Ngày Đau thương của miền Nam, cũng là ngày đánh dấu đất nước bắt đầu Iâm và
họa bắc thuộc lần thứ năm!
Ngày 30
tháng 04, 1975
·
1975 – Lực
lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam chiếm Sài Gòn, kết
thúc chiến tranh Việt Nam.
Ngày nay chúng ta không
có chính phủ ở hải ngoại. Tôi phải dùng trang nhà trong nước. Chúng ta cố nén lòng
xem họ khoe khoang như thế nào
Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975
Thời gian: ngày 30 tháng 4 năm 1975
Chính phủ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ trên toàn miền Nam, quân lực Việt Nam
Cộng hòa đầu hàng.
Hoa Kỳ sơ tán khẩn cấp người Mỹ khỏi
miền Nam Việt Nam.
tạo cơ sở cho thống nhất 2 miền thông
qua Tổng tuyển cử tháng 4 năm 1976
Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, thường được gọi là 30 tháng Tư, ngày giải phóng miền Nam, Thống
nhất Đất nước (tên gọi tại Việt Nam) hoặc ngày Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, Chính quyền Sài Gòn thất thủ (cách gọi của báo chí phương Tây),
hoặc Ngày Quốc Hận và Tháng
Tư Đen trong cộng đồng người
Việt chống Cộng ở nước ngoài, là sự
kiện chấm dứt Chiến tranh Việt Nam khi tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh cùng
nội các tuyên bố đầu hàng vô điều kiện các lực lượng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam vào
sáng ngày 30 tháng
4 năm 1975.
Ngày này là kết quả trực tiếp của Chiến dịch Mùa Xuân năm 1975 và là một mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam.
Sài Gòn được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh, theo tên của cố Chủ tịch Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh. Sự kiện 30 tháng 4 diễn ra sau khi tất cả
công dân và lính Mỹ cùng với hàng ngàn người Việt ở miền Nam Việt Nam di tản
khỏi Sài Gòn.
Vì nhiều người đã di tản và chính phủ Việt Nam Xã hội chủ nghĩa đã áp dụng quy định mới về hộ khẩu góp phần
làm cho dân số thành phố giảm xuống sau đó, tuy nhiên tỷ lệ giảm không nhiều
(tốc độ giảm trung bình là 10.000 người mỗi năm trong khi dân số Sài Gòn là gần
4 triệu người, nhưng đến năm 1979, dân số lại bắt đầu tăng trở lại).
Các sự kiện dẫn đến
30 tháng 4
Sau Hiệp định Paris tinh
thần và khả năng chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng hòa suy giảm nghiêm trọng
nhất là sau khi Richard
Nixon từ chức
vì vụ
Watergate, vào tháng 8 năm 1974. Sự suy sụp này còn do các mục tiêu tác chiến không thể hoàn
thành như đã định cũng như những thất bại liên tiếp trên chiến trường.
Hoa Kỳ
giảm viện trợ
Sau khi quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam, viện trợ quân sự
cho Việt Nam Cộng hòa đã dần
bị cắt giảm:
·
Tài khóa 1973: 2,1 tỷ USD
·
Tài khóa 1974: 1,4 tỷ USD
·
Tài khóa 1975: 0,7 tỷ USD
Theo lời kể của ông Nguyễn Tiến Hưng, Tổng trưởng Kế hoạch của
chính phủ Việt Nam Cộng hòa lúc bấy giờ, thì Giáo sư Warren Nutter là cựu Phụ tá Tổng trưởng quốc phòng, đặc
trách phần tài chính của chương trình "Việt Nam hóa". Khi dự điểm tâm
với Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu vào
sáng ngày 23 tháng 8 năm 1974 tại Dinh Độc Lập, ông Thiệu bày tỏ sự lo ngại về viện trợ:
Mới vài ngày trước đây là
một tỷ, bây giờ còn 700 triệu, tôi làm gì được với số tiền này? Như là chuyện
cho tôi 12 đô la và bắt tôi mua vé máy bay hạng nhất từ Sài gòn đi Tokyo.
Giáo sư Nutter cũng rất bối rối và giải thích hành động của Quốc
hội:
Quốc hội Hoa Kỳ đôi khi
hành động vô trách nhiệm như vậy… Cái Trung tâm Tài nguyên Đông Dương (Indochina Resource Center, 1 trung tâm của những người phản chiến)
đang hết sức tìm cách tiêu diệt quý quốc.
Nền kinh tế và chi tiêu của Việt Nam Cộng hòa duy trì được chủ
yếu nhờ viện trợ Mỹ. Nền công nghiệp miền Nam nhỏ bé, nông nghiệp bị chiến
tranh tàn phá. Lạm phát phi mã xảy ra
cùng với tệ tham
nhũng, lợi dụng chức quyền càng làm cho nền kinh tế thêm tồi tệ. Ông
Bùi Diễm, đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ, nhận định tình hình kinh tế và
quân sự của miền Nam Việt Nam rất xấu khiến người dân không hài lòng với chính
quyền Nguyễn Văn Thiệu, tiền lương quân nhân không đủ sống do đó tình hình
chính trị cũng xấu theo. Nạn đào ngũ là một vấn đề nghiêm trọng đối với Quân lực
Việt Nam Cộng hòa. Riêng từ tháng 4 tới tháng 12/1974, có 176.000 lính đào ngũ.
Tại các lực lượng tinh nhuệ của Quân Lực Việt Nam Cộng hòa, biệt động quân có
tỷ lệ đào ngũ lớn nhất (55%), tiếp theo là các đơn vị dù (30%) và thủy quân lục
chiến (15%). Trong khi đó, Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam đã duy
trì một lợi thế tâm lý mạnh mẽ, với những người lính tràn đầy tinh thần sẵn
sàng hy sinh hy sinh mục đích cá nhân để cống hiến cho nỗ lực chiến tranh của
tập thể, đó là ưu thế quyết định của họ. Bên cạnh đó, họ đã cố gắng duy trì nỗ lực
chiến tranh giải phóng đất nước suốt 30 năm và không có lý do gì để từ bỏ nó
khi mà quân đội của mình ngày càng hùng mạnh và chiếm được thế thượng phong.
Mọi người lính và chỉ huy quân Giải phóng đều cho rằng ngày chiến thắng đã cận
kề, chỉ còn cách chọ một trận đánh cuối cùng.
Sự suy
yếu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Sau này, trong tập hồi ký Mùa Xuân Đại Thắng, Đại
tướng Văn Tiến Dũng của Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam đã
viết: một trong những động cơ thúc đẩy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam mở cuộc
tổng tấn công ở miền Nam là do
Mỹ đã giảm viện trợ, khiến cho lực lượng quân lực Việt Nam Cộng hòa (vốn được tổ chức rập khuôn theo lối đánh
tốn kém của Mỹ) đã không thể có đủ tài chính để duy trì số lượng lớn vũ khí.
Văn Tiến
Dũng (2 tháng 5 năm 1917 – 17 tháng 3 năm 2002) là một vị Đại
tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Đó là vì "hỏa lực không quân đã sút giảm gần 60%
vì thiếu bom, đạn; khả năng di động cũng giảm đi 50% vì thiếu máy bay, xe cộ,
và nhiên liệu.
Trong
khi quân đội Sài Gòn cần 3 tỉ đô mỗi năm để duy trì bộ máy chiến tranh thì đối
thủ của họ chỉ cần 10% con số đó để xây dựng một lực lượng quân sự đủ lớn để
vừa giữ vững miền Bắc vừa tăng cường quân đội chiến đấu ở miền Nam.
Sự suy yếu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa còn do yếu tố tâm lý khi tinh thần của binh
lính xuống rất thấp, số lượng đào ngũ tăng mạnh. Ngay cả tại những đơn vị tinh
nhuệ của Quân Lực Việt Nam Cộng hòa, tỷ lệ đào ngũ cũng tăng lên mức rất cao.
Biệt động quân có tỷ lệ đào ngũ lớn nhất (55% mỗi năm), tiếp theo là các đơn vị
dù (30%) và Thủy quân Lục chiến (15%)
Tuy nhiên, quân số và vũ khí của Quân lực Việt Nam Cộng hòa vẫn có những sự vượt trội nhất định khi có
1.351.000 quân, 383 xe tăng (162 M48A3, 221 M41) và 1.691 Thiết giáp chở quân M-113, không quân vượt trội hoàn toàn với 550 phi cơ A-1H, A-37 và F-5, 23
Phi đoàn trực thăng, trang bị khoảng 1.000 phi cơ UH-1 và CH-47,
khoảng 200 phi cơ O1, O2 và U17, khoảng 150 phi cơ C7, C-47, C-119 và C-130), 1
Không đoàn tân trang chế tạo, 4 Phi đoàn hỏa long, trang bị phi cơ AC-119, AC-130
Spectre Gunship.
Ngoài ra còn có Phi đoàn Trắc giác (tình báo kỹ thuật), Phi đoàn Quan sát
RC-119L và Biệt đoàn Đặc vụ 314, trong khi đó Quân Giải phóng không thể triển
khai lực lượng không quân ở miền Nam và lực lượng tăng thiết giáp cũng tương
đối hạn chế. Ngay cả lực lượng bộ binh của quân Giải
phóng cũng không thể đạt tới con số 1 triệu quân, kể cả ở thời điểm cao nhất.
Theo hồi ký của Đại tướng Văn Tiến Dũng thì cục
diện chiến trường đang chuyển biến ngày càng bất lợi cho quân lực Việt Nam Cộng hoà.
Tại Khu 9, các cuộc hành quân lấn chiếm bị thất bại, hơn 2.000
đồn bốt bị phá, 400 ấp chiến lược với gần
800.000 dân bị quân Giải phóng xóa bỏ.
Khu 8 có hơn 200 ấp chiến lược với hơn 130.000 dân bị xóa bỏ.
Tại Khu 5, quân Giải phóng đã chuyển lên thế tiến công ngày càng
mạnh, mở rộng bàn đạp vùng giáp ranh (Nông Sơn, Thượng Đức, Tuy Phước, Minh Long, Giá Vụt), xoá
hẳn gần 800 đồn bốt, giải phóng 250 ấp với 200.000 dân.
Trong hồi ký của mình, Đại tướng Văn Tiến Dũng cho
rằng tinh thần và sức chiến đấu của quân lực Việt Nam Cộng hoà giảm sút rõ rệt. Do Hoa Kỳ cắt giảm viện
trợ, nhiều binh sĩ mất chỗ dựa tinh thần từ lâu nay (được cường quốc số 1 hỗ
trợ), nền kinh tế thì ngày càng khó khăn do kinh tế khủng hoảng và nạn lạm phát
300% trong năm 1974. Có 170.000 lính đào ngũ, rã ngũ trong năm 1974, dù tăng
cường thêm lính quân dịch thì tổng số quân vẫn giảm 20.000 so với năm 1973.
Cuối 1974, quân Giải phóng chủ lực của miền Đông Nam Bộ phối
hợp với lực lượng của địa phương mở chiến dịch Đường 14 - Phước
Long giành
thắng lợi lớn. Trong hơn 20 ngày quân Giải phóng đã diệt và bắt trên 5.400
lính, thu 3.000 súng các loại, giải phóng thị xã Phước Long và toàn tỉnh Phước
Long. Chiến bại này đánh dấu một bước suy sụp mới của quân Sài Gòn. Quân chủ
lực của VNCH đã không còn đủ sức hành quân giải toả quy mô lớn để lấy lại các
vùng, các căn cứ và thị xã quan trọng trên các địa bàn giáp ranh, dù Phước Long
chỉ cách Sài Gòn 50 km.
Ngay sau thất bại Phước Long, cố vấn Mỹ John Pilger đã tiên liệu trước về sự sụp đổ của chế độ
Sài Gòn sẽ diễn ra trong nay mai. Ông viết:
Sài Gòn đang sụp đổ trước
mắt, một Sài Gòn được người Mỹ hậu thuẫn, một thành phố được coi là "thủ
đô tiêu dùng" nhưng chẳng hề sản xuất được một mặt hàng nào ngoài chiến
tranh. Trong hàng ngũ của quân đội lớn thứ tư thế giới vào thời điểm đó, binh
lính đang đào ngũ với tốc độ cả nghìn người trong một ngày...
Đây
là sự thật bị phơi bày bởi báo Toledo Blade, Ohio, ngày thứ Ba 16, tháng 5, năm
1989
Diễn biến chính trị
và quân sự
Hoa Kỳ rút
khỏi Việt Nam Cộng hòa
Tổng thống Gerald
Ford không
thuyết phục được Quốc hội Hoa Kỳ chi
thêm ngân sách cho chiến trường Việt Nam.
Ford vào tháng
8 năm 1974
Theo Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa, đầu năm 1975, sau hai năm ký hiệp định đình chiến, Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam đã huy
động gần như toàn bộ lực lượng của mình lực lượng chủ lực 270 ngàn người của mình
bất chấp quân lực Việt Nam Cộng hòa có hơn 1,3 triệu quân, mở cuộc tấn công lớn trên toàn miền Nam
Việt Nam, bắt đầu là ở Tây
Nguyên. Buôn Ma Thuột thất
thủ gây chấn động hệ thống phòng thủ của quân đội Việt Nam Cộng hòa và là khởi
đầu của những chiến dịch nối tiếp nhau.
Nhà Trắng
Ngày 22 tháng 3 năm 1975
Thưa Tổng thống,
Cuộc tấn công
hiện nay của Bắc Việt Nam chống lại quý quốc thật vô cùng xáo trộn khiến riêng cá nhân tôi
lo âu. Theo quan điểm của tôi, thì cuộc tấn công của Hà Nội tượng trưng cho một
sự việc không kém gì sự huỷ bỏ Hiệp định Paris bằng vũ lực.
Biến chuyển
này mang theo hậu quả nghiêm trọng nhất cho cả hai dân tộc chúng ta. Đối với
Ngài và nhân dân Ngài thì đây là lúc hy sinh lớn nhất, nó sẽ quyết định chính số
phận quý quốc. Tôi tin tưởng rằng dưới quyền lãnh đạo của Ngài, quân lực và
nhân dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ tiếp tục công cuộc bảo vệ kiên trì chống lại vụ
xâm lược mới này. Tôi cũng tin tưởng chắc chắn rằng nếu có được sự yểm trợ bổ
túc từ bên ngoài vào thì quý quốc sẽ thắng thế trong cuộc đấu tranh giành quyền
tự quyết của mình.
Riêng đối với
Hoa Kỳ thì vấn đề cũng không kém phần cấp bách.
Khi hành động
như thế này, Hà Nội đang tìm cách huỷ diệt tất cả những gì mà chúng ta đã chiến
đấu để thành đạt, với phí tổn vô cùng to lớn, suốt mười năm qua
Sự quyết tâm của
Hoa Kỳ để yểm trợ một người bạn đang bị các lực lượng (Bắc Việt) với vũ khí
hùng mạnh tấn công, hoàn toàn vi phạm một thoả ước quốc tế (đã được ký kết)
long trọng, là một điều hết sức cần thiết.
Riêng tôi, tôi
quyết tâm rằng Hoa Kỳ sẽ đứng vững sau lưng Việt Nam Cộng hòa trong giờ phút tối
quan trọng này. Với mục đích tôn trọng những bổn phận của Hoa Kỳ trong tình thế
này, tôi đang theo dõi những biến chuyển với chủ tâm cao độ nhất và đang khẩn cấp
tham khảo ý kiến các cố vấn của tôi về những hành động mà tình thế có thể đòi hỏi
và pháp luật cho phép. Về việc cung ứng viện trợ quân sự đầy đủ cho quân đội
Ngài, xin Ngài yên tâm là tôi sẽ cố tâm nỗ lực để thoả mãn những nhu cầu vật chất
của Ngài trên chiến trường.
Trước khi chấm
dứt, tôi xin được nhắc lại một lần nữa lòng cảm phục liên tục của tôi đối với
quyết tâm của Ngài và đối với sức bền bỉ và sự anh dũng của nhân dân Việt Nam Cộng
Hòa.
Kính thư,
Dù là nói tới quyết tâm ủng hộ nhưng người thảo bức thư đã khôn
khéo gài vào: "(tôi) đang khẩn cấp tham khảo ý kiến các cố vấn về những
hành động mà tình thế có thể đòi hỏi và pháp luật cho phép".
Ngày 23 tháng
3, Huế rơi vào tay Quân giải phóng miền Nam Việt
Nam trong
khi ở Đà Nẵng, hàng
ngàn binh lính tìm cách chạy thoát một cách thiếu tổ chức bằng đường biển khỏi
thành phố đang bị bao vây và nã pháo.
Trong 4 sư đoàn bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, 4 liên đoàn Biệt động quân, lữ đoàn thiết giáp, sư
đoàn không quân, tổng cộng 12 vạn quân và hàng ngàn nhân viên quân sự và địa
phương quân, chỉ có 16.000 rút được.
Trong số gần 2 triệu dân thường dồn lại tại Đà Nẵng từ cuối
tháng 3, chỉ có hơn 50.000 sơ tán được bằng đường thủy.
Ngoài ra 33 máy bay phản lực A-37 còn nguyên vẹn cùng gần 60 máy bay khác tại
căn cứ không quân Phù Cát cũng bị bỏ lại. Trong cuộc sụp đổ của Đà Nẵng, không có một
trận chiến nào. Khi Quân Giải phóng tiến vào thành phố, không mấy binh sĩ VNCH
đóng quanh thành phố chống cự. Các trung tâm phòng thủ còn lại dọc theo bờ
biển cũng nhanh chóng tan vỡ dây chuyền: Quảng
Ngãi ngày 24 tháng
3; Quy Nhơn và Nha Trang ngày 1 tháng 4; và cảng Cam
Ranh ngày 3 tháng 4.
Ngày 28/3/1975, Tổng tham mưu trưởng lục quân Hoa Kỳ, tướng Frederick C. Weyand, bay
sang Sài Gòn khảo sát tình hình để báo cáo cho Tổng thống Mỹ. Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng Mỹ là James R. Schlesinger đã chỉ đạo Weyand không được hứa gì nhiều
với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu vì không thể đảo ngược được tình thế, ông ta
thấy tình hình của quân Việt Nam Cộng hòa đã trở nên quá tồi tệ.
James
Rodney Schlesinger (15
tháng 2 năm 1929 - 27 tháng 3 năm 2014)
Sau khi tướng Weyand về Mỹ, Bộ trưởng quốc phòng Schlesinger
tuyên bố một giả thuyết giật gân, rằng "nếu
cộng sản nắm chính quyền thì có thể 200.000 người Việt Nam sẽ bị tàn sát”.
Sáng hôm sau, tờ báo Pacific Starsand Stripes (tờ báo của quân đội Mỹ), xuất bản ở Sài
Gòn, đăng lại lời tuyên bố ấy bằng chữ đậm. Nhiều người dân ở miền Nam Việt Nam
tin lời Schlesinger và hoảng sợ, bỏ nhà cửa để tìm cách chạy trốn (tuy
nhiên, cuối cùng không có một cuộc tàn sát nào xảy ra, quân Giải phóng tiến vào
Sài Gòn một cách thuận lợi với sự hỗ trợ của nhiều người dân, nhiều người dân
khác thì rất ngạc nhiên vì quân Giải phóng có thái độ mềm mỏng và kỷ luật tốt,
họ không hề tiến hành cướp bóc hoặc phá phách như những gì báo chí Mỹ-VNCH
tuyên truyền).
Thấy rõ sự thất bại không thể cứu vãn nổi, sau khi xem báo cáo
của Weyand, Ngoại trưởng Henry
Kissinger đã
nguyền rủa:
Henry
Alfred Kissinger ( /ˈkɪsɪndʒər/;(tên khai
sinh: Heinz Alfred Kissinger; 27 tháng 5 năm 1923 –)
“Sao bọn chúng (Việt Nam Cộng hòa) không chết quách
đi. Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là chúng cứ sống vất vưởng hoài”.
Phần lớn nhân vật trong Quốc hội và Chính phủ Mỹ phản đối việc
đưa quân Mỹ trở lại Việt Nam. Vấn đề cấp bách hơn lúc này là phải đưa người Mỹ
ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Các tướng
lĩnh Việt Nam Cộng hòa bỏ ra nước ngoài
Trong nửa đầu tháng 4, với Quân đoàn 2 của quân Giải phóng từ phía bắc tiến vào và quân đoàn 3 từ Tây Nguyên đổ xuống, các tỉnh Quảng
Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa lần lượt rơi vào tay Quân Giải phóng.
Ngày 9 tháng 4, Quân đoàn 4 Quân giải phóng định đánh chiếm huyện Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai trên hành tiến - tuyến phòng thủ từ xa cuối
cùng của Sài Gòn - nhưng
Sư đoàn 18 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã kháng cự ác liệt có tổ chức để giữ vững
được thị xã. Đây là trận đánh dài ngày có tổ chức cuối cùng của Quân lực Việt
Nam Cộng hòa. Trận Xuân Lộc đã gây
thương vong rất lớn cho cả hai bên.
Ngày 17 tháng
4, Thượng viện Hoa Kỳ từ chối
khoản viện trợ khẩn cấp trị giá 722 triệu Mỹ kim mà chính phủ Gerald Ford đề nghị. Tuy không
ai tin rằng viện trợ Mỹ có thể xoay chuyển tình thế, một số chuyên viên như
Ngoại trưởng Mỹ Henry
Kissinger hy vọng
rằng ngân khoản đó có thể giúp Việt Nam Cộng Hòa lấy lại
được đủ vị thế về quân sự để thuyết phục đối phương ngừng tiến quân và đàm
phán. Hai ngày sau phán quyết này của Thượng viện, giám đốc CIA William Colby nói với tổng thống Ford: "Nam Việt Nam
đang đối mặt với thất bại hoàn toàn và nhanh chóng". Các chuyến bay di tản
do CIA tổ chức đã bắt đầu đưa các cộng tác viên người Việt rời
Việt Nam, và Sứ quán Mỹ đã bắt đầu đốt tài liệu mật từ trước đó. Ngày 20 tháng
4 các thủ
tục pháp luật được đơn giản hóa cho việc sơ tán người Việt bắt đầu có hiệu lực.
Việc sơ tán này được thực hiện tại sân bay quân sự Tân Sơn Nhất, do tướng Homer Smith chỉ
huy. Các máy bay C-130 và C-140 liên
tục lên xuống vào ban ngày; công việc giấy tờ được tiếp tục suốt đêm. Tướng
Smith đã phải dùng đến toàn bộ trung đội Thủy quân lục chiến số 43 của Mỹ để
giữ trật tự tại Tân Sơn Nhất.
Ngày 20 tháng
4, lực lượng phòng thủ bỏ Xuân Lộc của Quân lực Việt Nam Cộng hòa
bị buộc phải rút lui. Khi Xuân Lộc thất thủ, không còn gì có thể cứu vãn chế độ
Sài Gòn nữa. Việc bỏ Xuân Lộc khiến Sài Gòn gần như bỏ ngỏ, không còn phòng thủ
từ xa nữa; Quân giải phóng áp sát thành phố ở các tuyến ngoại vi. Cùng ngày 20
tháng 4, Đại sứ Mỹ Martin đến phủ Tổng thống thuyết phục Nguyễn Văn Thiệu từ
chức, bởi phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã liên tục tuyên bố sẽ không đàm phán
với tổng thống Thiệu.
Tổng thống Mỹ Gerald Ford nghe cố vấn Nelson
A. Rockefeller báo cáo về
kế hoạch di tản khỏi Sài Gòn.
Do sức ép lớn từ các tướng dưới quyền như Trần Văn Đôn, Cao Văn
Viên, thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, bộ trưởng kinh tế Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Văn Thiệu từ chức
vào tối ngày 21 tháng
4 năm
1975.
Trần Văn
Đôn (1917- 1998),
Cao Văn Viên (1921-2008),
Khi từ chức, Nguyễn Văn Thiệu đã xuất hiện trên truyền hình phát
biểu suốt 3 giờ đồng hồ để trách móc việc thoái thác trách nhiệm của chính phủ
Mỹ. Ông Thiệu đổ lỗi thất bại là do người Mỹ bằng những lời lẽ nửa tức giận,
nửa thách thức: “Mỹ đánh không lại Cộng sản nên bỏ mặc Việt
Nam Cộng hòa đánh một mình thì làm sao ăn nổi. Có giỏi thì Mỹ vô đây lần nữa…”. Ông
Thiệu lên án thẳng Hoa Kỳ là "một
đồng minh vô nhân đạo với những hành động vô nhân đạo."
Cũng trong bài diễn văn từ chức, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố mạnh
mẽ rằng ông ta sẽ không bỏ chạy mà sẽ tiếp tục cầm súng chiến đấu: "Dù mất một tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu, quân đội vẫn còn trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ
Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kề bên anh em chiến sĩ...". Tuy
nhiên, những tuyên bố đó đã không được Nguyễn Văn Thiệu thực hiện. Sau khi từ
chức, ông Thiệu về nhà, đề nghị Mỹ thu xếp một chuyến bay để đưa ông ta và gia
đình ra nước ngoài. Chỉ 4 ngày sau, Nguyễn Văn Thiệu đã bí mật lên máy bay
thoát khỏi Sài Gòn vào đêm ngày 25/4/1975. Cuộc ra đi của Nguyễn Văn Thiệu diễn
ra bí mật trong đêm tối, dưới sự sắp đặt của Thomas Polgar - trưởng CIA ở Sài
Gòn Để cho việc ra đi danh chính ngôn thuận, Trần Văn Hương ký
quyết định cử Nguyễn Văn Thiệu là đặc sứ của Việt Nam Cộng hòa đến Đài Bắc để phúng điếu Tưởng Giới Thạch (dù
thực ra Tưởng Giới Thạch đã chết từ trước đó 3 tuần).
Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên
thay nhưng phía Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam không
chấp nhận nói chuyện với ông.
Thời điểm 21 tháng
4 khi
Nguyễn Văn Thiệu từ chức có ý nghĩa quyết định. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói
rằng "chìa
khóa là ngày 21 tháng 4, khi Thiệu từ chức. Khi đó tôi biết rằng chúng tôi phải
tấn công ngay lập tức, cướp lấy thời cơ, tất cả chúng tôi cũng đồng ý như
vậy." Đêm hôm đó, tại sở chỉ huy tiền phương tại Lộc Ninh, cách
Sài Gòn 75 dặm, tướng Văn Tiến Dũng, người chỉ huy các cánh quân
Giải phóng tiến về thành phố, ra lệnh bắt đầu cuộc tổng tiến công.
Tướng Nguyễn Cao Kỳ và 1 trung tướng của Việt
Nam Cộng hòa khi chạy ra tàu sân bay Mỹ vào ngày 29/4/1975
Để đảm bảo áp đảo chắc thắng, Quân Giải Phóng đưa thêm cả Quân đoàn 1 (hay còn gọi là Binh đoàn Quyết thắng) bằng
tàu biển và hàng không vào chiến trường cho trận cuối cùng có tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Lực lượng tiến công Sài Gòn
tương đương 20 sư đoàn, tổ
chức thành 5 quân đoàn.
Trong nỗ lực cuối cùng, tướng Nguyễn Cao Kỳ phát
biểu trước khoảng 6 nghìn người Thiên
Chúa giáo hữu
khuynh vào xế trưa ngày 25/4 về chuyện phòng thủ Sài Gòn, rằng "ông ta sẽ ở lại Sài Gòn và chiến đấu
cho tới chết, những kẻ chạy theo Mỹ là hèn nhát". Phụ
nữ và trẻ con sẽ được gửi đi đảo Phú Quốc, còn người dân Sài Gòn "sẽ ở lại
chiến đấu".
Nguyễn Cao
Kỳ (1930-2011)
Thậm chí Nguyễn Cao Kỳ còn
tuyên bố rằng: Sài Gòn "sẽ trở thành một Leningrad thứ hai"
(Leningrad là nơi quân dân Liên Xô đã cầm cự 900 ngày trong vòng vây hãm của kẻ
thù). Việc phân phối vũ khí sẽ được ông ta cho làm ngay, mọi người nên ở lại
Sài Gòn để chiến đấu. Nhưng tất cả chỉ là những lời nói suông và chẳng được
thực hiện một chút nào. Sau khi phát biểu xong, Nguyễn Cao Kỳ bỏ vào sân bay Tân Sơn Nhất để sắp xếp cho các máy bay di tản sang Thái Lan và đồng thời cũng bí mật ra lệnh cho một
trực thăng đến đón mình. Sáng ngày 29/4/1975, Nguyễn Cao Kỳ đã dùng trực thăng
chạy ra ngoại quốc, bỏ lại sau lưng những lời thề hứa chiến đấu quyết tử mà ông
từng hùng hồn tuyên bố trước đó bốn ngày.
Chiến dịch Hồ Chí
Minh mở màn
Lúc 17 giờ ngày 26 tháng
4, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu nổ súng với 5 quân đoàn ở 5 hướng
tấn công: hướng Bắc với Quân đoàn 1, hướng Tây Bắc với Quân đoàn 3, hướng Tây
và Tây Nam với Đoàn 232, hướng
Đông với Quân đoàn 4 và hướng đông nam với Quân đoàn 2.
Ngày 27 tháng
4, sân bay quân sự Tân Sơn Nhất tại Sài Gòn chịu 3 loạt hỏa tiễn
của Quân giải phóng, lần
đầu tiên trong hơn 40 tháng làm nhiều người chết và bị thương, nhà cửa
đổ nát. Hai lính Mỹ thiệt mạng do hỏa tiễn, là những lính thiệt mạng cuối cùng
của Mỹ trong cuộc chiến
Tại mặt phía Nam của Sài Gòn, ngay từ ngày 28 tháng
4, 1975, Bộ Tư lệnh
Biệt khu Thủ Ðô của
chính quyền Sài Gòn không còn quân trừ bị để phòng thủ. Họ buộc phải rút 1 liên
đoàn Biệt Ðộng Quân đang hành quân về quận lỵ Cần Đước và đặt dưới quyền điều
động của Bộ tư lệnh Biệt Khu Thủ Ðô. Liên tỉnh lộ nối liền Chợ Lớn và Cần Đước cũng bị
cắt nhiều đoạn nên các lực lượng VNCH không thể phá vỡ được các chốt chận của Quân giải phóng tại cầu Nhị Thiên Đường vốn đã
bị chiếm từ rạng sáng ngày 29 tháng
4, 1975.
Các đơn vị Nhảy Dù phòng ngự tại phòng tuyến khu vực từ ngã tư Quân Vận (gần Trung tâm Huấn luyện Quang
Trung) đến cầu Tham Lương Bà Quẹo, khu Bình Thới - Ngã ba Bà Quẹo,
khu Bảy Hiền - Lăng Cha Cả đã cố
gắng ngăn chận đối phương. Một chiến đoàn thuộc Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy
Dù tại
vòng đai Bộ Tổng Tham mưu do Thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đã dàn quân và từ 8
giờ sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này đã bắn cháy 6 chiến xa và đánh bật đối
phương ra khỏi trận địa.
Tuy nhiên các nỗ lực kháng cự lẻ tẻ này không làm chậm quân Giải
phóng được bao nhiêu. Đến cuối ngày 28 tháng
4, tất cả các tuyến phòng thủ đã bị chọc thủng ở mọi hướng, quân
Giải phóng có thể tiến ngay vào thành phố nhưng họ dừng lại để có thêm thời
gian cho giải pháp đàm phán. Các lực lượng chính trị thứ ba dàn xếp để đưa Đại tướng Dương Văn Minh lên làm
tổng thống trong ngày 28 tháng
4 năm
1975. Ngay khi nhậm chức để tiến hành đàm phán Tổng thống Dương
Văn Minh yêu cầu người Mỹ ra đi.
4 giờ sáng ngày 29/4 tức 16 giờ theo giờ Washington, hỏa tiễn và
đạn pháo Quân giải phóng đã nã tới tấp xuống Phi trường Tân Sơn Nhứt, phá
hủy nhiều phi cơ trên mặt đất, vô hiệu hóa phi trường này và gây cho số người
Việt đang tụ tập ở đấy sợ hãi trốn chạy, một sự hỗn loạn thực sự.
Tổng thống Ford triệu tập Hội đồng An ninh Quốc gia họp khẩn cấp lúc 19h 30, ông đã yêu cầu Đại sứ Graham
Martin phải di
tản ngay những người Mỹ còn lại và cả những người Việt Nam càng
nhiều càng tốt.
Ở Sài Gòn và phần
còn lại của Việt Nam Cộng Hòa, hàng triệu người dân Việt Nam bắt đầu tự đặt cho mình 1 câu hỏi mấu chốt:
họ có thể ở lại sống dưới chế độ mới hay là
tự tìm cách bỏ ra nước ngoài bằng đường biển.
Trong các ngày 28, 29 tháng 4 từ các hàng
không mẫu hạm của Hạm đội số 7 ngoài khơi Thủy quân lục chiến Mỹ dùng trực thăng di tản người nước ngoài và một số người Việt đã
từng cộng tác chặt chẽ với họ, trong đó có chiến dịch Babylift. Cuộc di tản đã diễn ra trong
hỗn loạn vì rất nhiều người muốn ra đi nhưng không thể đáp ứng hết được. Các
điểm đỗ của trực thăng náo loạn. Lính Thuỷ quân lục chiến Mỹ đã phải cố gắng
mới duy trì được trật tự. Người Mỹ đã phải bỏ lại nhiều người Việt để ưu tiên
người Mỹ vì số lượng phương tiện có hạn. Hình ảnh di tản đã in đậm trong trí óc
nhiều người Mỹ và Việt như một kỷ niệm rất buồn. Đại sứ Graham
Martin là một
trong những người Mỹ cuối cùng ra đi. Trong số 120.000 người Việt và 20.000
người Mỹ được di tản trong đợt này, không có một người nào bị thiệt mạng do
hoạt động quân sự của quân Giải phóng.
Trực thăng trên Hàng không mẫu hạmUSS
Midway tháng 4-1975 bị đẩy xuống biển để dành thêm chỗ cho máy bay
chở người di tản hạ cánh.
Quân giải phóng dừng lại bên ngoài thành phố 1 ngày để cho người
Mỹ di tản hết mới vào. Theo lời tướng Trần Văn Trà, cánh quân của ông đã đợi vì mục đích
chính là để giải phóng Sài Gòn chứ không phải để giết người Mỹ và sỉ nhục họ.
Ở một cánh quân khác, theo hồi ký của tướng Hoàng Cầm, cánh quân của Quân đoàn 4 mà ông chỉ huy
gặp rất nhiều kháng cự trên đường tiến về Sài Gòn và chỉ đánh được đến nơi vừa
kịp sáng ngày 30 tháng 4.
Theo hồi ký các tướng tá của quân lực Việt Nam Cộng hòa như Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn Chánh Thi, và cựu dân biểu Lý Quý Chung, thì
sáng ngày 28/4, tướng tình báo Pháp Francois Vanussème đã tới gặp tổng thống Dương Văn Minh và đề
nghị Việt Nam Cộng hòa kêu gọi Trung Quốc đem quân can thiệp để cứu quân lực Việt Nam Cộng hòa đang trong cơn nguy kịch. Một nhân viên
ngoại giao Trung Quốc đề nghị quân lực Việt Nam Cộng hòa hãy cố thủ, án ngữ Vùng 4 Chiến thuật, hứa
hẹn Trung Quốc sẽ đem quân đánh vào biên giới miền Bắc Việt Nam để giải vây.
Dương Văn Minh vốn đã được Ban Binh vận Trung ương Cục miền Nam thông qua em trai là Dương Thanh Nhựt (bí danh Mười Ty, đại tá Quân Giải phóng
miền Nam Việt Nam) và gia đình đã thuyết phục từ trước, đã từ chối và nói:
"Tôi cảm ơn thiện chí của ông, nhưng trong
đời tôi, tôi đã từng làm tay sai cho Pháp, rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rồi.
Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung Quốc
Trung tướng
Nguyễn Chánh Thi
Theo tác giả Trần Viết Đại Hưng, một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng hòa, thì Nguyễn Cao Kỳ còn
tính làm một cuộc đảo chính chính phủ Dương Văn Minh mới
thành lập để nắm quyền và ra lệnh cố thủ. Người Mỹ biết chuyện đó và giám đốc CIA ở Sài Gòn lúc đó là Polgar đã cảnh cáo Kỳ
là không được manh động. Nguyễn Cao Kỳ nghe vậy thì dẹp bỏ kế hoạch vì ông ta
hiểu rằng: nếu chống lại sách lược của Mỹ thì sẽ mang họa vào thân.[cần dẫn nguồn]
Ngày 30 tháng 4
Ngày 29 tháng 4, sau sự giận dữ của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ
Schlesiger và cố vấn Henry
Kissinger ở
Washington vì sự nấn ná của Đại sứ Graham
Martin ở Sài
Gòn để cố tạo ra vẻ "người
Mỹ đàng hoàng ra đi", Tổng thống Mỹ Gerald
Ford ra lệnh
dứt khoát: "Chấm
dứt cuộc di tản vào 3 giờ 30 phút, giờ địa phương, sáng 30 tháng 4". Tuy
nhiên, lệnh vẫn không thi hành kịp do sự chần chừ của Martin, "cuộc tháo
chạy" đã diễn ra cho tới khi chiếc trực thăng Mỹ cuối cùng rời Sài Gòn vào
lúc 5 giờ 24 phút ngày 30 tháng 4.
8 giờ sáng 30 tháng
4 Tổng
thống Dương Văn Minh và Bộ tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa hạ lệnh đơn
phương ngừng chiến sẵn sàng đón quân đối phương vào Sài Gòn để bàn giao chính
quyền.
Ông tuyên bố "Đường
lối, chủ trương của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng
đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải giữa người Việt Nam để khỏi phí
phạm xương máu người Việt Nam. Vì lẽ đó tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ
Việt Nam Cộng hòa hãy bình tĩnh, ngưng nổ súng và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng
yêu cầu anh em chiến sĩ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
ngưng nổ súng vì chúng tôi ở đây chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong vòng
trật tự và tránh sự đổ máu vô ích của đồng bào.".
Theo phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, lệnh này trên thực tế cũng không còn tác dụng
do phần lớn quân lực Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã tan rã, phần nhiều ra hàng
hoặc vứt bỏ vũ khí về với gia đình. Do đó khi Quân giải phóng tiến vào Sài Gòn
hầu hết chỉ gặp những ổ kháng cự nhỏ lẻ, thiếu tổ chức. Việc đại úy Phạm Xuân
Thệ yêu cầu Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh đầu hàng thay vì phương
án thành lập chính phủ liên hiệp ba thành phần nhằm buộc Quân lực Việt Nam Cộng
hòa trên khắp chiến trường buông súng, tránh thương vong không cần thiết cho cả
hai bên lẫn dân thường. Theo Tổng trưởng Thương mại - Kinh tế Việt
Nam Cộng hòa, Nguyễn Văn Diệp, trước khi Quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn,
tướng tình báo Pháp là Francois Vanuxem của Pháp (lúc đó mới đeo hàm Đại tá)
đến gặp các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền - Chủ tịch Thượng viện Sài Gòn
và Vũ Văn Mẫu vào sáng 30/4 để đề nghị chính quyền Việt Nam Cộng hòa tiến hành
hoãn binh, không đầu hàng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam mà tiếp tục đưa ra yêu sách thành lập chính phủ liên hiệp. Nếu chính phủ
liên hiệp được thành lập, Pháp sẽ giúp chính quyền Việt Nam Cộng hòa nhận được
sự bảo trợ của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Tuy nhiên, Tổng thống Dương Văn
Minh ngay lập tức từ chối do không muốn thêm một lần làm tay sai cho nước
ngoài.
Động cơ của Pháp lúc đó là muốn chính quyền Sài Gòn ngừng bắn để
bảo vệ các tài sản của Pháp tại Sài Gòn tránh khỏi sự tàn phá của việc giao
tranh, việc bảo vệ chính quyền Sài Gòn chính là bảo vệ các lợi ích của Pháp.
Pháp muốn thiết lập lại ảnh hưởng của họ trên thuộc địa cũ. Trong Bộ Ngoại giao
Pháp và các cố vấn ở Phủ Tổng thống có hai xu hướng giải quyết đối với vấn đề
Sài Gòn. Một thì ra sức hoạt động cho một sự thu xếp ngừng bắn, một thì chủ
trương nên tính chuyện làm ăn với Chính phủ Cách mạng lâm thời. Thậm chí, Quân
Giải phóng bắt đầu chiến dịch giải phóng Đà Nẵng, Pháp đã cử Đại sứ Pháp tại Hà
Nội Philippe Richer tới gặp Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Phạm Văn Đồng
để bàn cách lật đổ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu để dựng lên một chính quyền có
thể nói chuyện được với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam. Tổng thống Dương Văn Minh đã nhìn ra ý đồ của Pháp và không muốn Trung
Quốc can thiệp vào quá trình tái thống nhất Việt Nam nên đã từ chối, chấp nhận
đầu hàng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để nhanh chóng
có hòa bình và thống nhất.
Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống không có ý để thương
thuyết với cách mạng vì đã thấy không còn khả năng thương thuyết; cũng không có
ý để tiếp tục chiến tranh vì lâu nay ông Minh chủ trương hoà bình, chấm dứt
chiến tranh.
[color=red]Điều này thể hiện rõ ở Tổng thống Dương Văn Minh chỉ
định hai cơ sở của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
(chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và luật sư Triệu Quốc Mạnh) nắm hai lực lượng vũ trang:
quân đội và cảnh sát; cử một người dân sự (giáo sư Bùi Tường Huân) làm Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng; chưa đầy một ngày sau khi nhậm chức thì ngày 29/4/1975,
đã ra lệnh thả tù chính trị, đuổi phái đoàn DAO của Mỹ; không di chuyển quân,
không phá cầu…[/color]
9 giờ sáng cùng ngày, đúng 3 tiếng đồng hồ sau khi chiếc trực
thăng cuối cùng của Mỹ rời nóc tòa Đại sứ quán, tướng Trần Văn Trà lệnh
cho quân Giải Phóng tiến vào Sài Gòn từ năm hướng. Họ đã tiến nhanh mà không
gặp một sự kháng cự có tổ chức nào.
Thượng tướng
Trần Văn Trà (1919-1996)
Đại đội 9, Lữ đoàn 273, Quân đoàn 3 gồm 4 xe tăng T-54 nhận
nhiệm vụ thần tốc tiến về trung tâm Sài Gòn. Dọc đường, 4 xe tăng gặp nhiều
chốt chặn. Sau 30 phút, 4 chiếc xe tăng của đại đội 9 đã tiêu diệt 12 xe tăng -
thiết giáp của địch, 12 chiếc khác ra đầu hàng, phía quân Giải phóng bị bắn
cháy 1 xe tăng. Sau khi đánh bại quân địch tại các trạm chốt ở khu vực Cầu Sài
Gòn, Hàng Xanh, cầu Thị Nghè, 2 xe tăng số hiệu 843 và 390 tiến về Dinh Độc
Lập. Xe 843 đi trước do Đại đội trưởng Bùi Quang Thận chỉ
huy.
10 giờ 45 phút ngày 30 tháng
4, xe tăng mang số hiệu 843 húc nghiêng cổng phụ của Dinh Độc Lập và bị
kẹt tại đó. Bùi Quang Thận - Đại
đội trưởng, chỉ huy xe 843 - nhảy xuống xe, cầm lá cờ chạy bộ vào. Xe tăng 390
dưới quyền chỉ huy của Vũ Đăng Toàn húc
tung cánh cửa chính của dinh.
11 giờ 30 phút cùng ngày, Trung úy Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam Bùi Quang Thận đã hạ lá cờ Việt Nam Cộng hòa trên nóc dinh xuống, kéo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lên.
Cùng lúc này, đại úy trung đoàn phó Trung đoàn 66 Phạm Xuân Thệ cùng
lực lượng đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 và biệt động thành Sài Gòn tiến vào dinh Độc Lập bắt Tổng thống cuối
cùng của Việt Nam Cộng hòa là ông Dương Văn Minh cùng toàn bộ những nhân vật
chủ chốt của nội các chính quyền Sài Gòn.
Dương Văn Minh nói: "Tôi
chờ các ông tới để bàn giao chính quyền", Phạm Xuân Thệ trả lời: "Các ông đã không còn gì để bàn giao.
Thay mặt Cách mạng, tôi đề nghị ông ra lệnh đầu hàng vô điều kiện để tránh đổ
máu không cần thiết". Dương Văn Minh đồng ý.
Khoảng 12 giờ trưa, đại úy Phạm Xuân Thệ đưa tổng thống Dương
Văn Minh, thủ tướng Vũ Văn Mẫu lên xe
Jeep để đến đài phát thanh. Chiếc xe thứ hai chở trung tá chính ủy lữ đoàn xe
tăng 203 Bùi Văn Tùng cùng hai nhà báo Borries Gallasch (người Đức, báo Der
Spiegel) và Hà Huy Đỉnh. Tại đài phát thanh, tổng thống Dương Văn Minh
thay mặt toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn đã đọc tuyên bố đầu hàng vô
điều kiện với quân đội cách mạng (tức quân Giải phóng miền Nam Việt Nam). Thay
mặt các đơn vị Quân giải phóng đánh chiếm dinh Độc Lập, trung tá Bùi Văn Tùng đọc lời tiếp nhận đầu hàng. Chiến tranh kết
thúc.
Ông Nguyễn Văn Tàu (sinh
năm 1928 ở Bà Rịa - Vũng Tàu), biệt danh Tư Cang, nguyên Chính ủy Lữ đoàn Biệt
động 316, người trực tiếp chiếm giữ, bảo vệ cầu Rạch Chiếc để xe
tăng tiến vào giải phóng Sài Gòn năm 1975 kể lại: "Điều kỳ diệu là thành phố còn nguyên
vẹn, điện nước đầy đủ. Theo tôi có được điều ấy là do nhân dân. Lòng dân hướng
về cách mạng, các đoàn thể được tổ chức chặt chẽ. Khi các cánh quân tiến vào
thì quần chúng đã đứng lên diệt ác ôn, giải phóng phường, treo cờ cách mạng. Đó
là sự chuẩn bị, gây dựng quần chúng từ mấy chục năm. Phong trào quần chúng ví
như thùng thuốc nổ, khi có ngòi nổ đủ sức công phá thì sức mạnh quần chúng bung
ra không gì cản nổi. Quân đội như chúng tôi chỉ đóng vai trò ngòi nổ đủ
mạnh".
Trước giờ cáo chung, Chính quyền Sài Gòn còn tuyên truyền là
quân giải phóng sẽ "dìm
Sài Gòn trong biển máu". Nhưng cuối cùng thì không có
cuộc tắm máu nào như thế cả. Ngược lại, những binh sĩ đã hạ vũ khí được tự do
đi lại trên đường phố mà không bị truy sát. Các hình ảnh do chính phóng viên
ảnh và quay phim nước ngoài ghi lại đã cho thấy nhiều người dân đã đón chào và
dẫn đường cho quân giải phóng đánh chiếm các mục tiêu trong trưa 30/4/1975 tại
Sài Gòn.
Sau khi tin đầu hàng phát đi từ Sài Gòn có năm vị tướng của Quân
lực Việt Nam Cộng hòa đã tự sát vào ngày 30 Tháng Tư, là Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, và Trần Văn Hai.
Tướng Nguyễn
Khoa Nam
Phạm Văn Phú (1928-1975)
Tướng Lê Văn
Hưng
Người hùng An Lộc 1972
Người hùng An Lộc 1972
Tướng Lê Nguyên Vỹ
Tướng Trần Văn Hai
Theo Jean Louis Margolin, tác giả này xác nhận là không có giết
chóc trong ngày quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn nhưng
ông đã đưa ra con số 200 ngàn tù binh bị giam giữ theo xác nhận của Phạm Văn Đồng.[cần số trang]. Ngược
lại, một số quan chức Việt Nam Cộng hòa đã cộng tác với chính phủ Cách mạng lâm
thời và được giữ chức vụ trong chính phủ mới như Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạnh... Khi chiến tranh biên giới Tây
Nam nổ ra,
nhiều cựu binh sĩ VNCH đã được Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam gọi tái
ngũ để giúp vận hành các loại vũ khí thu được của Mỹ.
Tom Polgar, nhân
viên cao cấp tòa Đại sứ Mỹ ở Việt Nam, một trong những người Mỹ cuối cùng di
tản, đã ghi lại cảm tưởng của mình vào ngày hôm ấy:
"Đó là một cuộc chiến
tranh (chiến tranh Việt Nam) lâu dài và khó khăn mà chúng ta đã thua. Thất bại
độc nhất của lịch sử Hoa Kỳ chắc sẽ không báo trước sức mạnh bá chủ toàn cầu của nước Mỹ đã
chấm dứt. Nhưng... Ai không học được gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ phải lặp lại sai
lầm trong lịch sử".
Trong trưa ngày 30/04, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã liên
lạc với quân Giải phóng và tuyên bố trên Đài Phát thanh Sài Gòn sau lời tuyên
bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh:
"Hôm nay là ngày mơ ước của tất cả
chúng ta... Ngày mà chúng ta giải phóng hoàn toàn đất nước Việt Nam này...
Những điều mơ ước của các bạn bấy lâu là độc lập, tự do,
và thống nhất thì hôm nay chúng ta đã đạt được tất cả kết quả đó...
Hôm nay tôi yêu cầu các văn nghệ sĩ cách mạng miền Nam Việt Nam, các bạn trẻ và
Chính phủ Cách mạng lâm thời xem những kẻ ra đi là những kẻ phản bội đất
nước...Chính phủ Cách mạng lâm thời đến đây với thái độ hòa giải, tốt đẹp.
Chúng ta không có lý do gì để sợ hãi mà ra đi cả. Đây là cơ hội duy nhất và đẹp
đẽ nhất để đất nước Việt Nam được thống nhất và độc lập. Thống nhất và độc lập
là những điều chúng ta mơ ước suốt mấy chục năm nay. Tôi xin tất cả các bạn,
thân hữu và cũng như những người chưa quen của tôi xin ở lại và kết hợp chặt
chẽ với Ủy ban Cách mạng lâm thời để góp tiếng nói xây dựng miền Nam Việt Nam
này..."
Trước đó, chính quyền Sài Gòn đã tuyên truyền về một cuộc tắm
máu của Việt Cộng khi Sài Gòn thất thủ. Do đó, trong sáng 30/04, rất ít người
dám ra đường mà chỉ ở trong nhà nghe radio.[53] Tuy nhiên, theo quan sát của các nhà báo
quốc tế, tại Sài Gòn và nhiều thành phố khác của miền Nam Việt Nam đã không hề
có bất kỳ một cuộc tắm máu nào xảy ra nhưng những gì bộ máy tuyền truyền của
chính quyền Việt Nam Cộng hòa cảnh báo. Hoàn toàn không có việc bắn giết, cướp
bóc, bạo lực.
Hoạt động
nổi dậy dân sự
Song song với các hoạt động quân sự của Quân Giải phóng là hoạt
động nổi dậy giành chính quyền của quần chúng nhân dân. Phía Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam đã có
những hoạt động chuẩn bị để quần chúng nổi dậy ngay từ tháng 3/1975, trong đó
xác định lực lượng thanh niên là nòng cốt. Hoạt động nổi dậy sẽ diễn ra ở 05
khu vực, bao gồm:
Khu vực 1 gồm: Ngã Bảy, Bàn Cờ, Vườn Chuối
(quận 3) do lực lượng sinh viên học sinh các trường Kỹ thuật Cao Thắng, Gia
Long và cơ sở sĩ quan Việt Nam Cộng hòa do Quân Giải phóng đã thực hiện binh vận
thành công đã trở thành cở sở cách mạng.
Khu vực 2 gồm: Khánh Hội - Xóm Chiếu thuộc
quận 4 và một phần quận Nhì do lực lượng các trường đại học Y, Nha, Dược và
Nông súc sản phụ trách.
Khu vực 3 gồm Cầu Kiệu - Võ Dung Nghiệp,
ngã tư Phú Nhuận (nay là Phan Đình Phùng) do Đoàn Công tác xã hội sinh viên học
sinh Sài Gòn phụ trách.
Khu vực 4 gồm Cầu Bông - chợ Bà Chiểu (nay
là đường Đinh Tiên Hoàng) do các cơ sở của các trường nữ, khối trung học tư thục
phụ trách.
Khu vực 5 gồm vùng ven Tân Sơn, Tân Phú, Bà
Điểm thuộc quận Tân Bình do là nơi quy tụ nhiều đồng bào công giáo nên thanh
niên công giáo cùng với các sở, cha xứ... phụ trách
Để chuẩn bị cho nổi dậy thành công, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam đã lập
các chốt phòng vệ để ngăn cản lực lượng Cảnh sát Việt Nam Cộng hòa biết tin.
Đặc biệt, trước khi nổi dậy, một số lượng lớn cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam đã được may cùng với nhiều khẩu hiệu, trong đó nội dung hướng
tới là lực lượng Việt Nam Cộng hòa cần đầu hàng ngay để hưởng khoan hồng, Chính
phủ Cách mạng lâm thời sẽ bảo đảm đầy đủ tính mạng và tài sản của người dân.
Ngay sau khi Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, không còn tiếng súng
thì người dân bắt đầu đổ ra đường. Lúc này, lực lượng thanh niên tự vệ Giải
phóng nhanh chóng giúp Quân Giải phóng tiếp quản các cơ sở chính quyền của Việt
Nam Cộng hòa và ổn định trật tự. Bên cạnh đó, người dân Sài Gòn cũng bắt đầu
đổ ra đường để chào đón, cầm cờ và dẫn đường cho Quân Giải phóng tiến về Dinh
Độc Lập.
Chiến dịch Gió lốc
Chiến dịch Gió lốc là
chiến dịch của không quân Mỹ nhằm di
tản bằng trực thăng người Mỹ và các quan chức, tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa ra
khỏi Sài Gòn, miền Nam Việt Nam, từ 29 đến 30 tháng 4 năm 1975, những ngày cuối
cùng của chiến tranh Việt Nam. Hơn 50.000 người đã di tản từ nhiều điểm ở Sài
Gòn.
Có 50.493 người (trong đó có 2.678 trẻ mồ côi Việt Nam) được di
tản từ Tân Sơn Nhất. Các phi công đã bay
tổng cộng 1.054 giờ và 682 chuyến bay trong suốt chiến dịch. Đây là chiến dịch
cuối cùng của quân đội Mỹ trong
chiến tranh Việt Nam.
Kết quả
Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 có vai trò rất quan trọng và lâu dài
trong lịch sử Việt Nam với kết quả:
Chấm dứt Chiến tranh Việt Nam và Chiến tranh Đông Dương, một quá trình chiến tranh hao
người tốn của kéo dài 30 năm với những thương vong, tổn thất rất lớn: khoảng 400.000
quân nhân Mỹ và các đồng minh của Mỹ đã chết, khoảng 1,5 triệu lính khác bị
thương (trong đó riêng quân Mỹ có 58.191 chết và 304.000 bị thương). Phía Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam có gần
1 triệu quân nhân chết (trong đó 240.000 người đến nay vẫn còn trong diện mất
tích), 600.000 quân nhân bị thương. Gần 2 triệu dân thường Việt Nam bị chết,
hơn 2 triệu dân thường bị thương tật, khoảng 2 triệu người bị phơi nhiễm các loại
hóa chất độc hại (ví dụ như chất độc da cam).[cần dẫn nguồn]
Kết thúc sự tồn tại của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Sự kiện này đã đánh dấu sự thất
bại chung cuộc của phía Hoa Kỳ, đồng
minh và Việt Nam Cộng hòa trong
cuộc chiến tại Việt Nam; chấm dứt việc các cường quốc thế giới can thiệp trực
tiếp bằng quân sự vào Việt Nam trong suốt hơn 100 năm (từ 1858 tới 1975).
Là điều kiện để thống nhất về mặt nhà nước
của Việt Nam. Thực hiện quyết định của Hội nghị Hiệp thương chính trị của đại
biểu miền Bắc và miền Nam họp ở Sài Gòn tháng 11 năm 1975, ngày 25
tháng 4 năm 1976 toàn quốc tiến hành tổng tuyển cử bầu quốc
hội chung của nước Việt Nam thống nhất. Quốc hội thống nhất họp tại Hà Nội từ ngày 24
tháng 6 đến
ngày 3 tháng
7 năm 1976 đã quyết định tên nước là: Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và đã bầu
các thành viên của cơ quan chính quyền nhà nước. Việt Nam đã bước ra khỏi chiến
tranh và thực sự trở thành một quốc gia thống nhất.
[color=red]Trên phương diện quốc tế, sự chấm
dứt Chiến tranh Việt Nam với thắng lợi của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam đánh dấu
sự thắng thế của phe Xã hội chủ nghĩa trên thế giới trong thập niên 1970 và kết
quả là một loạt các phong trào cánh tả thắng thế hoặc lên cầm quyền ở một số nước châu Á, châu
Phi và châu Mỹ
La Tinh hướng tới
mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Kết quả của cuộc chiến đã làm đảo lộn chính sách
toàn cầu của Hoa Kỳ từ chỗ chủ động tấn công phe Xã hội chủ nghĩa sang thế bị động.
Điều này kéo dài tới khi Ronald Reagan lên cầm quyền và sự dè dặt trong việc
can thiệp quân sự một cách ồ ạt, quy mô lớn chỉ chính thức chấm dứt sau Chiến tranh vùng Vịnh.[/color]
Hàng trăm nghìn binh lính thuộc chế độ Việt
Nam Cộng hòa phải học tập cải tạo trong
các trại cải tạo với thời
hạn khác nhau từ vài ngày (đối với những viên chức cấp thấp, không có ảnh hưởng
trong xã hội, không có tư tưởng chống Cộng) đến 10 năm (đối với những viên chức,
sỹ quan cấp cao và có tư tưởng chống Cộng mạnh mẽ). Một trong các mục đích của học tập cải tạo là thể
hiện Chính sách khoan hồng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam khi
họ không đưa các cựu binh đối phương ra xét xử các tội ác chiến tranh và tội ác
chống lại loài người. Đồng thời cũng để chính quyền mới tạm thời
ngăn chặn sự chống phá của các thành viên cực đoan của chế độ cũ nhằm giữ ổn định
xã hội miền Nam thời kỳ hậu chiến. Sau thời gian đi học tập cải tạo, những người
này được phục hồi đầy đủ quyền công dân. Các cơ quan công quyền có trách nhiệm
tạo điều kiện để người hoàn thành học tập, cải tạo về được lao động sản xuất để
có cuộc sống ổn định lâu dài.
Nhận định
Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam
"Trong quá trình cách mạng
Việt Nam từ khi có Đảng, ba cái móc chói lọi bằng vàng: Tổng khởi nghĩa tháng
Tám, chiến thắng Điện Biên Phủ và chiến thắng mùa xuân 1975, đại thắng mãi mãi
sáng ngời trong sử sách. Nhân dân Việt Nam đã làm nên câu chuyện thần kì tưởng
chừng không thể làm được giữa thế kỷ XX. Lần đầu tiên trong lịch sử, một dân tộc
vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế kém phát triển, đánh thắng những cường
quốc, đế quốc chủ nghĩa chủ yếu bằng sức của chính mình, nêu một tấm gương anh
dũng, bất khuất, trí tuệ, tài năng trước toàn thế giới” - Đại tướng Võ Nguyên Giáp
"Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng
lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được
ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng
sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người,
và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện
có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc...Đối với thế giới,
thắng lợi của nhân dân ta đã đập tan cuộc phản công lớn nhất của tên đế quốc đầu
sỏ chĩa vào các lực lượng cách mạng kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, đẩy
lùi trận địa của chủ nghĩa đế quốc, mở rộng trận địa của Chủ nghĩa Xã hội, phá
vỡ một phòng tuyến quan trọng của đế quốc Mỹ ở Đông Nam Á, làm đảo lộn chiến lược
toàn cầu phản cách mạng của chúng, đẩy Mỹ vào tình thế khó khăn chưa từng thấy,
làm yếu hệ thống đế quốc chủ nghĩa, tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của các
trào lưu cách mạng thời đại, đem lại lòng tin và niềm phấn khởi cho hàng trăm
triệu người trên khắp trái đất đang đấu tranh vì hòa bình độc lập dân tộc, dân
chủ và Chủ nghĩa Xã hội." - Lê Duẩn
Trong thời đại ngày nay, khi
các lực lượng cách mạng thế giới ở thế tiến công, một dân tộc nước không rộng,
người không đông, song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo
của một đảng Mác-Lê-nin, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, giương
cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, được sự đồng tình ủng hộ và
giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến
bộ trên thế giới, thì hoàn toàn có thể đánh thắng mọi thế lực đế quốc xâm lược,
dù đó là tên đế quốc đầu sỏ" (nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng cộng
sản Việt Nam).
"Toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí
Minh năm 1975 đã đưa Việt Nam tới đỉnh cao của giải phóng dân tộc và uy tín của
quốc tế. Thắng lợi của Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ không chỉ là một tác
nhân đưa đến những thay đổi rất quan trọng trong chiến lược của các nước lớn mà
còn làm chuyển đổi cục diện chính trị khu vực Đông Nam Á." (Trần Quang Cơ)
"Thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn của
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 là một thắng lợi vĩ đại nhất,
hiển hách nhất trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc
ta, mở ra một kỷ nguyên mới đầy hứa hẹn cho Tổ quốc ta." (Văn Tiến Dũng)
"Quân đội Nhân dân Việt Nam ở cả miền
Bắc và miền Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói là một quân đội anh hùng của một
dân tộc anh hùng, có tinh thần quyết chiến rất cao, thông minh và sáng tạo. Còn
vị tướng dù có công lao lớn đến đâu cũng chỉ là giọt nước trong biển cả. Chỉ có
nhân dân Việt Nam là người đánh thắng Mỹ" (Võ Nguyên Giáp).
"Ngày 30 tháng 4, không có chuyện
miền Bắc chiến thắng hay miền Nam chiến bại, mà chỉ có Đế quốc Mỹ thất bại trước
nhân dân Việt Nam mà thôi." (Bùi Tín)
"Giữa chúng ta không có kẻ thua người
thắng, mà chỉ có dân tộc Việt Nam chúng ta chiến thắng đế quốc Mỹ" (Thượng tướng Trần Văn Trà, Tư lệnh quân quản Sài Gòn, nói với Tổng
thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh)
"Đại thắng mùa Xuân năm
1975 là một trang sử hào hùng trong lịch sử dựng nước và giữ nước vĩ đại của
dân tộc ta. Chúng ta đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng
hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ
nguyên của độc lập, thống nhất và cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa - dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh - Nguyễn Tấn Dũng
Hoa Kỳ
"Không còn nghi ngờ gì nữa đối với
các ý đồ của phe Cộng sản. Họ sẽ tấn công Việt Nam Cộng hòa khi nào có thời cơ
thuận lợi; nhưng lần này sẽ là 1 cuộc tấn công quân sự với khí thế áp đảo!"
(William Colby)
"Chiến tranh Việt Nam,
theo phân tích cuối cùng, là một trận đấu giữa Mỹ và người được họ bảo vệ và trợ
cấp dồi dào với phong trào cách mạng mà gốc rễ giai cấp và cơ sở tư tưởng đưa lại
cho họ một sức bật và một sức mạnh to lớn... Nguồn sức mạnh quan trọng nhất của
Đảng Cộng sản trên ba mươi lăm năm qua là quan niệm của họ về một đạo đức cách
mạng xã hội chủ nghĩa và sự nhấn mạnh của họ đối với ý nghĩa hàng đầu của mọi
hành động và giá trị đưa đến một xã hội xã hội chủ nghĩa. Khả năng của Đảng
phát triển một tổ chức mà cuộc sống của những thành viên phù hợp với những
nguyên tắc nói trên, đã làm cho họ đạt được mục tiêu của họ". Gabriel Kolko
"Chiến thắng của họ (Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam) là chiến thắng của dân tộc Việt
Nam - người Bắc cũng như người Nam. Khác xa với một cuộc nội chiến, cuộc đấu
tranh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam là một sự khẳng định nguyên tắc
thống nhất dân tộc mà chính quyền Sài Gòn đã tuyên bố ủng hộ rồi phản bội" - Frances Fitzgerald
"Sau những năm dài tìm
cách khuất phục những dân tộc nghèo khổ bằng sự tàn bạo của sức mạnh kỹ thuật của
mình, nước Mỹ, một nước giàu mạnh nhất trên quả đất này, cuối cùng có thể bị những
người cộng sản Việt Nam đuổi ra khỏi bán đảo Đông Dương. Nếu đúng như vậy, thì
thắng lợi của người Việt Nam sẽ là một thí dụ vô song về sự toàn thắng của trí
tuệ con người đối với máy móc" (Neil Sheehan).
"Chính quyền Việt Nam Cộng
hoà sụp đổ chỉ sau 55 ngày kể từ khi quân giải phóng bắt đầu tấn công. Điều này
cũng chứng minh cho căn bệnh mà chính quyền này đã bị nhiễm phải ngay từ khi
thành lập: sự manh mún về chính trị; thiếu các nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa
trông rộng và có năng lực; một tầng lớp trên mệt mỏi và tham nhũng không có khả
năng điều chỉnh cho thích nghi đã tạo nên một cơ sở quốc gia yếu kém đến mức
nguy hiểm... Trước những thực tế khắc nghiệt này, nỗ lực nhằm tạo nên một thành
trì chống cộng ở ngay phía nam vĩ tuyến 17 đã có mầm mống thất bại ngay từ đầu."George C. Herring.
"Đó là một cuộc chiến
tranh (chiến tranh Việt Nam) lâu dài và khó khăn mà chúng ta đã thua. Thất bại
độc nhất của lịch sử Hoa Kỳ chắc sẽ
không báo trước sức mạnh bá chủ toàn cầu của nước Mỹ đã chấm dứt. Nhưng... Ai
không học được gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ phải lặp lại sai lầm trong lịch sử" (Tom Polgar, nhân
viên cao cấp tòa Đại sứ Mỹ ở Việt Nam).
"Sao chúng (Việt Nam Cộng
hoà) không chết phứt đi cho rồi? Điều tệ hại nhất có thể xảy ra là chúng cứ sống
dai dẳng hoài" - Henry
Kissinger, nói trên chuyến bay ngày 9/4/1975
"Hà Nội chỉ chiến đấu với
một lẽ duy nhất, đó là lòng yêu nước của họ. Và một nước Việt Nam thống nhất dưới
sự lãnh đạo của những người cộng sản Việt Nam, chiến thắng vào năm 1975, chính
là mối đe dọa chiến lược to lớn đối với Trung Quốc còn hơn đối với Mỹ." - Henry
Kissinger
Việt Nam
Cộng hòa
"Người Mỹ họ có đường lối
của họ: đó là họ phải nắm chỉ huy ở miền Nam này. Họ chỉ huy trong mọi lĩnh vực,
từ chính trị, kinh tế tới ngoại giao... Mỹ nắm hết. Rồi chính Mỹ đã từ bỏ miền
Nam Việt Nam." - Tướng Nguyễn Hữu Hạnh
"Ngày 10 tháng 3 năm 1975,
Quân đội Bắc Việt Nam đánh chiếm Ban Mê Thuột. Đến ngày 30-4 đã tiến vào Sài
gòn. Tốc độ như vũ bão, vỏn vẹn chỉ có 52 ngày... Nói tới cung cách ra đi, sao
thật quá thê thảm. Trong trường kỳ, việc bỏ rơi, nhất là "cung cách tháo
chạy" đã làm tổn hại rất nhiều tới "mức độ tin cậy" của chính
sách ngoại giao cũng như uy tín Hoa Kỳ. Bạn thì hết tin tưởng, kẻ thù thì hết
kính sợ... - Cựu Bộ
trưởng kinh tế của Việt Nam Cộng hòa, Nguyễn Tiến Hưng"Thống
nhất xứ sở là nhiệm vụ lịch sử của mỗi một người con Việt Nam nhưng chúng tôi
đã không làm được. Nhưng những người anh em phía bên kia đã làm được, phải chấp
nhận đó là lịch sử và đất nước đã được thống nhất rồi. Vậy mà còn quay ra nói
phục quốc? Nước Việt Nam có mất cho Tây cho Tàu đâu mà phục quốc?" - Cựu Thủ tướng của Việt Nam Cộng hòa, Nguyễn Cao Kỳ (nhận
xét về việc các cựu quan chức Việt Nam Cộng hòa lưu vong ở hải ngoại gọi ngày
30/4 là "quốc hận" và đòi "phục quốc")
"Ngày hôm nay (30/4/1975),
đại diện cho các anh em có mặt tại đây, tôi nhiệt liệt hoan nghênh sự thành
công của Chính phủ cách mạng (lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam) trong công
cuộc vãn hồi hòa bình cho đất nước. Với kỷ nguyên mới này, tôi mong rằng tất cả
anh em có mặt tại đây, cũng như các tầng lớp đồng bào, sẽ có dịp đóng góp tích
cực cho công cuộc xây dựng đất nước … Tôi nghĩ rằng với hành động của mình (đầu
hàng), tôi đã góp phần tránh một cuộc đổ máu vô ích cuối cùng cho Sài Gòn. Đó
là phần đóng góp cụ thể của tôi trong cuộc chiến đấu này. Riêng cá nhân tôi,
hôm nay tôi rất hân hoan khi được 60 tuổi, trở thành một công dân của một nước
Việt Nam độc lập" (Tổng
thống Dương Văn Minh)
"Chiến thắng 30/4/1975 rất vĩ đại,
là chiến thắng của sức mạnh toàn dân tộc Việt Nam...Không
còn chiến tranh, không còn bom rơi đạn nổ trên quê hương mình là điều lớn nhất
mà việc kết thúc chiến tranh mang lại".(Tướng Nguyễn Hữu Có, Phó thủ tướng, kiêm Tổng trưởng
Quốc phòng, đồng thời là Tổng tham mưu trưởng Việt Nam Cộng hòa)