Cách nay đúng 75 năm, quân đồng minh đổ bộ lên nhóm đảo
Guadalcanal đang bị Nhật chiếm giữ.
Ngày 07
tháng 08, 1943
·
1943 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Quân
đội Đồng
Minh đổ bộ lên nhóm đảo Guadalcanal nhằm
đánh bật quân đội Nhật Bản, khởi đầu Chiến dịch Guadalcanal (hình).
Chiến dịch Guadalcanal
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tháng 11 năm 1942. Lực lượng Thủy quân Lục chiến Mỹ, có lẽ thuộc Sư đoàn 2, đang nghỉ ngơi tại chiến
trường trong chiến dịch Guadalcanal.
Kết quả Thắng lợi chiến lược cho phía Đồng
Minh
Tham chiến
Anh Quốc (cư dân quần đảo Solomon)
Chỉ
huy
Lực
lượng
Tổn thất
7.100
chết 31.000
chết
4
bị bắt 1.000
bị bắt
29
tàu 38
tàu
Chiến dịch Guadalcanal, còn gọi là Trận Guadalcanal, và tên mã của
Đồng Minh là Chiến dịch Watchtower, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến
ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên
đảo Guadalcanal và khu vực phụ cận tại quần đảo Solomon của Mặt trận
Thái Bình Dương trong Chiến
tranh Thế giới thứ hai.
Guadalcanal
(indigenous name: Isatabu) is
the principal island in Guadalcanal Province of the nation of Solomon Islands, located
in the south-western
Pacific, northeast of Australia. The
island is mainly covered in dense tropical rainforest and has a mountainous interior.
Guadalcanal's position (inset)
and main towns
Việc tranh chấp diễn ra ác liệt cả trên bộ,
trên biển và trên không; chiến dịch này là cuộc tấn công lớn đầu tiên của
phe Đồng Minh chống
lại Đế quốc Nhật Bản sau một thời gian dài phòng thủ.
Vào ngày 7 tháng 8 năm 1942, lực
lượng Đồng Minh, chủ yếu là Mỹ, thực hiện đổ bộ lên các đảo Guadalcanal, Tulagi, và Florida (Nggela Sule) phía Nam quần đảo Solomon với mục
tiêu ngăn chặn quân Nhật sử dụng chúng làm căn cứ đe dọa con đường vận chuyển
từ Mỹ đến Australia và New Zealand. Đồng Minh còn định sử dụng Guadalcanal và
Tulagi như những căn cứ hỗ trợ cho chiến dịch chiếm đóng hoặc vô hiệu hóa căn
cứ chủ lực của Nhật tại Rabaul trên
đảo New Britain.
New Britain, with selected towns and volcanoes
Lực lượng Đồng Minh đã áp đảo số lượng quân
Nhật phòng thủ nhỏ bé, vốn đã chiếm đóng các đảo này từ tháng 5 năm 1942, chiếm
giữ Tulagi và Florida cùng một sân bay (sau này được đặt tên là Henderson) đang được xây dựng trên đảo Guadalcanal.
Bị bất ngờ bởi đòn tấn công của Đồng Minh,
phía Nhật Bản từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1942 đã
nhiều lần tìm cách chiếm lại sân bay Henderson. Ba trận chiến lớn trên bộ, năm
trận hải chiến lớn, và các cuộc không chiến diễn ra liên tục hầu như hàng ngày,
mà đỉnh điểm là trận Hải chiến Guadalcanal mang tính quyết định vào đầu tháng 11 năm 1942, trong đó
nỗ lực cuối cùng nhằm tăng viện đủ số lượng binh lính để chiếm lại sân bay
Henderson bị đánh bại.
Sang tháng 12 năm 1942, phía
Nhật từ bỏ mọi hy vọng tái chiếm Guadalcanal và triệt thoái các lực lượng còn lại vào ngày 7 tháng 2 năm 1943.
Chiến dịch Guadalcanal đánh dấu một chiến
thắng chiến lược đáng kể nhờ phối hợp các binh chủng bởi lực lượng Đồng Minh
đối với Nhật Bản tại mặt trận Thái Bình Dương. Quân Nhật đã đạt đến cao trào
trong sự xâm chiếm của họ tại Thái Bình Dương, và Guadalcanal đánh dấu sự
chuyển mình của Đồng Minh từ các chiến dịch phòng thủ sang tấn công chiến lược
tại mặt trận này.
Bối
cảnh
Ngày 7 tháng
12 năm 1941, Nhật Bản tấn công Hạm đội Thái Bình Dương tại Trân Châu Cảng thuộc quần đảo Hawaii.
Cuộc tấn công đã đánh bại hạm đội thiết giáp hạm Mỹ, chính thức khai mào
cuộc chiến tranh giữa hai nước. Mục tiêu ban đầu của những nhà lãnh đạo Nhật
Bản là vô hiệu hóa Hải quân Mỹ, chiếm đóng các vùng đất giàu tài nguyên thiên
nhiên và thiết lập các căn cứ quân sự chiến lược nhằm bảo vệ vòng ngoài cho Đế
quốc Nhật Bản tại châu Á và Thái Bình Dương.
Đi xa hơn các mục tiêu đó, lực lượng Nhật Bản đã chiếm
đóng Philippines, Thái
Lan, Malaya thuộc Anh, Singapore, Đông Ấn thuộc Hà Lan, đảo
Wake, quần đảo Gilbert, New
Britain và Guam.
Tham gia cùng với Mỹ trong cuộc chiến chống lại Nhật Bản là tất
cả các thế lực
Đồng Minh, nhiều nước trong số đó, bao gồm Anh Quốc, Australia và Hà Lan,
cũng bị Nhật Bản tấn công.
Nhật Bản kiểm soát khu vực
Tây Thái Bình Dương từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1942.
Guadalcanal ở phía dưới bên phải giữa bản đồ.
Hai dự tính của Nhật Bản muốn duy trì thế chủ động chiến lược và
mở rộng vành đai phòng thủ về phía Nam và Trung Thái Bình Dương đã bị ngăn trở
trong những trận hải chiến tại biển Coral và Midway.
Midway không chỉ là một chiến thắng lớn đầu tiên của phía Đồng Minh trước đối
thủ Nhật Bản chưa hề nếm mùi chiến bại, nó còn làm suy giảm đáng kể khả năng
tấn công của lực lượng tàu sân bay Nhật. Cho đến lúc này, phía Đồng Minh vẫn
còn trong thế phòng ngự tại Thái Bình Dương, nhưng những thắng lợi chiến lược
này cho họ cơ hội lấy lại quyền chủ động chiến lược từ tay quân Nhật.
Đồng Minh đã chọn quần đảo Solomon, một
vùng đất dưới quyền bảo hộ của
Anh, đặc biệt là các đảo phía Nam gồm Guadalcanal, Tulagi, và Florida như những
mục tiêu ban đầu. Hải quân Nhật đã chiếm đóng Tulagi vào tháng 5 năm 1942và xây
dựng một căn cứ thủy phi cơ gần đó. Sự lo ngại của phía Đồng Minh
gia tăng, khi vào đầu tháng 7 năm 1942, Hải
quân Nhật bắt đầu xây dựng một sân bay lớn tại Lunga Point trên
đảo Guadalcanal kế cận. Đến tháng 8 năm 1942, quân
Nhật có khoảng 900 lính hải quân trú đóng tại Tulagi và các đảo lân cận, và
2.800 người trên đảo Guadalcanal (2.200 trong số đó là lao động người Triều Tiên và các chuyên viên xây
dựng Nhật Bản dân sự). Các căn cứ này, một khi hoàn tất, sẽ bảo vệ cho căn cứ
trọng yếu của quân Nhật tại Rabaul, đe
dọa con đường tiếp tế và liên lạc của Đồng Minh đến Australia và New Zealand,
và là một khu vực tập trung quân cho chiến dịch được
dự định tấn công vào Fiji, New Caledonia và Samoa. Quân
Nhật dự định bố trí 45 máy bay tiêm kích và 60 máy bay ném bom đến Guadalcanal một khi
sân bay hoàn tất. Những máy bay này sẽ hỗ trợ trên không cho lực lượng hải quân
tiến sâu hơn vào khu vực Nam Thái Bình Dương.
Kế hoạch của Đồng Minh nhằm chiếm
đóng Nam Solomon là sáng kiến của Đô đốc Ernest King, Tổng
tư lệnh Hạm đội Hoa Kỳ. Ông
đề nghị cuộc tấn công này nhằm ngăn chặn việc quân Nhật sử dụng các hòn đảo làm
căn cứ đe dọa con đường tiếp tế giữa Hoa Kỳ và Australia, và sử dụng chúng như
những điểm xuất phát các cuộc tấn công trong tương lai. Được sự tán thành ngấm
ngầm của Tổng thống Roosevelt, King hết lòng bênh vực cho cuộc chiếm đóng
Guadalcanal. Khi Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Lục quân George
C. Marshall phản đối hoạt động trên tuyến này đồng thời đặt vấn đề ai
sẽ chỉ huy chiến dịch, King nhấn mạnh rằng Hải quân và Thủy quân Lục chiến sẽ
tự thân thực hiện chiến dịch này, và chỉ thị cho Đô đốc Chester Nimitz tiến
hành vạch kế hoạch sơ thảo. Cuối cùng thì King cũng chiến thắng trong cuộc
tranh luận, và cuộc tấn công được tiến hành dưới sự hậu thuẫn của Hội đồng Tham
mưu trưởng Liên quân.
Chiến dịch Guadalcanal được thực hiện phối hợp cùng một chiến
dịch tấn công tại New Guinea dưới
quyền chỉ huy của tướng Douglas
MacArthur nhằm chiếm lấy các quần đảo Admiralty và Bismarck, kể cả căn cứ chủ lực của Nhật tại Rabaul.
Mục tiêu cuối cùng của nó là việc Mỹ sẽ tái chiếm Philippines. Hội
đồng Tham mưu trưởng Liên quân cho thành lập Mặt trận
Nam Thái Bình Dương do Phó Đô đốc Robert L. Ghormley chỉ
huy kể từ ngày 19
tháng 6 năm 1942, để
chỉ đạo cuộc tấn công tại khu vực Solomon. Đô đốc Chester Nimitz, đặt
bộ chỉ huy tại Trân Châu Cảng, được chỉ định làm Tổng tư lệnh lực lượng Đồng
Minh tại Thái Bình Dương.
Sân bay tại Lunga Point trên đảo Guadalcanal
đang được xây dựng bởi các công nhân-nô lệ vào tháng 7 năm 1942.
Để chuẩn bị cho các hoạt động sắp tới tại Thái Bình Dương,
vào tháng 5 năm 1942, Thiếu tướng Thủy quân Lục chiếnAlexander Vandegrift được lệnh điều động Sư đoàn
1 Thủy quân Lục chiến của ông từ Hoa Kỳ đến New Zealand. Các đơn vị lục quân,
hải quân và không quân Đồng Minh khác được gửi đến để thiết lập các căn cứ tại
Fiji, Samoa, New
Hebrides và New Caledonia. Espiritu
Santo thuộc New Hebrides được chọn để đặt bộ chỉ huy và là căn
cứ chính của cuộc tấn công, vốn được đặt tên mã là Chiến dịch
Watchtower, và ngày dự định thực hiện được đặt ra là 7 tháng
8 năm 1942. Thoạt
tiên, cuộc tấn công của Đồng Minh được vạch kế hoạch nhắm vào Tulagi và quần đảo Santa Cruz, bỏ
qua Guadalcanal. Tuy nhiên, sau khi trinh sát phát hiện ra các nỗ lực xây dựng
sân bay Nhật trên đảo Guadalcanal, việc chiếm nó được bổ sung vào kế hoạch, và
cuối cùng việc đổ bộ lên Santa Cruz bị loại bỏ. Thông
qua tình báo vô tuyến, quân
Nhật có biết được sự điều động quân lực với quy mô lớn tại khu vực Nam Thái
Bình Dương, nhưng họ cho rằng Đồng Minh đang củng cố phòng thủ cho Australia và
có thể cho Port Moresby tại New Guinea.
Lực lượng tham gia Chiến dịch Watchtower, bao gồm 75
tàu chiến và tàu vận tải của cả Mỹ và Australia, được tập trung gần Fiji vào
ngày 26 tháng 7 năm 1942, và
tham gia một cuộc tổng dượt đổ bộ trước khi lên đường hướng đến Guadalcanal vào
ngày 31 tháng 7.[20]. Chỉ
huy trưởng lực lượng viễn chinh Đồng Minh tại chỗ là Phó Đô đốc Frank Fletcher, đặt
cờ hiệu của mình trên tàu sân
bay Saratoga. Chỉ huy lực lượng đổ bộ là Chuẩn Đô đốc Richmond K. Turner. Thiếu
tướng Vandegrift dẫn đầu lực lượng bộ binh Đồng Minh khoảng 16.000 người (chủ
yếu là Thủy quân Lục chiến Mỹ) để thực hiện đổ bộ.[21]
Cuộc
đổ bộ
Thời tiết xấu đã giúp cho lực lượng viễn chinh Đồng Minh tiến
gần đến Guadalcanal mà không bị quân Nhật trông thấy vào buổi sáng ngày 7 tháng
8 năm 1942.[22] Lực
lượng đổ bộ được chia thành hai nhóm, một tấn công lên Guadalcanal, và nhóm kia
vào Tulagi, Florida và các đảo lân cận.[23] Các
tàu chiến Đồng Minh tiến hành nả pháo các bãi đổ bộ trong khi máy bay từ các
tàu sân bay ném bom các vị trí của quân Nhật trên các đảo mục tiêu, và tiêu
diệt 15 thủy phi cơ Nhật tại căn cứ của chúng gần Tulagi.[24] Tulagi
và hai đảo nhỏ lân cận Gavutu và Tanambogo bị
một lực lượng 3.000 Thủy quân Lục chiến Mỹ tấn công.[25] Lực
lượng hải quân Nhật gồm 886 người trú đóng tại căn cứ hải quân và căn cứ thủy
phi cơ đã kháng cự kịch liệt cuộc tấn công của Mỹ.[26] Với
đôi chút khó khăn, Thủy quân Lục chiến Mỹ chiếm được cả ba hòn đảo; Tulagi vào
ngày 8 tháng 8, còn Gavutu và Tanambogo vào ngày 9 tháng
8.[27] Quân
Nhật phòng thủ trên các đảo bị tiêu diệt hầu như cho đến người cuối cùng, trong
khi Thủy quân Lục chiến Mỹ chịu tổn thất 122 người tử trận.[28]
Tương phản với Tulagi, Gavutu, và Tanambogo, cuộc đổ bộ lên
Guadalcanal gặp phải rất ít sự kháng cự. Lúc 09 giờ 10 phút ngày 7 tháng
8, tướng Vandegrift cùng 11.000 Thủy quân Lục chiến đổ bộ lên
Guadalcanal tại địa điểm giữa Koli Point và Lunga Point. Tiến
quân về phía Lunga Point, họ không gặp phải bất kỳ sự kháng cự nào ngoại trừ
những cơn mưa rào nhiệt đới "lộn xộn", và họ phải dừng lại nghỉ đêm
cách sân bay tại Lunga Point không đầy 900 m (1.000 yard). Ngày hôm sau, chỉ
gặp sự chống cự yếu ớt, Thủy quân Lục chiến tiến đến sông Lunga và hoàn toàn
kiểm soát sân bay lúc 16 giờ 00 phút ngày 8 tháng
8. Các đơn vị xây dựng hải quân và đơn vị chiến đấu Nhật Bản,
dưới quyền chỉ huy của Đại úy Kanae Monzen, hoảng loạn do các loạt hải pháo và
các cuộc ném bom, đã bỏ khu vực sân bay tháo chạy về phía Tây cách khoảng
5 km (3 dặm) cạnh sông Matanikau và
khu vực Point Cruz, bỏ lại phía sau lương thực, tiếp liệu, xe cộ và máy móc xây
dựng còn nguyên vẹn cùng 13 người chết.[29]
Trong khi cuộc đổ bộ đang diễn ra vào các ngày 7 và 8 tháng
8, máy bay Hải quân Nhật đặt căn cứ tại Rabaul dưới sự chỉ huy của Sadayoshi Yamada đã
nhiều lần tấn công lực lượng đổ bộ Đồng Minh, làm cháy chiếc tàu vận tải
Mỹ George F. Elliot (nó chìm hai ngày sau đó) và làm hỏng nặng
chiếc tàu khu trục Jarvis.[30] Trong
hai ngày giao chiến, phía Nhật mất 36 máy bay, trong khi các tàu sân bay Mỹ
thiệt hại 19 chiếc do cả chiến đấu lẫn tai nạn, trong đó có 14 máy bay tiêm
kích.[31]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Các
chiến dịch ban đầu
Các vị trí phòng thủ ban
đầu của Thủy quân Lục chiến Mỹ chung quanh sân bay tại Lunga Point,
Guadalcanal, ngày 12 tháng 8 năm 1942.
Sơ đồ các cuộc tấn công của Thủy quân Lục
chiến Mỹ về phía Tây sông Matanikau, ngày 19 tháng 8 năm 1942.
Lực lượng 11.000 lính Thủy quân Lục chiến trên đảo Guadalcanal
trước tiên tập trung vào việc thiết lập một ngoại vi phòng thủ chung quanh
Lunga Point và sân bay, di chuyển hàng tiếp liệu đã bốc dỡ được vào bên trong
phạm vi này, và hoàn tất việc xây dựng sân bay. Sau bốn ngày nỗ lực khẩn
trương, số hàng tiếp liệu được chuyển từ bãi đổ bộ đến các kho phân tán trong
phạm vi bảo vệ. Công việc hoàn tất sân bay được tiến hành ngay lập tức, chủ yếu
bằng các thiết bị chiếm được của quân Nhật. Vào ngày 12
tháng 8, sân bay được đặt tên là Henderson Field theo
tên của một phi công Thủy quân Lục chiến, Lofton R. Henderson, hy
sinh trong Trận Midway. Đến ngày 18
tháng 8, sân bay sẵn sàng hoạt động.[36] Lúc
đó chỉ có năm ngày lương thực được dỡ xuống từ các tàu vận chuyển, cộng với số
chiếm được từ quân Nhật, cho phép lực lượng Thủy quân Lục chiến có được 14 ngày
lương thực.[37] Để
dành dụm tiếp liệu lượng thực, các đơn vị bị giới hạn chỉ được hai bữa ăn mỗi
ngày.[38] Lực
lượng Đồng Minh còn mắc phải chứng bệnh tiêu
chảy nặng không lâu sau khi đổ bộ, cứ mỗi năm người thì có một
người mắc phải vào giữa tháng 8. Cho
dù có một số ít công nhân xây dựng người Triều Tiên ra đầu hàng, đa số người
Nhật và người Triều Tiên còn lại tập trung ngay phía Đông ngoại vi Lunga bên bờ
Tây sông Matanikau và sống sót chủ yếu nhờ vào dừa. Một trạm quan sát hải quân
Nhật cũng được phát hiện tại Taivu Point cách khoảng 35 km (22 dặm) phía
Đông ngoại vi Lunga. Vào ngày 8 tháng
8, một tàu khu trục Nhật từ Rabaul đã chuyển 113 lính thủy đến
tăng cường cho Matanikau.[39]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Trận
Tenaru
Phản ứng lại việc Đồng Minh đổ bộ lên Guadalcanal, Bộ Tổng
tư lệnh Đế quốc Nhật Bản giao cho Quân
đoàn 17 đặt căn cứ tại Rabaul dưới quyền chỉ huy của Trung tướng Harukichi Hyakutake, nhiệm vụ tái chiếm
Guadalcanal. Tập đoàn quân này được sự hỗ trợ của các đơn vị Hải quân Nhật, kể
cả Hạm đội Liên hợp dưới quyền chỉ huy của Đô
đốc Isoroku Yamamoto, đặt căn cứ tại Truk. Vào
lúc này, Quân đoàn 17 đang bận rộn tham gia hoạt động tại New Guinea nên
chỉ có ít đơn vị dự bị. Trong số đó, Lữ đoàn bộ binh 35 của Thiếu tướng Kiyotake Kawaguchi đang ở Palau, Trung
đoàn 4 bộ binh Aoba đang ở Philippines và
Trung đoàn 28 bộ binh Ichiki dưới quyền chỉ huy của Đại tá Kiyonao
Ichiki đang trên tàu vận chuyển gần đảo Guam. Các
đơn vị khác nhau lập tức bắt đầu di chuyển về phía Guadalcanal ngang qua Truk
và Rabaul, nhưng Trung đoàn Ichiki, vốn là đơn vị ở gần nhất, đã đến khu vực
này trước tiên. Một "Lực lượng thứ nhất" của đơn vị Ichiki, với
khoảng 917 binh sĩ, đã đổ bộ từ các tàu khu trục lên Taivu Point, phía Đông
ngoại vi Lunga vào ngày 19
tháng 8.[43]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Trận
chiến đông Solomon
Khi trận Tenaru kết thúc, có thêm nhiều lực lượng tăng cường
Nhật Bản sẵn sàng lên đường. Khởi hành từ Truk vào ngày 16
tháng 8 là ba tàu vận tải chậm chạp chở 1.400 binh sĩ còn lại của
Trung đoàn 28 bộ binh Ichiki và 500 lính thủy thuộc đơn vị Yokosuka 5 Đổ bộ Đặc
biệt.[45] Bảo
vệ các con tàu vận tải là 13 tàu chiến dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Raizo Tanaka, với
kế hoạch đổ bộ các lực lượng nói trên lên đảo Guadalcanal vào ngày 24
tháng 8.[46] Để
bảo vệ cho cuộc đổ bộ các lực lượng trên và để hỗ trợ cho việc tái chiếm sân
bay Henderson từ tay Đồng Minh, Yamamoto chỉ thị cho Đô đốc Chuichi
Nagumo xuất phát cùng một lực lượng tàu sân bay từ Truk vào
ngày 21 tháng 8 hướng đến khu vực Nam quần đảo
Solomon. Lực lượng của Nagumo bao gồm ba tàu sân bay và 30 tàu chiến khác.[47]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Không
chiến bên trên sân bay Henderson và tăng cường phòng thủ Lunga
Máy bay tiêm kích F4F WildcatThủy
quân Lục chiến cất cánh từ sân bay Henderson, khoảng cuối tháng 8hay đầu tháng 9 năm 1942.
Trong suốt tháng 8, một
số lượng nhỏ máy bay Mỹ và đội bay của chúng tiếp tục được tăng cường đến
Guadalcanal. Đến cuối tháng 8, có
tổng cộng 64 máy bay đủ loại đặt căn cứ tại sân bay Henderson.[49] Vào
ngày 3 tháng 9, chỉ huy trưởng Không
đoàn 1 Thủy quân Lục chiến, Chuẩn tướng Roy S. Geiger, đến
nơi cùng bộ tham mưu của ông và nắm quyền chỉ huy mọi hoạt động không lực tại
Henderson.[50] Các
trận không chiến giữa máy bay Đồng Minh tại Henderson cùng máy bay ném bom và
máy bay tiêm kích Nhật xuất phát từ Rabaul diễn ra hầu như hàng ngày. Từ
ngày 26 tháng 8 đến ngày 5 tháng
9, phía Mỹ mất khoảng 15 máy bay trong khi Nhật tổn thất khoảng
19 chiếc. Hơn phân nửa số phi công Mỹ bị bắn rơi được giải cứu trong khi đa số
thành viên đội bay Nhật bị mất tích hẳn. Chuyến bay khứ hồi kéo dài tám giờ từ
Rabaul đến Guadalcanal, với khoảng cách 1.800 km (1.120 dặm) tổng cộng, đã
ảnh hưởng nặng nề đến những nỗ lực của Nhật Bản muốn chiếm lấy ưu thế trên
không bên trên sân bay Henderson. Các trinh sát duyên hải người
Australia trên các đảo Bougainville và New Georgia thường
có thể cảnh báo sớm cho Lực lượng Đồng Minh tại Guadalcanal về các cuộc không
kích, cho phép máy bay tiêm kích Mỹ có đủ thời gian cất cánh và chiếm được vị
trí thích hợp để tấn công máy bay ném bom và máy bay tiêm kích Nhật khi chúng
bay đến. Vì vậy, không lực Nhật Bản dần dần kiệt sức tại bầu trời bên trên
Guadalcanal.[51]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Tốc hành Tokyo
Đến ngày 23 tháng
8, Lữ đoàn 35 bộ binh của Kawaguchi đến được Truk và được chất
lên các tàu vận tải chậm để đi nốt đoạn cuối của hành trình đến Guadalcanal.
Những thiệt hại xảy đến cho đoàn tàu vận tải của Tanaka trong trận chiến đông Solomon khiến
phía Nhật Bản phải cân nhắc lại việc gửi thêm lực lượng đến Guadalcanal bằng
các tàu vận tải. Thay vì vậy, những con tàu chở binh lính của Kawaguchi được
cho hướng đến Rabaul. Tại đây, họ có kế hoạch đưa người của Kawaguchi đến
Guadalcanal bằng tàu khu trục thông qua một căn cứ hải quân Nhật tại quần đảo
Shortland.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Trận
chiến đồi Edson
Trung tá Thủy quân Lục chiến Merritt
A. Edson (ảnh chụp khi ông đã được thăng
lên Thiếu tướng) chỉ
huy lực lượng Đồng Minh trong trận chiến đồi Edson
Vào ngày 7 tháng
9, Kawaguchi công bố kế hoạch tấn công của ông nhằm "đánh
bại và tiêu diệt đối phương tại vùng lân cận sân bay trên đảo
Guadalcanal". Kế hoạch tấn công của Kawaguchi chia lực lượng của ông làm
ba mũi, tiếp cận vùng ngoại vi Lunga và tung ra một cuộc tấn công bất ngờ vào
ban đêm. Lực lượng của Đại tá Oka sẽ tấn công vùng ngoại vi sân bay từ phía Tây
trong khi Lực lượng thứ hai của Ichiki, giờ đây được đổi tên thành Tiểu đoàn
Kuma, sẽ tấn công từ phía Đông. Mũi tấn công chính sẽ được thực hiện bởi lực
lượng chủ lực của Kawaguchi, với binh lực lên đến 3.000 người thuộc ba tiểu
đoàn, từ cánh rừng phía Nam vùng ngoại vi Lunga.[61] Đến
ngày 7 tháng 9, hầu hết lực lượng của Kawaguchi đã rời
Taivu hướng về phía Lunga Point dọc theo bờ biển. Có khoảng 250 lính Nhật ở lại
phía sau để bảo vệ căn cứ hậu cần của Lữ đoàn tại Taivu.[62]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Bản đồ khu vực ngoại vi Lunga tại
Guadalcanal, cho thấy những con đường tiếp cận của quân Nhật và địa điểm tấn
công trong trận đánh. Mũi tấn công của Oka ở hướng Tây (bên trái), Tiểu đoàn
Kuma tấn công từ hướng Đông (bên phải) và lực lượng chủ lực tấn công "đồi
Edson " (đồi Lunga) phía dưới phần giữa của bản đồ.
Đêm 12
tháng 9, Tiểu đoàn 1 của Kawaguchi tấn công đơn vị Raider giữa sông
Lunga và dãy đồi, buộc một đại đội Thủy quân Lục chiến phải rút lui về dãy đồi
trước khi quân Nhật dừng cuộc tấn công lúc trời sáng. Đêm tiếp theo, đối đầu
với 830 người trong lực lượng Raider của Edson là 3.000 quân trong lữ đoàn
Kawaguchi cùng một lực lượng pháo binh nhẹ. Quân Nhật bắt đầu tấn công ngay khi
trời vừa tối, Tiểu đoàn 1 của Kawaguchi tấn công sườn phải của Edson về phía
Tây dãy đồi. Sau khi chọc thủng đội hình của Thủy quân Lục chiến, cuối cùng
cuộc tấn công của tiểu đoàn bị chặn đứng bởi lực lượng Thủy quân Lục chiến
phòng thủ phần phía Bắc của dãy đồi.[67]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Tăng
viện
Trong khi quân Nhật đang tái tập trung lực lượng tại phía Tây
Matanikau, lực lượng Mỹ tập trung vào việc chống đỡ và tăng cường phòng thủ Lunga.
Vào ngày 14 tháng 9, Vandegrift cho chuyển thêm Tiểu đoàn 3
thuộc Trung đoàn 2 Thủy quân Lục chiến (3/2) từ Tulagi đến Guadalcanal. Sang
ngày 18 tháng 9, một đoàn tàu vận tải Đồng Minh đưa đến
thêm 4.157 người thuộc Lữ đoàn 3 Thủy quân Lục chiến (gồm Trung đoàn 7 Thủy
quân Lục chiến, Trung đoàn 11 và một số đơn vị hỗ trợ), 137 xe cộ, lều bạt,
nhiên lliệu máy bay, đạn dược, thực phẩm và các thiết bị công cụ đến
Guadalcanal. Sự tăng viện kịp thời này cho phép Vandegrift, bắt đầu từ
ngày 19 tháng 9, thành lập một vành đai phòng thủ liên tục
chung quanh ngoại vi Lunga. Tuy nhiên, trong khi hộ tống đoàn tàu vận tải này,
tàu sân bay Wasp bị tàu
ngầm Nhật I-19 đánh
chìm phía Đông Nam Guadalcanal, tạm thời khiến cho chỉ còn lại một tàu sân bay
Đồng Minh duy nhất (Hornet) hoạt
động tại vùng Nam Thái Bình Dương.[71] Vandegrift
cũng thay đổi một số chỉ huy cao cấp trong các đơn vị chiến đấu, điều đi khỏi
đảo nhiều sĩ quan mà theo ông không đáp ứng tiêu chuẩn thể hiện, đề bạt vào vị
trí đó nhiều sĩ quan cấp dưới từng khẳng định được mình trong chiến đấu. Một
trong số đó là Đại tá vừa được thăng cấp Merritt Edson, được
giao trách nhiệm chỉ huy Trung đoàn 5 Thủy quân Lục chiến.[72]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Các
hoạt động dọc theo sông Matanikau
Vandegrift và bộ tham mưu của ông ý thức rằng lực lượng của
Kawaguchi đã rút lui về khu vực phía Tây sông Matanikau và nhiều nhóm quân Nhật
lang thang đang tản mác trong suốt khu vực giữa ngoại vi Lunga cho đến sông
Matanikau. Vì vậy Vandegrift quyết định thực hiện một loạt các hoạt động của
các đơn vị nhỏ chung quanh thung lũng Matanikau. Mục đích của các hoạt động này
là nhằm càn quét các nhóm quân Nhật tản mác ở phía Đông Matanikau và nhằm giữ
cho nhóm quân chủ lực Nhật mất quân bình để họ không thể củng cố các vị trí quá
gần ngoại vi phòng thủ của Thủy quân Lục chiến chung quanh Lunga Point.[76]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Trận
chiến mũi Esperance
Trong suốt tuần lễ cuối cùng của tháng 9 và
tuần đầu tiên của tháng 10 năm 1942, các
chuyến "Tốc hành Tokyo" đã đưa các đơn vị thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh Lục
quân Nhật đến Guadalcanal. Hải quân Nhật hứa hẹn sẽ hỗ trợ cho kế hoạch tấn
công của Lục quân, không chỉ bằng việc vận chuyển binh lực, thiết bị và tiếp
liệu cần thiết đến hòn đảo, mà còn gia tăng cường độ ném bom sân bay Henderson
và gửi các tàu chiến đến bắn phá hòn đảo.[80]
Tàu tuần dương Mỹ Helena,
trong thành phần Lực lượng Đặc nhiệm 64 dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Norman
Scott.
Cùng lúc đó, Millard F. Harmon, Tư
lệnh lực lượng Quân đội Hoa Kỳ tại Nam Thái Bình Dương,
đã thuyết phục Ghormley rằng lực lượng Thủy quân Lục chiến trên đảo Guadalcanal
cần được tăng cường ngay để phía Đồng Minh có thể giữ vững được hòn đảo trong
cuộc tấn công sắp tới của quân Nhật được dự đoán. Vì vậy, vào ngày 8 tháng
10, 2.837 người thuộc Trung đoàn 164 Bộ binh thuộc Sư đoàn Americal Lục
quân Mỹ lên tàu tại New Caledonia thực hiện chuyến đi đến
Guadalcanal và dự định cập bến vào ngày 13
tháng 10. Để bảo vệ đoàn tàu vận tải đi đến Guadalcanal, Ghormley ra
lệnh cho Lực lượng Đặc nhiệm 64, bao gồm bốn tàu tuần dương và năm tàu khu trục
dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Norman Scott, để
đánh chặn và chống lại mọi tàu chiến Nhật có thể xuất hiện tại Guadalcanal đe
dọa đến đoàn tàu vận tải.[81]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Nã
pháo bằng thiết giáp hạm xuống Henderson
Cho dù Hải quân Mỹ chiến thắng trong trận hải chiến ngoài khơi
mũi Esperance, người Nhật tiếp tục thực hiện kế hoạch và chuẩn bị cho cuộc tấn
công lớn được dự định vào cuối tháng 10. Họ quyết định mạo hiểm một lần, không
theo quy luật chỉ sử dụng các tàu chiến nhanh để đưa người và vật tư đến đảo.
Ngày 13 tháng 10, một đoàn tàu vận tải bao gồm sáu tàu vận
tải và tám tàu khu trục hộ tống khởi hành từ quần đảo Shortland hướng đến
Guadalcanal. Đoàn tàu vận tải này chuyên chở 4.500 binh sĩ thuộc các trung đoàn
16 và 230 bộ binh, một số lính thủy, hai đại đội pháo binh hạng nặng và một đại
đội xe tăng.[84]
Để bảo vệ đoàn tàu vận tải không bị máy bay của Không lực Cactus
tấn công, Yamamoto gửi hai thiết giáp hạm từ Truk đến dội pháo
xuống sân bay Henderson. Lúc 01 giờ 33 phút ngày 14
tháng 10, các thiết giáp hạm Kongō và Haruna, được
hộ tống bởi một tàu tuần dương hạng nhẹ và chín tàu khu trục, đi đến
Guadalcanal và khai hỏa vào sân bay Henderson từ khoảng cách 16 km (17.500
yard). Trong 1 giờ và 23 phút, hai chiếc thiết giáp hạm đã bắn 973 quả đạn pháo
356 mm (14 inch) vào khu vực Lunga, hầu hết rơi trúng bên trong phạm vi
2.200 m của sân bay. Nhiều quả đạn trong số chúng là những quả đạn miểng đặc
biệt, được thiết kế để phá hủy những mục tiêu trên đất liền. Đợt bắn phá đã gây
hư hỏng nặng nề cả hai đường băng hạ cánh, đốt cháy gần hết nhiên liệu máy bay,
phá hủy 48 máy bay trong tổng số 90 chiếc của Không lực Cactus, và làm thiệt
mạng 41 trong đó có sáu phi công. Lực lượng thiết giáp hạm sau đó rút lui ngay
về Truk.[85]
Cho dù bị thiệt hại nặng nề, người của sân bay Henderson đã có
thể phục hồi một trong hai đường băng hạ cánh sau vài giờ. Một đợt tăng viện 17
máy bay SBD và 20 máy bay Wildcat từ Espiritu Santo nhanh chóng bay đến
Henderson, và máy bay vận tải của Lục quân và Thủy quân Lục chiến bắt đầu đưa
nhiên liệu từ Espiritu Santo đến Guadalcanal. Giờ đây ý thức được về một đoàn
tàu vận tải lớn của Nhật đang tiến đến gần, phía Mỹ xoay xở tìm mọi cách ngăn
chặn chúng trước khi chúng đến được Guadalcanal. Sử dụng nhiên liệu rút ra từ
những chiếc máy bay bị phá hủy và từ một kho dự trữ trong rừng lân cận, máy bay
của Không lực Cactus trong ngày 14
tháng 10 đã hai lần tấn công đoàn tàu vận tải, nhưng không gây được
thiệt hại gì.[86]
Đoàn tàu vận tải Nhật đến Tassafaronga thuộc Guadalcanal lúc nữa
đêm ngày 14 tháng 10 và bắt đầu bốc dỡ. Trong suốt
ngày 15 tháng 10, một chuỗi máy bay từ Henderson đã đến ném
bom và bắn phá các tàu vận tải đang bốc dỡ, diệt được ba tàu vận tải. Phần còn
lại của đoàn tàu khởi hành đêm hôm đó sau khi bốc dỡ tất cả binh lực và khoảng
hai phần ba thiết bị và hàng tiếp liệu. Nhiều tàu tuần dương hạng nặng của Nhật
cũng bắn phá sân bay Henderson trong đêm 14 rạng
ngày 15 tháng 10, phá hủy thêm một số máy bay của Không lực
Cactus, nhưng không gây thêm hư hỏng nào đáng kể cho sân bay.[87]
Trận chiến sân bay Henderson
Từ ngày 1 đến
ngày 17 tháng 10, Nhật đưa được 15.000 quân đến
Guadalcanal, cho phép Hyakutake có tổng cộng 20.000 người để thực hiện việc
công kích. Vì đã bị mất các cứ điểm bên bờ Đông sông Matanikau, quân Nhật cho
rằng việc tấn công vành đai phòng thủ của Mỹ dọc theo bờ biển sẽ gặp nhiều khó
khăn. Vì vậy, Hyakutake quyết định mũi tấn công chính trong kế hoạch của ông sẽ
từ phía Nam sân bay Henderson. Sư đoàn 2 Bộ binh (được tăng cường các đơn vị của
Sư đoàn 38), do Trung tướng Masao Maruyama chỉ
huy, bao gồm 7.000 người thuộc ba trung đoàn bộ binh, mỗi trung đoàn có ba tiểu
đoàn, sẽ hành quân qua rừng rậm và tấn công cứ điểm phòng thủ của Mỹ từ phía
Nam gần bờ Đông sông Lunga.[88] Ngày
tấn công ban đầu được ấn định là 22
tháng 10, sau đó đổi thành 23
tháng 10. Để thu hút sự chú ý của phía Mỹ khỏi mũi tấn công chủ yếu từ
phía Nam, lực lượng pháo binh hạng nặng cùng năm tiểu đoàn bộ binh (khoảng
2.900 người) do Thiếu tướng Tadashi Sumiyoshi chỉ
huy sẽ tấn công chu vi phòng thủ của quân Mỹ từ phía tây dọc theo hành lang bờ
biển. Nhật Bản ước lượng có 10.000 quân Mỹ trên đảo, trong khi con số thực là
khoảng 23.000 người.[89]
Bản đồ trận đánh, từ ngày 23 tháng 10 đến
ngày 26 tháng 10. Lực
lượng của Sumiyoshi tấn công từ phía Tây tại Matanikau (bên trái) trong khi Sư
đoàn 2 của Maruyama tấn công ngoại vi Lunga từ phía Nam (bên phải)
Vào ngày 12
tháng 10, một đại đội công binh Nhật Bản bắt đầu mở một con đường mòn,
được gọi là "Đường mòn Maruyama", bắt đầu từ Matanikau hướng đến phần
phía Nam của ngoại vi Lunga. Con đường dài 24 km (15 dặm) này trải qua một
trong những địa hình phức tạp nhất trên đảo Guadalcanal: nhiều sông suối, khe
sâu, đầm lầy đầy bùn, các ngọn đồi dốc đứng và rừng rậm. Từ ngày 16 đến
ngày 18 tháng 10, Sư đoàn 2 bắt đầu hành quân dọc theo con
đường mòn Maruyama.[90]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Trận chiến quần đảo Santa Cruz
Trong khi các đơn vị của Hyakutake đang tấn công ngoại phạm vi
Lunga, các tàu sân bay Nhật cùng các tàu chiến lớn khác dưới sự chỉ đạo chung
của Đô đốc Isoroku Yamamoto đã tiến đến một vị trí gần phía Nam quần đảo
Solomon. Từ nơi này, lực lượng Hải quân Nhật hy vọng tiếp chiến và đánh bại mọi
lực lượng hải quân Đồng Minh (chủ yếu là Mỹ), đặc biệt là lực lượng tàu sân
bay, có ý định phản công lại cuộc tấn công trên bộ của Hyakutake. Lực lượng hải
quân Đồng Minh trong khu vực, giờ đây dưới quyền chỉ huy của Đô đốc William Halsey, Jr., người
đã thay thế Ghormley vào ngày 18
tháng 10, cũng hy vọng sẽ giáp chiến cùng Hải quân Nhật trong trận này.
Nimitz đã thay thế Ghormley bằng Halsey sau khi kết luận rằng Ghormley quá bi
quan và thiển cận để có thể tiếp tục lãnh đạo hiệu quả các lực lượng Đồng Minh
tại khu vực Nam Thái Bình Dương.[96]
Hai lực lượng tàu sân bay đối đầu nhau vào buổi sáng ngày 26
tháng 10, sau này được biết đến như là Trận chiến quần đảo Santa Cruz. Sau
khi tung vào nhau các đợt không kích bằng máy bay trên tàu sân bay, các tàu nổi
Đồng Minh buộc phải rút lui khỏi chiến trường sau khi tàu sân bay Hornet bị
đánh chìm và chiếc Enterprise duy
nhất còn lại bị hỏng nặng. Tuy nhiên, lực lượng tàu sân bay Nhật cũng phải rút
lui do chịu tổn thất nặng về máy bay và đội bay, cũng như hư hại đáng kể cho
hai tàu sân bay. Cho dù đây là một thắng lợi chiến thuật rõ ràng cho phía Nhật
Bản xét về số lượng tàu chiến bị đánh chìm và hư hại, hầu hết những tổn thất
của các đội bay dày dạn chinh chiến của Nhật là không thể bù đắp được, trở
thành một lợi thế chiến lược lâu dài cho phía Đồng Minh, khi tổn thất về phi
công của họ trong trận này tương đối thấp. Các tàu sân bay Nhật sau đó không còn
đóng vai trò nào đáng kể trong chiến dịch này.[97]
Các hoạt động trên bộ trong tháng 11
Để tiếp tục khai thác thắng lợi sau trận chiến sân bay Henderson,
Vandegrift tung sáu tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến, sau đó còn có thêm một tiểu
đoàn Lục quân, vào một cuộc tấn công ra phía Tây Matanikau. Cuộc hành quân do
Merritt Edson chỉ huy, và mục đích của nó là chiếm Kokumbona, nơi đặt Bộ chỉ
huy của Tập đoàn quân 17, về phía Tây Point Cruz. Phòng thủ tại khu vực Point
Cruz là các đơn vị của Trung đoàn 4 Bộ binh Nhật do Nomasu Nakaguma chỉ
huy. Trung đoàn 4 bị thiếu hụt binh lực nặng nề do tổn thất trong chiến đấu,
bệnh tật vùng nhiệt đới và đói ăn.[98]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Khi lực lượng Mỹ bắt đầu di chuyển, Shōji và binh lính của ông
cũng bắt đầu đến Koli Point. Bắt đầu từ ngày 8 tháng
11, lực lượng Mỹ dự định bao vây lực lượng của Shōji tại đồi
Gavaga gần Koli Point. Trong khi đó, Hyakutake ra lệnh cho Shōji bỏ các vị trí
của mình tại Koli để hội quân tại Kokumbona trong khu vực Matanikau. Một địa
hình đồi thấp và đầm lầy ngăn cách sườn phía Nam của phòng tuyến phía Mỹ. Từ
ngày 9 đến ngày 11
tháng 11, Shōji cùng khoảng 2.000 đến 3.000 binh sĩ của mình đã thoát
được vào rừng về phía Nam. Vào ngày 12
tháng 11, lực lượng Mỹ hoàn toàn áp đảo và tiêu diệt hết số binh sĩ Nhật
còn lại trong vòng vây. Người ta đếm được có khoảng 450 đến 475 xác binh lính
Nhật tại khu vực Koli Point, và chiếm được hầu hết vũ khí nặng và tiếp liệu của
Shōji. Lực lượng Mỹ bị tổn thất 40 người chết và 120 người bị thương trong trận
đánh này.[101]
Trong khi đó, vào ngày 4 tháng
11, hai đại đội thuộc Tiểu đoàn 2 Raider dưới quyền chỉ huy của
Trung tá Evans Carlson đã
đổ bộ bằng xuồng lên vịnh Aola Bay, cách Lunga Point 64 km (40 dặm) về
phía Đông. Đơn vị của Carlson cùng với các đơn vị của Trung đoàn 147 Bộ binh có
nhiệm vụ bảo vệ cho lực lượng 500 lính công binh xây dựng một sân bay tại địa
điểm này. Halsey, theo đề nghị của Turner, đã chấp thuận cho xây dựng một sân
bay tại vịnh Aola. Tuy nhiên, công việc xây dựng này sau đó bị hủy bỏ vào
cuối tháng 11 do địa hình không phù hợp.[102]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Hải chiến Guadalcanal
Sau thất bại trong Trận chiến sân bay Henderson, một
lần nữa Lục quân Nhật vạch kế hoạch nhằm tái chiếm sân bay vào tháng 11 năm 1942, nhưng
cần có thêm lực lượng tăng viện trước khi có thể tiến hành tấn công. Lục quân
đã nhờ đến sự giúp đỡ của Yamamoto để chuyển giao lực lượng tăng viện cần thiết
đến hòn đảo và hỗ trợ cho cuộc tấn công tiếp theo. Yamamoto đã cung cấp 11 tàu
vận chuyển lớn để có thể chuyên chở lực lượng 7.000 người còn lại của Sư đoàn
38 Bộ binh, đạn dược, lương thực và trang thiết bị nặng từ Rabaul đến
Guadalcanal. Ông cũng cung cấp một lực lượng tàu chiến hỗ trợ, bao gồm hai
thiết giáp hạm Hiei và Kirishima, được
trang bị loại đạn pháo miểng đặc biệt, sẽ bắn phá sân bay Henderson vào
đêm 12-13 tháng 11 nhằm phá hủy nó cũng như các chiếc
máy bay tại đây; điều đó sẽ cho phép các tàu vận tải nặng nề chậm chạp có thể
đến được Guadalcanal và bốc dỡ an toàn ngày hôm sau.[105] Lực
lượng tàu chiến được chỉ huy từ chiếc Hiei bởi vị Phó Đô đốc
vừa được thăng cấp Hiroaki Abe.[106]
Cùng lúc đó, vào khoảng 02 giờ 00 ngày 14
tháng 11, một lực lượng tàu tuần dương và tàu khu trục dưới quyền chỉ
huy của Gunichi Mikawa xuất phát từ Rabaul đã tiến hành một đợt bắn phá xuống
sân bay Henderson mà không hề bị kháng cự. Tuy nhiên, đợt bắn phá này chỉ gây
ra một số thiệt hại mà không thể vô hiệu hóa sân bay hay hầu hết máy bay. Khi
lực lượng của Mikawa rút lui về hướng Rabaul, đoàn tàu vận tải của Tanaka, tin
rằng sân bay Henderson giờ đã bị phá hủy hay hư hỏng nặng, bắt đầu tiến vào
"cái khe" để hướng đến Guadalcanal. Trong suốt ngày 14
tháng 11, máy bay từ sân bay Henderson và của Enterprise đã
tấn công các con tàu của Mikawa và Tanaka, đánh chìm một tàu tuần dương hặng
nặng và bảy tàu vận tải. Các phi vụ từ Henderson đã có thể cất cánh được hầu
hết là nhờ sự cung cấp 488 thùng 208 lít (55 gallon) xăng 100-octane dành cho
máy bay được cất dấu tại một khu vực riêng biệt dưới cánh rừng bởi thủy thủ
August Martello. Đa số binh lính được cứu vớt khỏi các tàu vận tải bị đánh chìm
bởi các tàu khu trục theo hộ tống của Tanaka và quay lại Shortlands. Khi trời
tối, Tanaka và bốn tàu vận tải còn lại tiếp tục hành trình đến Guadalcanal
trong khi lực lượng của Kondo tiến đến gần để thực hiện bắn phá sân bay
Henderson.[115]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Trận Tassafaronga
Quân Nhật tiếp tục đối mặt với vấn đề cung cấp đủ tiếp liệu nhằm
duy trì đạo quân của họ tại Guadalcanal. Những cố gắng chỉ sử dụng toàn tàu
ngầm trong hai tuần lễ cuối tháng 11 bị thất bại do không cung cấp đủ
lương thực cho lực lượng Hyakutake. Một nỗ lực riêng biệt khác nhằm xây dựng
các căn cứ tại khu vực Solomon để giúp sử dụng thuận tiện các sà lan tiếp liệu
đến Guadalcanal cũng bị thất bại do bị các đợt không kích Đồng Minh tiêu diệt.
Vào ngày 26 tháng 11, Tập đoàn quân 17 lưu ý Imamura rằng họ
đang đối mặt với khủng hoảng lương thực, khi một số đơn vị tiền phương không
được tiếp lương thực trong sáu ngày, và ngay cả các đơn vị phía sau chỉ nhận
được một phần ba khẩu phần thông thường. Tình huống này buộc phía Nhật phải
tiếp tục sử dụng các tàu khu trục trong việc cung cấp tiếp liệu cần thiết.[119]
Chuẩn Đô đốc Raizo Tanaka
Bộ tham mưu Hạm đội 8 vạch ra kế hoạch nhằm giảm thiểu nguy cơ
phơi ra của các tàu khu trục vận chuyển tiếp liệu đến Guadalcanal. Các thùng
dầu hoặc gas lớn được rửa sạch rồi chất đầy lương thực hay thuốc men, với đủ
không khí bên trong giúp nó nổi, rồi kết lại với nhau bằng dây thừng. Khi các
tàu khu trục đi đến Guadalcanal, chúng sẽ đổi hướng nhanh trong khi dây thùng
được cắt rời, và một người bơi ra biển hay xuồng có thể vớt đầu phao nổi của
dây và kéo chúng vào bờ, nơi các binh sĩ có thể nhận được đồ tiếp liệu.[120]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Nhật Bản quyết định rút lui
Ngày 12
tháng 12, Hải quân Nhật đề nghị rút khỏi Guadalcanal. Cùng lúc đó, nhiều
sĩ quan tham mưu lục quân trong Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc cũng
có quan điểm cho rằng mọi nỗ lực trong tương lai nhằm tái chiếm Guadalcanal đều
không thể thực hiện. Một phái đoàn do Đại tá Joichiro Sanada,
trưởng phòng hành quân Bộ Tổng tư lệnh dẫn đầu, đã đến thăm Rabaul vào
ngày 19 tháng 12 và tham khảo Imamura cùng ban tham
mưu của ông. Sau khi phái đoàn quay trở về Tokyo, Sanada đề nghị bỏ
Guadalcanal.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Trận chiến núi Austen, đồi Galloping Horse và đồi Sea Horse
Đến tháng 12, Sư đoàn
1 Thủy quân Lục chiến đã mệt mỏi được rút ra để nghỉ ngơi hồi phục, và trong
tháng tiếp theo, Quân đoàn 14 bắt
đầu đảm trách các hoạt động tác chiến trên đảo. Quân
đoàn này bao gồm Sư đoàn
2 Thủy quân Lục chiến, Sư đoàn
25 Bộ binh và Sư đoàn Americal. Thiếu
tướng Lục quân Alexander Patch đến
thay thế Vandegrift trong nhiệm vụ chỉ huy các lực lượng Đồng Minh tại
Guadalcanal, vốn giờ đây lên đến trên 50.000 người vào tháng 1 năm 1943.[129]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Cuộc triệt thoái Ke
Vào ngày 14
tháng 1, một chuyến tàu "Tốc hành Tokyo" đưa đến Guadalcanal
một tiểu đoàn hoạt động như một đơn vị bọc hậu cho cuộc triệt thoái Ke.
Một sĩ quan tham mưu từ Rabaul tháp tùng đơn vị này để phổ biến cho Hyakutake
quyết định rút lui. Cùng lúc đó, máy bay và tàu chiến Nhật tiến vào các vị trí
chung quanh khu vực Rabaul và Bougainville nhằm chuẩn bị tiến hành cuộc triệt
thoái. Tình báo Đồng Minh phát hiện ra cuộc chuyển quân của Nhật, nhưng nhận
định sai lầm rằng đó là để chuẩn bị cho một cuộc tấn công khác nhằm chiếm sân bay
Henderson và Guadalcanal.[132]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Diễn
biến tiếp theo và ảnh hưởng
Diễn biến
tiếp theo
Hội nghị các tư lệnh Đồng Minh tại
Guadalcanal vào tháng 8 năm 1943 để vạch kế hoạch cho cuộc tấn công tiếp theo của Đồng
Minh chống quân Nhật tại quần đảo Solomon như là Chiến dịch
Cartwheel.
Sau khi quân Nhật rút lui, Guadalcanal và Tulagi được phát triển
thành những căn cứ chính hỗ trợ cho cuộc tiến quân của Đồng Minh ngược lên
chuỗi quần đảo Solomon. Ngoài sân bay Henderson, có thêm hai đường băng được
xây dựng tại Lunga Point và một sân bay dành cho máy bay ném bom được xây dựng
tại Koli Point. Cảng hải quân quy mô lớn và các cơ sở hậu cần được thiết lập
tại Guadalcanal, Tulagi và Florida. Điểm neo đậu tàu chung quanh Tulagi trở
thành một căn cứ tiền phương quan trọng cho tàu chiến và tàu vận tải Đồng Minh
hỗ trợ cho Chiến
dịch quần đảo Solomon. Các đơn vị trên bộ được tập trung tại các cơ sở doanh trại quy
mô lớn tại Guadalcanal trước khi được bố trí đến các chiến trường tại Solomon.[136]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Ảnh hưởng
Nhiều người cho rằng Trận
Midway là bước ngoặt trong chiến tranh tại Thái Bình Dương, vì
đây là thắng lợi hải quân đầu tiên của Đồng Minh mang tính quyết định trước đối
thủ Nhật Bản chưa hề nếm mùi chiến bại, và nó cũng ngăn chặn sự bành trướng của
Đế quốc Nhật Bản về phía Đông đến Hawaii và bờ Tây Hoa Kỳ. Cho dù như thế, Nhật
vẫn tiếp tục cuộc xâm lấn về phía Nam Thái Bình Dương. Thực ra, chính sách
"Châu Âu trước tiên"
của Hoa Kỳ thoạt tiên chỉ cho phép tiến hành các hoạt động phòng thủ chống lại
sự bành trướng của Nhật, nhằm tập trung mọi nguồn lực vào việc đánh bại Đức tại Châu Âu. Tuy
nhiên, sự tranh đấu của Đô đốc King cho chiến dịch chiếm đóng Guadalcanal, cũng
như sự thực hiện thành công kế hoạch này, đã thuyết phục được Tổng thống Franklin D. Roosevelt rằng Mặt trận Thái Bình
Dương có thể tiếp tục tấn công. Đến cuối năm 1942, rõ
ràng là Nhật Bản đã thua trong chiến dịch Guadalcanal, một đòn nặng nề giáng
vào kế hoạch chiến lược phòng thủ đế quốc của họ, và một chiến thắng không thể
đảo ngược trong tầm tay của Đồng Minh.[138]
Bài quá dài, phải cắt bớt
No comments:
Post a Comment