngơi hồi phục, và trong tháng tiếp theo, Quân đoàn 14 bắt đầu đảm trách các hoạt động tác chiến trên đảo. Quân đoàn này bao gồm Sư đoàn 2 Thủy quân Lục chiếnSư đoàn 25 Bộ binh và Sư đoàn Americal. Thiếu tướng Lục quân Alexander Patch đến thay thế Vandegrift trong nhiệm vụ chỉ huy các lực lượng Đồng Minh tại Guadalcanal, vốn giờ đây lên đến trên 50.000 người vào tháng 1 năm 1943.[129]
Bài quá dài, phải cắt bớt

Cuộc triệt thoái Ke

Vào ngày 14 tháng 1, một chuyến tàu "Tốc hành Tokyo" đưa đến Guadalcanal một tiểu đoàn hoạt động như một đơn vị bọc hậu cho cuộc triệt thoái Ke. Một sĩ quan tham mưu từ Rabaul tháp tùng đơn vị này để phổ biến cho Hyakutake quyết định rút lui. Cùng lúc đó, máy bay và tàu chiến Nhật tiến vào các vị trí chung quanh khu vực Rabaul và Bougainville nhằm chuẩn bị tiến hành cuộc triệt thoái. Tình báo Đồng Minh phát hiện ra cuộc chuyển quân của Nhật, nhưng nhận định sai lầm rằng đó là để chuẩn bị cho một cuộc tấn công khác nhằm chiếm sân bay Henderson và Guadalcanal.[132]
Tàu tuần dương Chicago bị đánh chìm ngày 30 tháng 1 trong Trận chiến đảo Rennell.
Bài quá dài, phải cắt bớt

Diễn biến tiếp theo và ảnh hưởng

Diễn biến tiếp theo

Hội nghị các tư lệnh Đồng Minh tại Guadalcanal vào tháng 8 năm 1943 để vạch kế hoạch cho cuộc tấn công tiếp theo của Đồng Minh chống quân Nhật tại quần đảo Solomon như là Chiến dịch Cartwheel.
Sau khi quân Nhật rút lui, Guadalcanal và Tulagi được phát triển thành những căn cứ chính hỗ trợ cho cuộc tiến quân của Đồng Minh ngược lên chuỗi quần đảo Solomon. Ngoài sân bay Henderson, có thêm hai đường băng được xây dựng tại Lunga Point và một sân bay dành cho máy bay ném bom được xây dựng tại Koli Point. Cảng hải quân quy mô lớn và các cơ sở hậu cần được thiết lập tại Guadalcanal, Tulagi và Florida. Điểm neo đậu tàu chung quanh Tulagi trở thành một căn cứ tiền phương quan trọng cho tàu chiến và tàu vận tải Đồng Minh hỗ trợ cho Chiến dịch quần đảo Solomon. Các đơn vị trên bộ được tập trung tại các cơ sở doanh trại quy mô lớn tại Guadalcanal trước khi được bố trí đến các chiến trường tại Solomon.[136]
Bài quá dài, phải cắt bớt

 

Ảnh hưởng

Nhiều người cho rằng Trận Midway là bước ngoặt trong chiến tranh tại Thái Bình Dương, vì đây là thắng lợi hải quân đầu tiên của Đồng Minh mang tính quyết định trước đối thủ Nhật Bản chưa hề nếm mùi chiến bại, và nó cũng ngăn chặn sự bành trướng của Đế quốc Nhật Bản về phía Đông đến Hawaii và bờ Tây Hoa Kỳ. Cho dù như thế, Nhật vẫn tiếp tục cuộc xâm lấn về phía Nam Thái Bình Dương. Thực ra, chính sách "Châu Âu trước tiên" của Hoa Kỳ thoạt tiên chỉ cho phép tiến hành các hoạt động phòng thủ chống lại sự bành trướng của Nhật, nhằm tập trung mọi nguồn lực vào việc đánh bại Đức tại Châu Âu. Tuy nhiên, sự tranh đấu của Đô đốc King cho chiến dịch chiếm đóng Guadalcanal, cũng như sự thực hiện thành công kế hoạch này, đã thuyết phục được Tổng thống Franklin D. Roosevelt rằng Mặt trận Thái Bình Dương có thể tiếp tục tấn công. Đến cuối năm 1942, rõ ràng là Nhật Bản đã thua trong chiến dịch Guadalcanal, một đòn nặng nề giáng vào kế hoạch chiến lược phòng thủ đế quốc của họ, và một chiến thắng không thể đảo ngược trong tầm tay của Đồng Minh.[138]

Bài quá dài, phải cắt bớt

No comments:

Post a Comment