Cách nay đúng 556 năm, Kha Luân Bố bắt đầu chuyến thám hiểm
Mỹ châu.
Ngày 03
tháng 08, 1492
·
1492 – Cristoforo Colombo khởi hành từ Palos de la Frontera, Tây Ban Nha trong hành trình
viễn dương đầu tiên của ông.
Cristoforo Colombo
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chân
dung Cristoforo Colombo do Ridolfo Ghirlandaio vẽ sau khi ông đã
chết. Hiện chưa có tranh chân dung gốc của ông.
Quốc gia còn tranh cãi
Tên khác Genoese: Christoffa Corombo
Tiếng Ý: Cristoforo Colombo
Tiếng Catalunya: Cristòfor Colom
Tiếng Tây Ban Nha: Cristóbal Colón
Tiếng Bồ Đào Nha: Cristóvão Colombo
Tiếng Latinh: Christophorus Columbus
Tiếng Ý: Cristoforo Colombo
Tiếng Catalunya: Cristòfor Colom
Tiếng Tây Ban Nha: Cristóbal Colón
Tiếng Bồ Đào Nha: Cristóvão Colombo
Tiếng Latinh: Christophorus Columbus
Chữ ký
Sinh khoảng năm 1450, Cristoforo Colombo được thể hiện ở đây trong bức chân dung do Alejo Fernándõ vẽ giai đoạn 1505–1536. Ảnh chụp của nhà sử học Manuel Rosa
Cristoforo Colombo (tiếng Tây Ban Nha: Cristóbal Colón; khoảng 1451 – 20 tháng 5, 1506) là
một nhà
hàng hải người nước Cộng hòa Genova và một đô đốc của các vị Quân chủ Công giáo Tây Ban Nha, mà những chuyến vượt Đại Tây Dương của ông đã mở ra những cuộc thám hiểm Châu Mỹ cũng
như quá trình thực dân hoá của Châu Âu. Ông
thường được coi là một người dân Genova, nguồn
gốc xuất thân là người Do Thái di cư như bao người khác ở thế kỷ 15 - 16.
Vùng lãnh thổ của nước Cộng hòa Genoa (khu vực ảnh
hưởng kinh tế được thể hiện bằng màu hồng) xung quanh bờ biển Địa Trung Hải và
Biển Đen, 1400, kể từ sau Bộ luật
Latinus Parisinus (1395).
Lịch sử coi chuyến đi đầu tiên năm 1492 của
ông có tầm quan trọng lớn, dù thực tế ông không đặt chân tới lục địa cho
tới tận chuyến thám hiểm thứ ba năm 1498. Tương tự, ông không phải là nhà thám hiểm đầu tiên
của châu Âu tới châu Mỹ, bởi vì đã có những ghi chép về tiếp xúc xuyên Đại Tây Dương của châu Âu trước năm 1492. Có rất nhiều bằng chứng về việc
người Na-uy thời trung cổ đã đặt chân đến và thiết lập nên các thuộc địa ở châu
Mỹ. Tuy nhiên, chuyến đi của Colombo diễn ra trong thời
điểm chủ nghĩa đế quốc quốc gia và sự cạnh tranh kinh tế giữa các nước đang phát triển tìm cách kiếm của cải từ việc thành lập những con đường thương mại và thuộc địa đang nổi lên. Vì thế, giai đoạn trước năm 1492 được
coi là giai đoạn Tiền Colombo,
và thời gian diễn ra sự kiện này (Ngày
Colombo) thường được kỷ niệm tại toàn thể châu
Mỹ, Tây Ban Nha và Ý.
Thân thế
Nhà nghiên cứu Manuel da Silva Rosa cho rằng Colombo là một
hoàng tử, con trai của vua Ba Lan Vladislav III.
Nhiều thuyết cho rằng Colombo sinh ra trong một gia đình công
nhân ở nước Cộng hòa Genova.
Thời gian trước những
cuộc thám hiểm
Các lý
thuyết hàng hải
Từ lâu Châu Âu đã
có những con đường giao thương an toàn tới Trung Quốc và Ấn Độ— nơi
cung cấp các mặt hàng giá trị như tơ lụa và gia vị —
từ thời Đế chế Mông Cổ nắm quyền bá chủ (Pax Mongolica,
hay "Hòa bình Mông Cổ"). Với sự sụp đổ của Constantinopolis vào
tay những người Hồi giáo năm 1453, con đường bộ dẫn tới châu Á không còn an toàn
nữa. Các thủy thủ Bồ Đào Nha phải đi về phía nam vòng quanh châu Phi để tới
châu Á. Colombo có một ý tưởng khác. Tới những năm 1480, ông đã phát triển một
kế hoạch đi tới Ấn Độ (Indies) (sau này dùng để chỉ tất cả vùng phía nam và
phía đông châu Á) bằng cách đi thẳng về phía tây xuyên qua "Đại Dương"
(Đại Tây Dương).
Thỉnh thoảng có ý kiến cho rằng Colombo đã gặp nhiều khó khăn
khi vận động tài trợ cho kế hoạch của mình bởi vì những người châu Âu tin
rằng Trái Đất là phẳng. Trên
thực tế, có ít người ở thời đại ấy tin vào chuyến đi của Colombo (và rõ ràng
không có thủy thủ hay nhà hàng hải nào) tin vào điều đó chỉ vì khoảng cách giữa
2 lục địa vào thời đó quá xa để mà tàu bè có thể mang theo đầy đủ thức ăn và
nước uống. Đa số mọi người đều đồng ý rằng Trái Đất là một hình cầu. Những lý
luận của Colombo dựa trên chu vi của hình cầu đó.
Ở thời Alexandria cổ, Eratosthenes (276-194
TCN) đã tính toán chính xác chu vi Trái
Đất, và
từ trước đó vào năm 322 TCN Aristotle đã
sử dụng các quan sát để suy luận rằng Trái Đất không phẳng. Đa số các học giả
đều chấp nhận lý thuyết của Ptolemaeus rằng khối lượng đất của Trái Đất (đối
với người châu Âu ở thời gian đó, gồm cả Âu Á và châu Phi) chiếm 180 độ khối
cầu Trái Đất, còn 180 độ là nước.
Eratosthenes (tiếng Hy Lạp: Ερατοσθένης;
276 TCN – 194 TCN) là một nhà toán học, địa lý và thiên văn người Hy Lạp. Những người cùng thời
với ông gọi ông là "Beta" do ông là người nổi tiếng thứ hai trên thế
giới vào thời đó trong nhiều lĩnh vực.
Aristoteles (tiếng Hy Lạp cổ đại: Ἀριστοτέλης [aristotélɛːs], Aristotélēs; phiên âm trong tiếng
Việt là Aritxtốt; 384 – 322 TCN) là một nhà triết học và bác học thời Hy Lạp cổ đại, học trò của Platon và thầy dạy của Alexandros Đại đế.
Claudius Ptolemaeus (tiếng Hy Lạp: Κλαύδιος Πτολεμαῖος Klaudios Ptolemaios), hoặc một cách đơn giản là Ptolemaeus,
Ptolemy hay Ptolémée hay Ptôlêmê, (khoảng 100-178) là một nhà bác học Hy Lạp xuất xứ từ Tebaida, học hành và làm việc tại Alexandria. Ông viết
nhiều tác phẩm trong các lĩnh vực như toán học, thiên văn học, địa lý và nhạc.
Tuy nhiên, Colombo lại tin vào những tính toán của Marinus xứ Týros rằng
đất chiếm 225 độ, nước chỉ chiếm 135 độ. Hơn nữa Colombo tin rằng 1 độ biểu
hiện một khoảng cách ngắn hơn trên bề mặt Trái Đất so với khoảng cách mọi người
thường tin. Cuối cùng ông đọc các bản đồ, lấy tỷ lệ theo dặm Ý (1.238 mét). Chấp nhận
chiều dài một độ là 56⅔ dặm, từ những bản ghi chép của Alfraganus, vì
thế ông tính ra chu vi Trái Đất tối đa là 25.255 kilômét, và khoảng cách
từ quần đảo Canary tới Nhật Bản là
3.000 dặm Ý (3.700 km). Colombo không nhận ra rằng Alfraganus đã sử dụng
dặm Ả rập còn dài hơn nữa, tới khoảng 1.830 mét. Tuy nhiên, ông không phải là
người duy nhất "muốn có" Trái Đất nhỏ. Một hình ảnh có ấn tượng sâu
sắc về Trái Đất thực sự trong đầu ông đã được thể hiện trong một quả địa cầu
"Erdapfel"
do Martin Behaim hoàn
thành vào năm 1492 tại Nürnberg, Đức.
Abū al-ʿAbbās Aḥmad ibn Muḥammad ibn Kathīr
al-Farghānī. (800/805-870) also known as Alfraganus in
the West, was a Persian astronomer in
the Abbasid court in Baghdad,
and one of the most famous astronomers in the 9th century. The lunar
crater Alfraganus is named after him.
Vị trí của quần
đảo Canaria trong Tây Ban Nha
Vấn đề Colombo phải đương đầu là các chuyên gia không chấp nhận
những ước tính khoảng cách tới Ấn Độ của ông. Chu vi thực của Trái Đất khoảng
40.000 km và khoảng cách từ Đảo Canary tới Nhật Bản là khoảng 19.600
kilô mét. Không con tàu nào ở thế kỷ 15 có
thể mang đủ lương thực và nước ngọt để đi từ Đảo Canary tới Nhật Bản. Đa số các
thủy thủ và nhà hàng hải châu Âu kết luận một cách chính xác rằng, những thủy
thủ từ châu Âu đi về hướng tây để tới châu Á sẽ
chết vì đói khát trước khi tới nơi.
Họ đã đúng, nhưng Tây Ban
Nha, chỉ vừa mới thống nhất sau cuộc hôn nhân của Ferdinand và
Isabella lại muốn liều lĩnh để có lợi thế thương mại với Đông Ấn trước các nước
châu Âu khác. Colombo đã hứa hẹn điều đó với họ.
Những tính toán của Colombo về chu vi Trái Đất và khoảng cách từ
quần đảo Canary tới Nhật Bản không chính xác. Nhưng hầu như mọi người châu Âu
đều sai lầm khi cho rằng khoảng cách đại dương giữa châu Âu và châu Á là không
thể vượt qua. Dù Colombo đến khi chết vẫn cho rằng mình đã mở ra một con đường
hàng hải trực tiếp tới châu Á, trên thực tế ông đã lập ra một con đường biển
giữa châu Âu và châu Mỹ. Chính con đường tới châu Mỹ này, chứ không phải con
đường tới Nhật Bản đã
mang lại lợi thế cạnh tranh cho Tây Ban Nha để trở thành một đế chế thương mại.
Tìm nguồn
tài trợ
Colombo lần đầu đệ trình kế hoạch của mình ra trước triều
đình Bồ Đào Nha năm 1485. Các
chuyên gia của nhà vua cho rằng con đường đó dài hơn ước đoán của Colombo
(khoảng cách trên thực tế còn dài hơn nữa), và khước từ yêu cầu của Colombo.
Sau đó ông tìm cách tìm kiếm hậu thuẫn từ phía triều đình Ferdinand II ở Aragon và Isabella I tại
Castile, những người đã thống nhất đế chế Tây Ban Nha rộng lớn nhất sau khi kết
hôn và cùng cai trị với nhau.
Sau bảy năm vận
động ở triều đình Tây Ban Nha, nơi ông được trả một khoản lương để không mang kế hoạch của mình đi nơi khác, cuối cùng ông
đã thành công năm 1492. Ferdinand và Isabella vừa chinh phục Granada, thành
trì cuối cùng của người Hồi giáo trên bán đảo Iberia, và họ đã tiếp kiến Colombo
tại Córdoba, trong
vương quốc hay lâu đài Alcázar.
Isabel nghe theo lời cha xưng tội của mình bác bỏ đề xuất của Colombo, ông ra
đi trong thất vọng thì Ferdinand can thiệp. Sau đó Isabel gửi một toán lính tới
tìm ông và Ferdinand sau này đã xứng đáng với lời ca ngợi là "nguyên nhân
chủ yếu khiến những hòn đảo đó được khám phá". Vua Ferdinand được cho là
đã "hết kiên nhẫn" về vấn đề này, nhưng điều này không được chứng
minh.
The Iberian Peninsula /aɪˈbɪəriən pəˈnɪnsjʊlə/,[a] also known as Iberia /aɪˈbɪəriə/,[b] is located in the
southwest corner of Europe.
Khoảng một nửa số tiền tài trợ tới từ các nhà đầu tư tư nhân Ý
mà Colombo đã có quan hệ từ trước. Vì đã kiệt quệ tài chính sau chiến dịch
Granada, triều đình cho phép vị quan coi ngân khố lấy vốn từ nhiều nguồn khác
nhau của hoàng gia bên trong các doanh nghiệp. Colombo được phong chức "Đô
đốc các Đại dương" và sẽ nhận được một phần trong mọi khoản lợi nhuận. Các
điều khoản hợp đồng của ông khá ngớ ngẩn, nhưng chính con trai ông sau này đã
viết, triều đình không thực sự mong đợi ông quay trở về.
First voyage. Modern place names in black,
Columbus's place names in blue
The voyages of Christopher Columbus
Cuối đời
Một bức tượng chiếc
Santa Maria, chiếc tàu chính của Colombo trong chuyến thám hiểm đầu tiên. Tượng
được đặt tại Nhà Colombo tại Valladolid, Tây Ban Nha, thành phố nơi Colombo qua đời.
Trong khi Colombo luôn coi việc phi tín ngưỡng là một trong
những nguyên nhân dẫn tới các cuộc thám hiểm của ông, thì về cuối đời ông ngày
càng tin vào tôn giáo. Ông tuyên bố mình nghe thấy những giọng nói thần thánh,
kêu gọi tiến hành một cuộc thập tự chinh mới để chiếm Jerusalem,
thường mặc đồ của dòng thánh Franciscan, và
miêu tả những cuộc thám hiểm của ông là "thiên đường" như một phần kế
hoạch của Chúa nhằm dẫn tới Sự phán
xét cuối cùng và sự chấm dứt Thế giới.
Trong những năm cuối đời, Colombo đã yêu cầu triều đình Tây Ban
Nha trao cho ông 10% lợi nhuận thu được từ những vùng đất mới, như những thỏa
thuận trước đó. Bởi vì ông đã không còn giữ chức toàn quyền, triều đình cho
rằng họ không phải tuân theo những điều khoản trong hợp đồng đó nữa, và từ chối
những yêu cầu của ông. Sau này gia đình ông đã kiện đòi một phần lợi nhuận
trong thương mại với châu Mỹ nhưng đã hoàn toàn thua cuộc 50 năm sau.
Mộ Colombo tại thánh đường Sevilla. Mộ có bốn
bức tượng các vị vua tượng trưng cho các Vương quốc Castile, Leon, Aragon, và Navarre.
Ngày 20 tháng
5, 1506, Colombo qua đời tại Valladolid, trong
tình trạng khá giàu có nhờ số vàng đã thu thập được ở Hispaniola. Ông vẫn tin
rằng những chuyến đi của ông chạy dọc theo bờ biển phía đông châu Á. Sau khi
chết, xác ông được excarnation—thịt
được bỏ đi chỉ còn lại xương. Thậm chí sau khi chết, những chuyến đi của ông
vẫn tiếp diễn: đầu tiên ông được chôn tại
Valladolid và sau đó tại tu viện La Cartuja ở Sevilla, theo
mong muốn của con trai ông Diego, người
từng làm toàn quyền Hispaniola, di hài ông được chuyển về Santo
Domingo năm 1542.
Năm 1795, Pháp chiếm vùng này và ông lại được đưa tới La Habana. Sau
khi Cuba giành độc lập sau cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ năm
1898, di hài ông lại được đưa về Thánh đường Sevilla, và
được đặt trong một ngôi mộ cầu kỳ.
Tuy nhiên, một hộp chì có khắc chữ "Don Cristoforo
Colombo" và chứa các phần xương của ông cùng một viên đạn đã được khám phá
tại Santo Domingo năm 1877. Để bác bỏ những giả thuyết cho rằng di hài giả của
ông đã được chuyển tới La Habana và rằng Colombo vẫn ở yên trong thánh đường
Santo Domingo, các mẫu DNA đã được lấy tháng 6 năm 2003 (History Today tháng
8 năm 2003). Kết quả thông báo vào tháng 5 năm 2006 cho thấy ít nhất một phần
di hài Colombo vẫn nằm lại Sevilla, nhưng chính quyền Santo Domingo không cho
phép xét nghiệm mẫu di hài họ đang nắm giữ.
Nguồn gốc quốc tịch
Có nhiều giả thuyết về nguồn gốc quốc tịch của ông, gồm:
Nguồn gốc
Genoa
Trong cuốn Christopher Columbus, Xuất bản phẩm của
Đại học Okla. (1987), trang 10-11, Gianni Granzotto đã cung cấp những thông tin
sau do những người cùng thời với Colombo viết.
·
Pietro Martire [Peter Martyr], một người Lombard, là người đầu
tiên viết niên biểu của Colombo và đã ở Barcelona khi Colombo quay trở về sau
chuyến thám hiểm đầu tiên. Trong bức thư của ông đề ngày 14 tháng 5, 1493, gửi
Giovanni Borromeo, ông đã coi Colombo là người Ligurian [vir Ligur],
Liguria là vùng có Genoa.
·
Một bản tham khảo, từ năm 1492 của một người chép thuê trong triều
đình Galindez, đã coi Colombo là "Cristóbal Colón, genovés."
·
Trong cuốn Lịch sử các vị vua Cơ đốc giáo, Andrés
Bernaldez đã viết: "Colombo là một người đến từ vùng Genoa."
·
Trong cuốn Tổng quan và Lịch sử Tự nhiên Ấn Độ, Bartolomé
de Las Casas xác nhận "quốc tịch Genoa" của ông;
·
và trong một cuốn sách cùng tên, Gonzalo de Fernández de Oviedo
đã viết rằng Colombo "có nguồn gốc từ tỉnh Liguria."
·
Antonio Gallo, Agostino Giustiniani, và Bartolomeo Serraga đã viết
rằng Colombo là người Genoa.
Nhà sử học Samuel Eliot Morison, trong
cuốn sách "Đô đốc của Đại Dương" của mình, đã lưu ý rằng nhiều tài
liệu hợp pháp tồn tại chứng minh nguồn gốc Genoa của Colombo, cha ông Domenico,
và các anh/em trai Bartolomeo và Giacomo (Diego).
Samuel Eliot Morison (July 9, 1887 – May 15, 1976) was an American historian
noted for his works of maritime history and
American history that were both authoritative and popular. He received his
Ph.D. from Harvard University in 1912, and taught history at the university for 40
years.
Những tài liệu này được các công chứng viên viết bằng tiếng La
tinh, và có giá trị hợp pháp trước các triều đình Genoa. Khi các công chứng
viên qua đời, các tài liệu của họ được chuyển cho văn khố Cộng hòa Genoa. Các
tài liệu, nằm yên không được khám phá cho tới tận thế kỷ 19 khi những nhà sử
học Italia xem xét các văn khố đó, trở thành một phần của Raccolta
Colombiana. Ở trang 14, Morison viết:
Bên cạnh những tài liệu mà chúng ta có thể lượm lặt được những sự
kiện thực tế về cuộc sống thời trẻ của Colombo, ta còn có những tài liệu khác
xác định rằng Nhà thám hiểm là con trai của người thợ dệt len Domenico, dù khả
năng này còn bị nghi ngờ. Ví dụ, Domenico có một anh/em trai là Antonio, giống
như ông cũng là một thành viên được kính trọng trong tầng lớp trung lưu thấp tại
Genoa. Antonio có ba con trai: Matteo, Amigeto và Giovanni, người thường được gọi
là Giannetto (tên Genoa tương tự "Johnny"). Giannetto, cũng như
Christopher, đã rời bỏ một công việc buồn tẻ để ra biển. Năm 1496 ba anh em
trai gặp gỡ nhau trong một phòng công chứng tại Genoa và đồng ý rằng Johnny phải
tới Tây Ban Nha và tìm kiếm người anh họ lớn nhất "Don Cristoforo de
Colombo, Đô đốc của Nhà Vua Tây Ban Nha," mỗi người chịu một phần ba chi
phí chuyến đi. Chuyến đi tìm việc này rất thành công. Đô đốc đã trao cho Johnny
quyền chỉ huy một tàu buồm nhỏ trong chuyến viễn du lần thứ ba tới châu Mỹ, và
giao phó cho ông nhiều việc cơ mật.
Những ghi chép khác, ví dụ như tiểu sử do Fernando Columbus
viết, cho rằng cha ông là một người quý tộc Italia. Ông đã miêu tả Colombo là
dòng dõi một Bá tước Columbo của Lâu đài Cuccaro Montferrat. Tới
lượt mình Columbo lại nói mình là hậu duệ của một vị Tướng viễn chinh La Mã
Colonius, và hai trong số những người anh họ lớn nhất của ông được cho là hậu
duệ trực tiếp của hoàng đế Constantinople. Hiện
nay đa số tin rằng Cristoforo Colombo đã sử dụng câu chuyện này nhằm tô vẽ
nguồn gốc quý tộc cho mình, một hình ảnh được tính toán kỹ để che đậy xuất thân
nhà buôn hèn kém.
Colombo chỉ về hướng đông ngang qua Biển Địa Trung Hải về phía Genova tại Port
Vell, La
Rambla, Barcelona
"Cuộc đời của Đô đốc Christopher Columbus theo lời kể của
con trai Ferdinand," do Benjamin Keen dịch, Greenwood Press (1978), là bản
dịch cuốn tiểu sử do con trai Colombo là Fernando viết: "Historie del S. D.
Fernando Colombo; nelle quali s'ha particolare, & vera relatione della
vita, & de fatti dell'Ammiraglio D. Cristoforo Colombo, suo padre: Et dello
scoprimento ch'egli fece dell'Indie Occidentali, dette Mondo Nuovo,..."
Trong đoạn đầu trang ba bản dịch của Keen, Fernando bác bỏ câu
chuyện kỳ cục rằng Đô đốc là hậu duệ của Colonus đã từng được Tacitus đề cập
đến. Tuy nhiên, ông coi "hai người Coloni nổi tiếng đó, là họ hàng của
ông." Theo ghi chú 1, trang 287, hai người đó "là dân đảo corse không
có họ hàng với nhau hay với Cristoforo Colombo, một người là Guillame de
Casenove, tên hiệu Colombo, Đô đốc nước Pháp dưới thời Vua Louis XI." Ở
đầu trang 4, Fernando liệt kê Nervi, Cugureo, Bugiasco, Savona, Genoa và
Piacenza là những nơi có thể là nguồn gốc xuất thân. Ông cũng viết rằng:
"Colombo... quả thực
là tên tổ tiên ông. Nhưng ông đã thay đổi nó để phù hợp với ngôn ngữ đất nước
nơi sinh sống và lập nghiệp" (Colom trong tiếng Bồ Đào Nha và Colón trong
tiếng Castile).
Việc xuất bản cuốn Historie được các nhà sử học
coi là cung cấp bằng chứng trực tiếp về nguồn gốc Genoa của Nhà thám hiểm. Cuối
cùng cuốn sách của Fernando được cháu trai ông là Luis thừa kế, đứa cháu ăn
chơi của Nhà thám hiểm. Luis luôn cần tiền và đã bán cuốn sách cho Baliano de
Fornari, "một người giàu có và là một bác sĩ hảo tâm người Genoa." Ở
trang xv, Keen đã viết:
"Trong cái lạnh mùa
đông, ông Fornari già cả lên đường tới Venice, trung tâm xuất bản của Ý, để
giám sát việc dịch và xuất bản cuốn sách."
"Đức Ngài [Fornari],
một người danh vọng và hào phóng, muốn ký ức về con người vĩ đại này trở thành
bất hủ, dù đã bảy mươi tuổi, trong mùa đông băng giá, với chiều dài chuyến đi,
đã đi từ Genoa tới Venice với mục tiêu xuất bản cuốn sách đó... để những cuộc
khám phá của con người kiệt xuất này, vinh quang thực sự của Italia và đặc biệt
của quê hương Đức Ngài, sẽ được biết tới."
Bằng chứng sử học khác về nguồn gốc Genoa của Colombo thể hiện
trong di chúc của ông ngày 22 tháng
2, 1498, trong đó Colombo đã viết "yo nací en Genoba" (Tôi
sinh tại Genoa). Di chúc này đề cập tới một nhà buôn người Genoa, người cũng
được nhắc tới trong phiên tòa tại tòa án Genoa năm 1479. Hiện còn những bản ghi
chép lời chứng của phiên tòa đó, và Colombo đã được gọi là làm chứng (có lẽ
theo lời tuyên thệ). Trong bản chứng đó, Colombo đã tuyên bố rằng ông là một
công dân Genoa, sống tại Lisbon.
Theo một cuộc điều tra do nhà sử học từng nghiên cứu một thời
gian dài về Colombo là Manuel Rosa tiến hành bản di chúc cuối cùng này và bản
cung năm 1498 còn nằm lại trong văn khố Sevilla, là một bản copy của bản chính
đã mất và không hề có tên người làm chứng cũng như dấu công chứng nhà nước. Nó
có nhiều điều mâu thuẫn, như được ký là El Almirante, trong khi
trong bản copy có công chứng của điều khoản bổ sung di chúc năm 1506, nhân viên
công chứng nhà nước nói rõ ràng rằng bản di chúc mà ông xem có ký chữ Christo
Ferens. Nhiều người nghi ngờ đó là sự giả mạu. Nhiều nhà văn đã đưa ra
những giả thuyết khác về nguồn gốc quốc tịch Colombo dựa trên các tài liệu
khác. Chúng ta biết rất ít thông tin về Colombo giai đoạn trước những năm giữa
thập niên 1470. Có người cho rằng điều này có lẽ vì ông đã giấu diếm điều gì
đó— một sự kiện trong nguồn gốc xuất thân của ông hay lịch sử mà ông có ý muốn
giữ kín.
Lý thuyết
Tây Ban Nha
Gần đây, một đội khoa học Tây Ban Nha đã có được giấy phép khai
quật mộ Colombo tại Sevilla, Tây Ban Nha. Sử dụng phân tích ADN xương ông, cũng
như xương người anh/em trai là Diego và con trai ông, các nhà khoa học đã tìm
cách lắp ghép tiểu sử thực của Colombo. Tuy nhiên, những cuộc thử nghiệm ADN
không mang lại thành công.
Sau đó những văn bản ghi chép của chính Colombo được đem ra xem
xét. Cần nhớ rằng Colombo viết theo phong cách Bắc Italia. Ngôn ngữ Genoa không
được sử dụng trong văn viết thời Colombo. Những phân tích sâu thêm về các từ
thường được ông sử dụng, những lỗi ngôn ngữ ông mắc phải, cho thấy rằng giả
thuyết gần đúng nhất là ông đã học tiếng Catalan khi còn trẻ trong các chuyến
đi tới Tây Ban Nha của mình. Tự dạng của Colombo cũng được phân tích. Những
khám phá từ các cuộc khảo sát này cho thấy vì sự lỏng lẻo trong phong cách
viết, chắc chắn ông đã học nó khi còn trẻ.
Những nhà điều tra đã xem xét các thông tin xem liệu nó có cho
thấy Colombo là người gốc Catalan. Trong suốt đời mình, Colombo tự viết tên là
Christobal Colom; những người cùng thời và gia đình ông cũng gọi ông như vậy.
Colombo luôn nói rằng ông là người Italia. Có thể ước đoán rằng Colom là tên
viết tắt của Colombo được sử dụng cho tên họ Italia là Colombo (có nghĩa
"bồ câu"). Colom cũng có thể là một cái tên Bồ Đào Nha, Pháp hay
Catalan. Có một gia đình thương nhân quý tộc tại Barcelona (Tây Ban Nha) cũng
mang họ Colom.[cần dẫn
nguồn]
Quốc tịch thực của Colombo vẫn là điều chưa được khám phá, dù
mọi người thường chấp nhập ông là người Italia vì sự thực rằng ông luôn nhận
mình là người Italia trong suốt cuộc đời.
Các giả
thuyết khác
Câu hỏi về quốc tịch Colombo đã trở thành vấn đề tranh cãi sau
khi chủ nghĩa quốc gia ngày càng phát triển; vấn
đề này nảy sinh nhân kỷ niệm bốn trăm năm sự kiện khám phá châu Mỹ năm 1892
(xem Triển lãm
Colombian thế giới), khi nguồn gốc Genoa của Colombo trở thành một niềm kiêu hãnh
của một số người Mỹ gốc Italias. Tại thành phố New York, những bức tượng đối thủ của
Colombo được các cộng đồng Hispanic (người Mỹ gốc Nam Mỹ) và Italia ký tên bên
dưới, và những vị trí danh dự có mặt ở cả hai cộng đồng, tại Quảng trường Colombo và Công viên Trung tâm.
Một giả thuyết cho rằng Colombo đã phục vụ cho tên cướp biển Pháp là Guillaume
Casenove Coulon và lấy họ của mình theo họ của hắn nhưng sau này đã tìm
cách che giấu quá khứ hải tặc. Một số nhà sử học đã tuyên bố rằng ông là người xứ Basque. Những
người khác nói ông là một converso (một người Do
Thái Tây Ban Nha đã cải sang Thiên Chúa giáo). Tại Tây Ban Nha, thậm chí một số
người Do Thái cải đạo đã bị buộc phải rời nước này sau nhiều vụ khủng bố; hiện
vẫn có nhiều conversos đang bí mật theo Đạo Do
Thái. Sự tương quan giữa đạo luật Alhambra, kêu
gọi trục xuất tất cả những người Do Thái ra khỏi Tây Ban Nha và lãnh thổ của nó
cũng như những vùng đất thuộc sở hữu của nước này ngày 31 tháng
7, 1492, và việc Colombo lên tàu bắt đầu chuyến đi đầu tiên của mình
ngày 3 tháng 8 1492, đã
ủng hộ cho giả thuyết này.
Một giả thuyết khác cho rằng ông là người thị trấn Calvi trên đảo Corsica, ở
thời ấy là một phần cộng hòa Genoa. Hòn đảo thường xảy ra bạo động khiến dân
chúng ở đây mang tiếng xấu, vì thế ông đã che giấu nguồn gốc của mình. Những
giả thuyết khác cho rằng thực tế Colombo là người Catalan (Colom).
Cũng có nghiên cứu cho rằng Colombo có thể là người đảo Chios Hy
Lạp. Lý
lẽ ủng hộ giả thuyết này cho rằng thời ấy Chios đang thuộc quyền kiểm soát của
Genoa, và vì thế là một phần của Cộng hòa Genoa, và rằng ông đã ghi nhận ký
bằng tiếng La tinh hay tiếng Hy Lạp chứ không phải tiếng Italia hay Genoa. Ông
cũng tự gọi mình là "Colombo de Terra Rubra" (Colombo của Trái Đất
Đỏ); Chios nổi tiếng vì có đất đỏ ở phía nam nơi có trồng cây máttít (mastic)
thường được người Genoa buôn bán. Cũng có một ngôi làng mang tên Pirgi trên hòn
đảo Chios nơi cho tới tận ngày nay những người dân ở đó vẫn mang họ
"Colombus."
Thậm chí có giả thuyết cho rằng văn bia trên
mộ của ông, được dịch là "Hãy đừng để tôi bị nhầm lẫn mãi mãi," là
lời ám chỉ của Colombo rằng quốc tịch của ông không đúng như sự thực được công
bố khi còn sống. Tuy nhiên, câu viết thực tế trên văn bia, "Non confundar
in aeternam" (trong tiếng La tinh), có lẽ phải được dịch chính xác hơn
thành "Đừng bao giờ để tôi biến mất," và nó thường xuất hiện trong
nhiều bài Thánh thi.
Chữ ký Colon không theo lệ thường
Giả thuyết khác cho rằng có thể ông sinh ra tại Alentejo, Bồ
Đào Nha. Theo giả thuyết này, ông đặt tên hòn đảo Cuba theo tên thị trần Cuba
tại Alentejo Bồ Đào Nha— thị trấn nơi, theo một số nhà sử học Bồ Đào Nha, ông
sinh ra với cái tên Salvador Fernandes Zarco. Giả thuyết này dựa trên việc
nghiên cứu một số sự kiện thực tế và tài liệu về cuộc đời ông và phân tích chữ
ký của ông dưới Pháp thuật (Kabbalah) Do Thái, nơi ông miêu tả
gia đình và nguồn gốc của mình. Macarenhas Barreto cho rằng: "Fernandus
Ensifer Copiae Pacis Juliae illaqueatus Isabella Sciarra Camara Mea Soboles
Cubae.", hay "Ferdinand người giữ thanh kiếm quyền lực Beja (Pax
Julia in Latin), người đã cưới Isabel Sciarra Camara, là tổ tiên của tôi từ
Cuba".
Bởi vì ông không bao giờ ký tên mình theo một quy ước, giả
thuyết về danh hiệu càng được ủng hộ. Tên ông, Christopher, có nguồn gốc Hy Lạp
nghĩa là "Người mang của Chúa" (Bearer of Christ) được chuyển sang
tiếng La tinh và giữ nguyên nghĩa "Người mang của Chúa" (Christo
ferens) "và của Linh hồn Linh thiêng"
(Colombo, bồ câu trong tiếng La tinh, bởi vì theo truyền thống thường được biểu
tượng hóa thành Linh hồn Linh thiêng), một sự đề cập tới Quân đoàn
Christ nối tiếp sau Các hiệp sĩ Templar ở
Bồ Đào Nha và bắt đầu thời đại thám hiểm. Hệ
luận của những điều bên trên cho thấy ông có lẽ chủ tâm làm trệch hướng chú ý
của những vị vua xứ Castilia khỏi mục tiêu Ấn Độ của họ. Vì thế ông có lẽ có lý
do để giấu nguồn gốc xuất thân bởi vì Bồ Đào Nha là đối thủ lớn nhất của Tây
Ban Nha về khám phá hàng hải. Nói tóm lại, ông là một "điệp viên
mật".
Ngôn ngữ
Dù trong các tài liệu Genoa có nói về một người thợ dệt tên là
Colombo, nhưng cũng từng có lưu ý rằng, trong các tài liệu lưu trữ, Colombo hầu
như chỉ viết bằng tiếng Tây Ban Nha, và rằng ông đã sử dụng ngôn ngữ, với các
ngữ âm tiếng Bồ Đào Nha hay tiếng
Catalan, thậm chí trong cả những giấy tờ mang tính riêng tư, thư từ gửi
cho anh/em trai, các bạn người Italia và cho Ngân hàng Genoa. Hai người anh/em
gai của ông là bde ở Genoa và cũng viết thư bằng tiếng Tây Ban Nha.
Có một lời chú thích viết tay nhỏ bằng tiếng Genoa trong cuốn Pliny's
Natural History xuất bản bằng tiếng Italia mà ông đã đọc trong chuyến thám
hiểm thứ hai đến châu Mỹ. Tuy nhiên, nó thể hiện những ảnh hưởng cả từ tiếng
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Tiếng Genoa Italia không phải là ngôn ngữ
viết ở thế kỷ 15. Cũng có một ghi chú trong cuốn Book of Prophecies của
ông, theo nhà sử học August Kling, thể hiện "những đặc trưng của chủ nghĩa nhân văn bắc Italia trong kiểu
chữ, cú pháp và cách đánh vần." Colombo rất chú ý và kiêu hãnh khi viết
theo hình thức tiếng Italia này.
Phillips đã chỉ ra rằng 500 năm trước, các ngôn ngữ gốc La tinh
không khác biệt nhau lớn như ngày nay. Bartolomé de las Casas trong
cuốn Historia
de las Indias của mình đã cho rằng Colombo không sử dụng tốt tiếng Tây
Ban Nha và rằng ông không phải sinh ra tại Castile. Trong những bức thư ông
thường tự cho mình là một "người nước ngoài." Ramón Menéndez Pidal đã
nghiên cứu ngôn ngữ của Colombo năm 1492, và đề xuất rằng khi vẫn còn ở Genoa,
Colombo đã học tiếng Tây Ban Nha đã được Bồ Đào Nha hóa từ những nhà du lịch,
những người này thường sử dụng một kiểu tiếng La tinh thương mại hay lingua
franca (latín ginobisco đối với người Tây Ban Nha).
Ông cho rằng Colombo đã học tiếng Tây Ban Nha ở Bồ Đào Nha bời vì thời ấy tại
Bồ Đào Nha ngôn ngữ này "được coi là ngôn ngữ của văn hoá" từ
năm 1450. Kiểu
tiếng Tây Ban Nha này cũng được các nhà thơ như Fernán Silveira và Joan Manuel sử
dụng. Bằng chứng đầu tiên việc ông dùng tiếng Tây Ban Nha xuất hiện từ thập kỷ
1480. Menendez Pidal và nhiều người khác đã phát hiện nhiều từ tiếng Bồ Đào Nha
trong những văn bản viết tiếng Tây Ban Nha của ông, khi ông lẫn lộn, ví
dụ falar và hablar. Nhưng Menendez Pidal không
chấp nhận giả thuyết nguồn gốc Galicia của
Colombo khi lưu ý rằng khi có sự khác biệt giữa tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Galician, Colombo luôn sử dụng cách
thức Bồ Đào Nha.
Mặt khác, tiếng La tinh là ngôn ngữ của các học giả, và đây cũng
là thứ tiếng Colombo sử dung thành thạo. Ông cũng ghi nhật ký bằng tiếng La
tinh, và một nhật ký "mật" bằng tiếng Hy Lạp.
Theo nhà sử học Charles Merrill, những
phân tích văn bản viết tay của ông cho thấy nó có những nét đặc trưng của một
người nói tiếng Catalan, và những lỗi ngữ âm của Colombo trong
tiếng Tây Ban Nha "có lẽ giống nhất" với kiểu Catalan. Tương tự, ông
đã cưới một phụ nữ quý tộc Bồ Đào Nha, Filipa
Perestrello e Moniz, con gái của Bartolomeu Perestrelo người
từng là Toàn quyền thứ nhất Porto Santo tại Madeira. Bà
cũng là cháu của Gil Moniz, người
thuộc một trong những dòng họ lâu đời nhất Bồ Đào Nha, và từng có quan hệ thân
thiết với Hoàng tử
Henry Nhà hàng hải. Đây được coi là bằng chứng cho thấy ông có nguồn gốc quý tộc
chứ không phải xuất thân từ tầng lớp thương gia Italia, bởi vì trong thời ông
không có trường hợp quý tộc thông gia với các tầng lớp khác. Cũng giả thuyết
này cho rằng ông là con ngoài giá thú của một nhà quý tộc hàng hải có tiếng tại
Catalan, người từng đánh thuê trong một trận chiến chống lại các lực lượng
Castilian. Chiến đấu chống lại Ferdinand và nguồn gốc con hoang là hai lý do
rất chính đáng cho việc giấu kín nguồn gốc xuất thân của mình. Hơn nữa, viêc
khai quật xác anh/em trai ông cho thấy người này ở thế hệ khác, cách biệt tới
gần một thập kỷ, chứ không phải "Giacomo Colombo" của gia đình Genoa.
Vị trí của
Catalunya tại Tây Ban Nha
Trong một lý thuyết khác ít được chấp nhận hơn theo "thuyết
Chios" về nguồn gốc Colombo, ông là con trai một gia đình quý tộc Genoa
tại Hy Lạp - điều này giải thích khả năng tiếng Hy Lạp của ông - đã di cư từ
hồi trẻ tới Castilla & Leon gần một thành phố lớn của Bồ Đào Nha, nơi ông
học tiếng La tinh, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Tây Ban Nha (Castellano) và sẽ sử
dụng chúng trong chuyến đi sau này. Tương tự, lý thuyết này giải thích khả năng
sử dụng nhiều ngôn ngữ của ông và việc tại sao các ý kiến và kế hoạch của ông
đã được chấp nhận từ thời điểm sớm hơn thông thường.
Tri giác
Cristoforo Colombo có ảnh hưởng văn hóa đáng kể với những thành
tựu và hoạt động cá nhân của ông; ông đã trở thành một biểu tượng, một nhân vật
huyền thoại. Những câu chuyện về Colombo khắc họa ông là một nhân vật vừa thần
thánh vừa xấu xa.
Trong khi có những nhà thám hiểm và những người di cư đã
tới Tân thế giới trước Colombo và thực tế nó đã được
"khám phá" nhiều lần, ảnh hưởng và tầm quan trọng của Colombo trong
lịch sử mang nhiều ý nghĩa thời đại hơn là ý nghĩa tác động. Ông đã tới đây ở
thời điểm những phát triển kỹ thuật đi biển và liên lạc khiến thông tin về
những chuyến đi của ông nhanh chóng lan rộng khắp tây Âu. Vì vậy châu Âu đã lại
biết đến sự tồn tại của châu Mỹ, và điều này dẫn tới nhiều chuyến đi khác tìm
kiếm tài sản cũng như để mở rộng.
Hơn nữa, các quốc gia mới ra đời của Tân thế giới, đặc biệt là nước Hoa Kỳ mới giành độc
lập, dường như cần có một câu chuyện lịch sử về nguồn gốc của mình. Câu chuyện
này đã được cung cấp một phần trong cuốn Cuộc đời và những chuyến thám
hiểm của Christopher Columbus năm 1828 của Washington
Irving, đây có thể là nguồn gốc thực sự của những huyền thoại về nhà
thám hiểm.
Sự thực dân hóa châu Mỹ của Colombo, và những hậu quả tiếp sau
trên người dân bản xứ, đã được kịch hóa thành tác phẩm 1492:
Chinh phục thiên đường để kỷ niệm lần thứ 500 ngày ông đặt
chân đến châu Mỹ.
Các di
sản
Theo truyền thống, Colombo thường được đa số người dân Hoa Kỳ
coi là một nhân vật anh hùng. Ông cũng thường được ca tụng là người can đảm,
anh dũng và có niềm tin: ông đã đi về phía tây tiến vào những vùng biển chưa
từng được biết tới, và kế hoạch độc nhất vô nhị của ông cũng thường được coi là
biểu hiện của sự mưu trí. Colombo đã viết về chuyến đi của mình, "Chúa cho
tôi niềm tin, và sau đó là sự can đảm."
Sự sùng bái tính cách anh hùng của Colombo có lẽ đã đạt tới đỉnh
điểm năm 1892, nhân kỷ niệm lần thứ 400 ngày ông đặt chân tới châu Mỹ. Các công
trình kỷ niệm Colombo (gồm cả World's
Columbian Exposition tại Chicago) được dựng lên trên khắp Hoa Kỳ và Mỹ La
Tinh, ca ngợi ông như một vị anh hùng. Nhiều thành phố, thị trấn và
đường phố được đặt theo tên ông, gồm cả các thành phố thủ phủ của
hai bang (Columbus,
Ohio và Columbia, Nam Carolina). Các hiệp sĩ Columbus, một
tổ chức hữu nghị của những người đàn ông Cơ đốc giáo, đã được bang Connecticut cấp
phép hoạt động từ mười năm trước. Câu chuyện cho rằng Colombo có ý tưởng Trái
Đất hình tròn khi những người cùng thời với ông vẫn quan niệm một Trái Đất
phẳng thường được nhắc lại. Câu chuyện này cũng thường được viện dẫn để đề cao
sự sáng suốt và óc tiến bộ của ông. Sự thách thức hiển nhiên của Colombo với
khái niệm thông thường khi giương buồm đi về phía đông thay vì phía tây cũng
được đề cập như một hình mẫu sáng tạo kiểu "Nước Mỹ".
Ở Hoa Kỳ, sự sùng bái Colombo xuất hiện đặc biệt nhiều trong các
cộng đồng người Mỹ gốc Italia, Mỹ La Tinh và Cơ đốc giáo. Những cộng đồng này
coi ông là đại diện của riêng họ để chứng minh rằng Cơ đốc giáo Địa Trung Hải
có thể và đã có những đóng góp to lớn cho nước Mỹ. Những ý kiến phản đối ông
ngày nay bị họ coi là một hành động mang tính chính trị.
Một số người cho rằng trách nhiệm của những chính phủ và nhân
dân thời ấy với cái gọi là cuộc diệt chủng chống lại những người thổ dân châu Mỹ
đã bị che đậy bởi những câu chuyện hoang đường và những lễ nghi tung hô ông.
Những người này cho rằng những thông tin sai trái về Colombo đã được sử dụng để
biện minh cho những hành động của ông và cần phải làm sáng tỏ sự sai lầm đó. Vì
thế, Ward Churchill (một
phó giáo sư của Viện nghiên cứu người Bản xứ châu Mỹ thuộc Đại học Colorado ở Boulder, và là
một lãnh đạo Phong
trào người Da đỏ bản xứ châu Mỹ), đã cho rằng:
Very high on the list of those expressions of non-indigenous
sensibility which contribute to the perpetuation of genocidal policies against
Indians are the annual Colombo Day celebration, events in which it is baldly
asserted that the process, events, and circumstances described above are, at
best, either acceptable or unimportant. More often, the sentiments expressed by
the participants are, quite frankly, that the fate of Native America embodied
in Colombo and the Columbian legacy is a matter to be openly and
enthusiastically applauded as an unrivaled "boon to all mankind."
Undeniably, the situation of American Indians will not -- in fact cannot --
change for the better so long as such attitudes are deemed socially acceptable
by the mainstream populace. Hence, such celebrations as Colombo Day must be
stopped. (in "Bringing the Law Back Home")
Vẻ ngoài
Không một bức chân dung đương thời đáng tin
cậy nào của Colombo còn tới ngày nay; bản in khắc cuối thế kỷ 19 này là một
trong những chân dung phỏng đoán của ông
Không một bức chân dung đương thời đáng tin cậy nào của
Cristoforo Colombo còn tồn tại. Trong nhiều năm các nhà sử học đã tái hiện hình
dáng của ông theo những lời văn miêu tả trước kia. Ông được mô tả rất khác nhau
với tóc dài hay ngắn, người béo hay gầy, có râu hay không, nghiêm khắc hay dễ
tính.
Hình ở đầu bài và hình bên trái đều có niên đại gần thời
Colombo, nhưng các nhà sử học không biết rõ liệu các nghệ sĩ có vẽ chúng theo
hiểu biết của chính mình về vẻ ngoài của ông không.
Colombo được miêu tả là người có bộ tóc đỏ, và đã sớm ngả màu
trắng, ông có da mặt màu đỏ đặc trưng của người da trắng hay ở ngoài trời.
Dù có những miêu tả rõ ràng về tóc đỏ hay tóc trắng, những cuốn
sách tại Hoa Kỳ thường dùng hình ảnh bên trái để miêu tả ông vì thế nó đã trở
thành hình ảnh Colombo trong ý thức người dân. Hình bên phải cũng được sử dụng.
Tuy nhiên, đa số người đồng ý rằng đây thực tế là hình của Paolo dal
Pozzo Toscanelli.
No comments:
Post a Comment