Nhà Tây Sơn
Nhà Tây Sơn
Đế quốc
1778–1802
Quốc kỳ
Tình
hình Việt Nam thời điểm giữa năm 1788:
Lãnh thổ nằm dưới sự quản lý của Nguyễn
Huệ
Lãnh thổ nằm dưới sự quản lý của Nguyễn Nhạc. Tới cuối năm
1788, Nguyễn Nhạc bàn giao lại lãnh thổ này cho Nguyễn Huệ cai quản. Nguyễn Huệ
trở thành chỉ huy chung của nhà Tây Sơn
Thủ đô Quy
Nhơn, (1778-1788); Phú
Xuân, (1788-1802)
Ngôn ngữ Tiếng Việt (Văn tự: Chữ Nôm), Tiếng Chăm, Tiếng Quảng Đông, Tiếng Khách Gia
Ngôn ngữ Tiếng Việt (Văn tự: Chữ Nôm), Tiếng Chăm, Tiếng Quảng Đông, Tiếng Khách Gia
Lịch sử
Thành lập 1778
Khởi nghĩa Tây Sơn bùng
nổ 1771
Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế 1778
Nhà Tây Sơn (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / Tây Sơn triều) là một triều đại quân chủ trong
lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, được thành lập trong bối cảnh tranh
chấp quyền lực cuối thời Lê trung hưng(1533–1789).
Theo cách gọi của phần lớn sử gia, nhất là
các sử gia hiện đại tại Việt Nam thì
"nhà Tây Sơn" được dùng để gọi triều đại của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ để phân biệt
với nhà Nguyễn của Nguyễn Ánh (vì cùng họ Nguyễn).
Ngoài ra, "Tây Sơn" cũng chỉ
các lãnh tụ và quân đội khởi
nghĩa xuất thân từ ấp Tây Sơn; cũng được dùng làm tên
cuộc chiến của Tây Sơn.
Một trong những công tích lớn nhất của nhà
Tây Sơn trong lịch sử dân tộc là đã tiến đến rất
gần công cuộc thống nhất và đồng thời mở rộng lãnh thổ đất nước sau hàng trăm năm
Việt Nam bị chia cắt bởi các cuộc tranh giành quyền lực giữa các thế lực
lớn Mạc-Trịnh-Nguyễn kể từ khi nhà Lê sơ (1428–1527) bị sụp đổ.
Tuy nhiên việc vua Quang Trung (Nguyễn Huệ)
đột ngột qua đời khi còn khá trẻ đã khiến ưu thế của Tây Sơn chuyển vào
tay Nguyễn Ánh, một hậu duệ của Chúa
Nguyễn cũng sinh trưởng trên đất Đàng Trong trong thế kỷ 18 với nhiều biến động
lớn của lịch sử.
Triều đại Tây Sơn tồn tại khoảng 24 năm thì
sụp đổ sau khi chúa Nguyễn Ánh tiến hành một cuộc
chiến tranh toàn diện để tiêu diệt nhà Tây Sơn và thành lập nhà Nguyễn.
Đối với Nhà Nguyễn, nhà Tây Sơn bị xem là "giặc phản
loạn" nên sau này nhà Nguyễn tìm nhiều cách xóa bỏ uy tín và những chứng
tích liên quan tới nhà Tây Sơn, nhưng những người dân mộ mến vẫn ghi nhớ công
lao và lập đền thờ các vị vua, tướng lĩnh của triều đại này.
Ngày nay, nhà Tây Sơn được coi là một triều
đại chính thống của Việt Nam, hoàng đế Quang Trung được coi là người anh hùng dân tộc
với những chiến công chống ngoại xâm và cũng là người đề ra nhiều cải cách quan
trọng trong xây dựng đất nước.
Bối
cảnh lịch sử
Trong thế kỷ
18, nước Đại Việt nằm dưới quyền cai trị tượng trưng
của vua Lê, có danh mà không có quyền hành chính trị. Quyền lực thực sự nằm
trong tay hai gia đình phong kiến, các chúa
Trịnh ở phía bắc, kiểm soát nhà vua và điều khiển triều đình
ở Thăng Longvà các chúa Nguyễn ở phía nam, đóng đô tại thành Phú Xuân.
Hai bên từng đánh lẫn nhau để giành quyền kiểm soát toàn bộ đất
nước trong suốt 45 năm và đều tuyên bố trung thành với nhà Hậu
Lê để củng cố quyền lực cho mình.
Giống như Trung
Quốc ở thời điểm đó, đời sống nông dân rất thấp kém. Đa số ruộng
đất theo thời gian rơi vào tay số ít người. Quan lại thường
áp bức và tham nhũng; các vị chúa cai trị sống hoang phí trong những cung điện
lớn.[cần dẫn nguồn]
Cuộc chiến Trịnh Nguyễn phân tranh kết thúc năm 1672 và
cuộc sống của những người nông dân ở phía Bắc của các chúa Trịnh khá yên bình.
Trong khi đó ở phía Nam, các chúa Nguyễn dần dần sáp nhập vương quốc Chiêm
Thành và ảnh hưởng chính trị, quân sự lên vương quốc Chân
Lạp. Các chúa Nguyễn thường hỗ trợ quân sự cho Chân Lạp để Chân Lạp
đánh lại một nước mạnh kế cạnh là Xiêm. Từ
đó, các Chúa Nguyễn nhận các vùng đất từ Chân Lạp như món quà đền ơn, mở mang
thêm lãnh thổ Đàng Trong về phía Nam.
Từ giữa thế kỷ 18, người nông dân bị bần cùng và họ đã đứng lên
khởi nghĩa cả ở Đàng Ngoài lẫn Đàng
Trong. So với Đàng Trong, phong trào nông dân Đàng Ngoài mạnh mẽ hơn.
Tuy nhiên, các cuộc khởi nghĩa quận He, quận Hẻo, chàng
Lía, Hoàng Công Chất... ở Đàng Ngoài và Đàng Trong
nhìn chung đều chưa đủ quy mô, sức mạnh và sự liên kết cần thiết để đánh đổ
chính quyền cai trị. Mặt khác, những người cầm quyền lúc đó như Trịnh
Doanh ở Đàng Ngoài và Nguyễn Phúc Khoát ở Đàng Trong có đủ tài
năng, uy tín để huy động lực lượng trấn áp các cuộc khởi nghĩa.
Phân tích
Tượng Tây Sơn Tam Kiệt ở Bảo tàng Quang
Trung, Quy Nhơn, Bình Định.
Ba anh em Tây Sơn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn
Lữ và Nguyễn Huệ, được gọi là "Tây Sơn tam kiệt".
Các nguồn tài liệu về thân thế Nguyễn Huệ và anh em Tây Sơn chưa hoàn toàn
thống nhất.
Các sách Đại Việt sử ký tục biên, Đại Nam
thực lục tiền biên, Đại Nam chính biên liệt truyện, Khâm định Việt sử Thông giám
Cương mục đều ghi các thủ lĩnh Tây Sơn là họ Nguyễn, nhưng không nói
tổ tiên là họ gì.
Tổ tiên nhà Tây Sơn vốn họ Hồ ở
làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Họ
theo chân chúa Nguyễn vào lập nghiệp miền Nam khi
chúa Nguyễn vượt Lũy Thầy đánh ra đất Lê - Trịnh tới Nghệ An (1655).
Ông cố của Nguyễn Huệ tên là Hồ Phi Long (vào giúp việc cho nhà
họ Đinh ở thôn Bằng Chân, huyện Tuy Viễn, tức An Nhơn) cưới vợ họ Đinh và sinh
được một trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không theo việc nông mà bỏ đi
buôn trầu ở ấp Tây Sơn, cưới
vợ và định cư tại đó.
Vợ của Hồ Phi Tiễn là Nguyễn Thị Đồng, con gái duy nhất của một
phú thương đất Phú Lạc, do đó họ đổi họ của con cái mình từ họ Hồ sang họ
Nguyễn của mẹ.
Người con là Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và làm
ăn phát đạt. Cũng có tài liệu cho rằng họ Hồ đã đổi theo họ chúa Nguyễn ngay từ
khi mới vào Nam.
Nguyễn Phi Phúc có
tám người con, trong đó có ba người con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn
Huệ. Về thứ tự của Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ trong các anh em, các nguồn tài liệu
ghi không thống nhất:
·
Các sách Đại Nam thực lục chính biên, Đại
Nam chính biên liệt truyện, Tây Sơn thuỷ mạt khảo đều thống
nhất ngôi thứ trong ba anh em Tây Sơn đã khẳng định rằng: "Con trưởng là
Nhạc, kế là Lữ, kế nữa là Huệ".
·
Theo thư từ của các giáo sĩ phương Tây hoạt động ở Đại Việt khi đó như Labartette, Eyet và Varen
thì Nguyễn Huệ là em của Nguyễn Lữ. Nguyễn Lữ được gọi là Đức Ông Bảy còn
Nguyễn Huệ là Đức Ông Tám.
·
Lê Trọng Hàm trong sách Minh đô sử lại cho rằng
Hồ Phi Phúc sinh "Nhạc, Lữ đến hai cô con gái rồi đến Huệ".
·
Dân phủ Quy Nhơn xưa truyền lại rằng: Nguyễn Nhạc thuở đi buôn
trầu nên gọi anh Hai Trầu; Nguyễn Huệ còn có tên là Thơm nên gọi là chú Ba
Thơm; Nguyễn Lữ gọi là thầy Tư Lữ vì có thuở Nguyễn Lữ đi tu theo đạo Hồi Bani
(Islam Bani) một hệ tôn giáo của người Chàm cổ.
Theo một tài liệu mới công bố tại Hội thảo về Tây Sơn, gia đình
Nguyễn Nhạc có ít nhất 4 anh em trai, anh đầu là Nguyễn Quang Hoa. Quang Hoa có
thể do bị chết sớm hoặc vì lý do nào đó không tham gia lãnh đạo phong trào Tây
Sơn, nên không được sử sách ghi lại.
Lớn lên, ba anh em được đưa đến thụ giáo cả văn lẫn võ với
thầy Trương Văn Hiến. Chính người thầy này đã phát
hiện được khả năng khác thường của Nguyễn Huệ và khuyên ba anh em khởi nghĩa để
xây dựng đại nghiệp. Tương truyền câu sấm: "Tây khởi nghĩa, Bắc thu
công" là của ông.
Trong những năm đầu tiên, Nguyễn Nhạc đóng vai trò quan trọng
nhất. Tương truyền trước khi nổi dậy ông từng đi buôn trầu nên được gọi là Hai
Trầu.
Sử nhà
Nguyễn chép rằng ông được chúa Nguyễn giao cho việc thu thuế
trong vùng nhưng mang tiền thu thuế đánh bạc mất hết, cùng quẫn phải nổi dậy.
Theo ý kiến của PGS Nguyễn Phan Quang trong
sách Phong trào nông dân Tây Sơn (2003), tình tiết này thực
chất là dụng ý nói xấu người "phản loạn" của nhà Nguyễn sau khi họ đã
thắng trận.
Ban đầu, quân Tây Sơn nổi dậy và dần đánh chiếm được nhiều lãnh
thổ ở Đàng Trong. Lúc này, quân Trịnh nhân lúc chúa Nguyễn suy yếu cũng kéo vào
Nam, chiếm được Phú Xuân và đánh 1 trận với quân Tây Sơn ở Quảng Nam. Để làm
hòa, Tây Sơn đồng ý nghị hòa với quân Trịnh, sau đó sẽ mang quân vào đánh chúa
Nguyễn.
Chúa Trịnh đồng ý, phong tước cho Tây Sơn và không đánh nữa.
Quân Tây Sơn tiếp tục đánh chúa Nguyễn và dần dần chiếm được đất
đai và lớn mạnh, bắt đầu có sự tự chủ.
Sau khi chiếm được phần lớn Đàng Trong, quân Tây Sơn đánh ra
Đàng Ngoài, lật đổ chúa Trịnh, kết thúc cục diện chia cắt Đại Việt dài 200 năm
giữa các chúa Trịnh và chúa Nguyễn.
Lật
đổ chúa Nguyễn
Tình hình chính sự của chúa Nguyễn
Ở Đàng Trong, trong những năm cuối đời, Chúa Nguyễn Phúc Khoát đâm ra say mê tửu sắc,
không còn quan tâm việc nước nữa, giao hết mọi việc cho quyền thần Trương Phúc Loan. Theo thông tin trên trang
Nguyễn Phước tộc, thì:
Để dễ dàng trong việc tiếm
quyền, chính Trương Phúc Loan đã khuyến dụ Chúa Võ đi vào con đường nữ sắc. Một cung phi
rất được ngài sủng ái là Công nữ Nguyễn
Phúc Ngọc Cầu, con của Dận quốc công Nguyễn Phúc Điền. Đây chính là mầm mống gây cảnh suy tàn của triều đại sau này.
Chính sự họ Nguyễn ngay từ thời Nguyễn Phúc Khoát đã gây những
ảnh hưởng tiêu cực cho dân chúng. Hệ thống thuế khóa phức tạp, cồng kềnh, nặng
nề, quan dưới lạm thu khiến dân phải nộp nhiều hơn quy định. Thuế
thổ sản có tới hàng ngàn thứ, tính cả những sản vật nhỏ nhặt. Năm
1741, Phúc Khoát ra lệnh truy thu thuế của cả những người bỏ trốn. Tới năm 1765
lại có lệnh truy thu thuế còn thiếu của 10 năm trước
Năm 1765, Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát chết, chính quyền chúa Nguyễn rơi vào tay quyền thần Trương Phúc Loan. Loan thao túng triều chính,
tự xưng là "Quốc phó", giết Nguyễn Phúc Luân (cha Nguyễn
Phúc Ánh) và lập Nguyễn Phúc Thuần, lúc đó mới 12 tuổi lên ngôi,
tức là Định vương. Trương Phúc Loan trở thành quyền thần lấn lướt, mọi quyền
hành đều bị thao túng. Loan nắm giữ Bộ Hộ, quản
cơ Trung tượng kiêm Tàu vụ, thâu tóm mọi quyền lực về chính trị và kinh tế.
Loan nổi tiếng là tham lam, vơ vét của công, mua quỵt của các thương nhân nước
ngoài. Thuế sản vật các mỏ vàng Thu Bồn, Đồng Hương, Trà Sơn, Trà Vân... đều
rơi vào tay Loan, hàng năm Loan chỉ nộp vào ngân sách quốc gia 1-2 phần mười số
thuế thu được. Có đợt sau trận lụt, nhà Loan bày vàng ra phơi "sáng
chóe" cả sân Cả
nhà họ Trương chia nhau nắm giữ mọi chức vụ chủ chốt. Người bấy giờ gọi là
Trương Tần Cối.
Cùng lúc đó, Lại bộ thượng thư Nguyễn Cư Trinh, trụ cột của triều Nguyễn qua
đời (tháng 5 năm 1767). Họ Trương không còn ai ngăn trở, càng ra sức lộng hành:
bán quan tước, ăn tiền tha tội, hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, nhân
dân cực khổ. Những người có tài như Tôn Thất Dục bị
Loan tìm cách hãm hại. Tài chính vô cùng kiệt quệ. Cơ nghiệp Chúa Nguyễn đến
đây là suy vong, nhiêu cuộc nổi dậy của nông dân bắt đầu diễn ra.
Năm 1769, vị vua mới của nước Xiêm là Taksin tung
ra một cuộc chiến nhằm tìm cách lấy lại quyền kiểm soát nước Chân
Lạp (Campuchia) vốn chịu nhiều ảnh hưởng của chúa Nguyễn. Quân của Chúa Nguyễn buộc phải lùi bước
khỏi những vùng đất mới chiếm.
Thất bại trước những cuộc đụng độ với Xiêm La cộng với sưu thuế
nặng nề cùng tình trạng tham nhũng tại địa phương khiến cho chính quyền Chúa
Nguyễn đã yếu càng yếu thêm. Nhiều nông dân lâm vào nghèo khổ, mâu thuẫn xã
hội Đàng Trong trở nên gay gắt. Đó chính là thời cơ
để ba anh em Tây Sơn bắt đầu khởi nghĩa chống lại chúa Nguyễn.
Tây Sơn khởi nghĩa
Một nhóm người Đàng Trong tại Tourane tức Đà Nẵng thời
Tây Sơn-Tranh của họa sĩ người Anh William
Alexander
Khởi phát từ ấp Tây Sơn, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn
Huệ tập hợp lực lượng, ban đầu chủ yếu là người Thượng, đứng lên khởi nghĩa. Lấy danh nghĩa chống
lại Quốc phó Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương là cháu đích tôn của Vũ
vương Nguyễn Phúc Khoát, Nguyễn Nhạc phất cờ nổi dậy
năm 1771. Bởi Tây Sơn mang danh nghĩa ủng hộ hoàng tôn Dương và khi đánh trận
thường la ó ầm ĩ nên dân gian có câu:
"Binh triều là binh
Quốc phó
Binh ó là binh Hoàng
tôn"
Tây Sơn có được sự ủng hộ rất lớn của dân chúng, không chỉ những
người nông dân nghèo mà cả một số sắc dân thiểu số và lực lượng người
Hoa như hai đạo quân của Lý Tài, Tập
Đình. Lực lượng Tây Sơn không những đánh đâu thắng đó mà còn nổi
tiếng vì bình đẳng, bình quyền, không tham ô của dân và lấy của người giàu chia
cho người nghèo. Nghĩa quân đã từng nêu lên khẩu hiệu: "Lấy của
nhà giàu chia cho dân nghèo". Điều đó được các giáo sĩ Tây Ban
Nha, điển hình là Diego de Jumilla ghi lại, sách Les
Espagnols dans l’Empire d’Annam trích dẫn như sau:
"Ban ngày họ xuống
các chợ, kẻ đeo gươm, người mang cung tên, có ngưòi mang súng. Họ không hề làm
thiệt hại đến người và của. Trái lại họ tỏ ra muốn bình đẳng giữa mọi người Đàng Trong; họ vào nhà
giàu, nếu đem nộp họ ít nhiều thì họ không gây tổn hại, nhưng nếu chống cự lại
thì họ cướp lấy những của quý đem chia cho người nghèo; họ chỉ giữ gạo và lương
thực cho họ mà thôi... Người ta gọi họ là bọn cướp đạo đức và nhân từ đối với
quần chúng nghèo khổ..."[16].
Những năm đầu tiên, lực lượng của nghĩa quân còn yếu, nhưng được
sự giúp đỡ của nhân dân quanh vùng. Bấy giờ có người trí thức là Huyền Khê dâng
tiền giúp, phú nông là Nguyễn Thung ra
sức khuyến dụ mọi người gia nhập nghĩa quân.
Năm 1773, Nguyễn Nhạc tự xưng là Đệ nhất trại chủ, cai quản hai huyện
Phù Ly, Bồng Sơn, Nguyễn Thung xưng là Đệ nhị trại chủ, Huyền Khê xưng Đệ tam
trại chủ, coi việc quân lương.
Sau khi đứng vững ở địa bàn ấp Tây Sơn, năm sau, cuộc khởi nghĩa
lan rộng và nghĩa quân đã thắng một số trận chống lại quân chúa Nguyễn được
phái tới trấn áp cuộc khởi nghĩa.
Năm 1773 quân Tây Sơn dùng mưu đánh chiếm được thành Quy
Nhơn. Tương truyền Nguyễn Nhạc tự ngồi vào cũi cho quân lính của
mình khiêng đến trá hàng, nộp quân họ Nguyễn. Nửa đêm, ông phá cũi, cùng quân
trá hàng làm nội ứng và quân bên ngoài tới phối hợp đánh chiếm thành. Thành này
là nơi các nhà buôn, vì đã phải chịu nhiều luật lệ ngăn cấm do triều đình họ
Nguyễn đưa ra, đã quay sang ủng hộ tài chính cho Tây Sơn.
Sau khi hạ thành Quy Nhơn, quân Tây Sơn nhanh chóng đánh xuống
phía nam, kiểm soát vùng đất từ Quảng
Ngãi đến Bình
Thuận.
Quân Trịnh tham chiến
Năm 1774, chúa Nguyễn sai Nguyễn Cửu Thông đem
quân đánh Tây Sơn, bị Nguyễn Nhạc đánh bại. Mùa hè năm đó, chúa sai Tống Phúc Hiệp đem quân từ Hòn Khói (Nha
Trang) đánh lên. Tây Sơn phải lui về giữ Phú Yên.
Họ Nguyễn, khi cuối cùng đã nhận ra sự nguy hiểm của cuộc khởi
nghĩa, đã ký hòa ước với người Xiêm, từ bỏ một số vùng họ đã chiếm được trong
những thập kỷ trước đó. Tuy nhiên không vì thế mà họ Nguyễn được rảnh tay đánh
Tây Sơn. Tháng 10 năm 1774, chúa Trịnh
Sâm, sau 100 năm giữ hòa bình với chúa Nguyễn, sai Quận Việp Hoàng Ngũ Phúc, một viên tướng lão luyện,
mang 4 vạn quân vào nam tấn công Phú Xuân (Huế), cũng
lấy danh nghĩa trừng phạt Trương Phúc Loan. Mặc dù chúa Nguyễn Phúc Thuần buộc
phải trói Loan nộp cho Hoàng Ngũ Phúc nhưng rồi quân Trịnh vẫn tiến. Quân
Nguyễn không chống nổi, quân Trịnh chiếm thành Phú Xuân, buộc họ Nguyễn phải bỏ
chạy về Quảng Nam. Nhưng tại đây chúa Nguyễn lại bị Tây Sơn
đánh ra uy hiếp, bắt được hoàng tôn Dương. Chúa Nguyễn cùng thế phải vượt biển
trốn vào Gia Định (tức Sài Gòn).
Tháng 5 năm 1775, Tống
Phước Hiệp tiến quân ra Phú Yên đánh Tây Sơn, Nguyễn Nhạc mất Phú Yên, chỉ còn
giữ Quy Nhơn và Quảng Ngãi.
Quân Trịnh tiếp tục đi về phía nam vượt đèo Hải Vân và đụng độ
với quân Tây Sơn ở Quảng Nam. Quân Tây Sơn thua trận. Trước tình thế
"lưỡng đầu thọ địch", Nguyễn Nhạc xin giảng hòa với quân Trịnh, trên
danh nghĩa đầu hàng nhà Lê, xin
làm tiên phong đi đánh chúa Nguyễn ở Gia Định. Chúa Trịnh bằng lòng và phong
chức cho Nguyễn Nhạc.
Tháng 7 năm 1775, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ đánh Phú Yên, quân Nguyễn tan
vỡ, Tống Phúc Hiệp phải rút về Hòn
Khói. Bùi Công Kế ở
Bình Khang và Tống Văn Khôi từ
Khánh Hòa đem quân ra chiếm lại Phú Yên, đều thất bại, Kế bị bắt sống còn Khôi
tử trận.
Từ đó thế lực của Tây Sơn được củng cố. Hoàng Ngũ Phúc đành xin
chúa Trịnh phong Nguyễn Nhạc là Tây Sơn Hiệu Trưởng tiên phong tướng
quân, rồi dâng biểu về triều, xin về Thuận Hóa, nhưng rồi Ngũ Phúc bị bệnh,
mất trên đường về. Từ đó toàn bộ khu vực đèo Hải Vân trở xuống đều thuộc về
nghĩa quân Tây Sơn. Trịnh Sâm phải phong cho Nguyễn Nhạc trấn thủ Quảng Nam.
Tiến đánh Gia Định
Tạm yên mặt Bắc, Tây Sơn tập trung lực lượng tiếp tục việc chinh
phục phía nam. Trong gần 10 năm (từ 1776 đến 1783) quân
Tây Sơn nhiều lần vào đánh chiếm Gia Định.
Bấy giờ Nguyễn Phúc Thuần ở Gia
Định được Mạc Thiên Tứ giúp sức, lại có thêm hàng tướng Tây
Sơn là Lý Tài, thế lực được củng cố. Trước tình hình đó, tháng 3 năm
1776, Nguyễn
Lữ đem quân đánh Gia Định, chúa Nguyễn không đề phòng nên đại
bại, phải chạy ra Trấn
Biên. Nguyễn Lữ đem lương thực cướp được chở về Quy
Nhơn.
Sau khi Tống Phúc Hiệp mất, giữa Đỗ Thanh Nhân và Lý Tài phát sinh mâu
thuẫn, Lý Tài thế lực lớn mạnh, tháng 11 năm 1776, ép chúa Nguyễn nhường ngôi
cho Nguyễn Phúc Dương.
Tháng 3 năm 1777,
Nguyễn Nhạc cử Nguyễn Huệ làm tướng đánh Gia Định lần thứ 2. Lý
Tài thua trận, bỏ chạy khỏi thành, đưa 2 chúa Nguyễn về Hóc Môn, sau lại thua trận phải rút khỏi Hóc Môn,
nhưng bị quân Tây Sơn phong tỏa nên ông cùng đường buộc phải mang tàn quân chạy
về Ba Giòng - căn cứ quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhân, và bị quân Đông
Sơn tiêu diệt.[17]
Tháng 4 năm 1777, dưới
sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, quân Tây Sơn lại đánh quân Nguyễn. Nguyễn Phúc Dương
và Nguyễn Phúc Thuần bỏ trốn nhưng đều không thoát, bị bắt đem xử tử vào cuối
năm 1777. Một hoàng tôn tên là Nguyễn
Ánh, con trai của Nguyễn Phúc Luân, lúc đó 15 tuổi, chạy thoát ra
đảo Thổ Chu.
Mỗi năm cứ đến mùa gió thuận thì binh Tây Sơn trẩy thuyền vào
Nam ruồng kiếm, quyết tận diệt dòng chúa Nguyễn Phúc[18][19].
Tuy nhiên, lần nào cùng vậy, sau khi chiếm được Gia Định, chủ
tướng (Nguyễn Lữ hoặc Nguyễn Huệ) và quân chủ lực của Tây Sơn rút về giao lại
cho một bộ tướng coi giữ, chỉ một thời gian sau lực lượng họ Nguyễn lại tụ tập
và nhanh chóng chiếm lại vùng Nam Bộ. Nguyễn Ánh được tướng Đỗ Thanh Nhân
(Nhơn) đón và lập làm chúa Nguyễn mới (1778). Ánh tụ tập lại lực lượng trung
thành, khởi binh từ đất Long Xuyên[20], đánh
đuổi quân trấn thủ Tây Sơn tại Gia Định, lấy lại thành Sài Gòn. Bấy giờ Nguyễn
Ánh mới được các tướng tôn làm Đại nguyên súy, Nhiếp quốc chính[21]. Nguyễn Ánh tập trung củng cố
lực lượng. Tháng 5 năm năm 1778,
Nguyễn Ánh chiếm Bình
Thuận. Năm 1780, Nguyễn Ánh xưng vương.
Quân Tây Sơn nhiều lần đánh vào Nam và truy sát nhưng nhờ may
mắn, Ánh đều trốn thoát, có lần phải lênh đênh ngoài biển dưới bão mấy ngày.
Năm 1781, nội bộ họ Nguyễn bất hòa do Nguyễn Ánh giết chết Đỗ Thanh Nhân
nhưng tháng 5 năm đó, Ánh vẫn đem quân đánh Bình Khang, song không thắng, phải
rút lui.
Tháng 3 năm 1782,
Nguyễn Huệ đem quân đánh Gia Định lần thứ tư đem quân đánh Cần Giờ.
Nguyễn Ánh dàn quân chống cự, nhưng quân Tây Sơn cứ ào ạt tiến tới, Nguyễn Ánh
thua trận, lui về Bến Nghé. Nguyễn Huệ đuổi theo, Nguyễn Ánh chạy về
Ba Giồng, rồi về Hậu
Giang, sai Nguyễn Hữu Thụy sang Xiêm cầu viện, Nguyễn Ánh trốn ra đảo
Phú Quốc.
Triều đường chi ân của nhà Tây Sơn
Khi cơ bản chinh phục được họ Nguyễn, tăng cường sức mạnh và uy
thế, năm 1778, sau
khi giết được Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Nhạc tự xưng làm vua,
lập triều đại Tây Sơn, đặt niên hiệu là Thái Đức, đóng đô tại thành Quy
Nhơn (thành Đồ Bàn cũ
của nước Chiêm
Thành), đổi tên thành Hoàng đế thành, phong cho Nguyễn Lữ làm Tiết
chế, Nguyễn Huệ là Long Nhương tướng quân, không ràng buộc với chúa Trịnh nữa.
Tấn công
người Hoa
Sử sách nhà Nguyễn và một số thư từ của các giáo sĩ ở Gia Định
thời đó đều ghi lại việc tấn công người Hoa của Tây Sơn vào năm 1782, do những
người Hoa này đã hỗ trợ cho chúa Nguyễn chống lại Tây Sơn. Việc người Hoa trợ
giúp cho chúa Nguyễn khiến họ gây nên mối thù với Tây Sơn và Nguyễn Nhạc đã coi người Hoa là đối thủ chiến
tranh cần phải diệt trừ. Ngoài ra, phần lớn ngoại thương ở miền Nam khi đó nằm
trong tay thương nhân người Hoa, một sắc dân từ ngoại quốc, khiến Tây Sơn thấy
rằng cần phải loại bỏ thế lực kinh tế của họ để tránh mối đe dọa với họ sau
này.[cần dẫn nguồn]
Quân Tây Sơn khi tấn công vào Cù lao
Phố thì gặp phải sự chống đối mạnh của quân Hòa Nghĩa (người
Hoa) ủng hộ Nguyễn Ánh tại đây khiến cho một thân tướng là Đô
đốc Phạm
Ngạn tử trận, binh lính thương vong nhiều, Nguyễn Nhạc nghe tin rất đau xót (Đại Nam Thực
Lục viết: "...Nguyễn Nhạc nghe tin Ngạn chết, đau như mất hai
tay"), ông cho rằng đạo quân Hòa Nghĩa toàn là quân
Thanh trá hình, rồi nổi giận ra lệnh phá nát khu người Hoa ở Gia
Định để trả thù.
Sách Lịch sử Gia Định-Sài Gòn trước 1802 dẫn
lại từ Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, một viên quan người Hoa
của nhà Nguyễn năm 1820, đã mô tả cuộc tấn
công người Hoa ở Gia Định do Nguyễn Nhạc chỉ huy năm 1782 ghi
lại việc quân Tây Sơn làm trong những lần nam tiến:
"Năm 1776 khi mới tiến
vào Gia Định thì
quân Tây Sơn đã tàn phá Cù lao Phố, một vùng thương mại sầm uất bậc nhất xứ Đàng Trong. Họ dỡ phòng ốc gạch, ngóiđem hết về Quy Nhơn khiến dân cư bỏ chạy
lưu tán khắp nơi. Năm 1778 khi chúa Nguyễn đã giành lại được Cù lao Phố thì kiểm điểm lại,
dân cư còn chưa tới 1% lúc trước".
"Từ Bến Nghé tới Sài Gòn xác chết ngổn ngang, vứt cả xuống sông, nước không chảy được, hai
ba tháng sau dân cũng không dám
ăn tôm, cá... mọi người đều khổ sở".
Sách Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802 của Tạ Chí Đại Trường trích dẫn từ Đại
Nam Thực Lục, Đại Nam Liệt Truyện và thư của các linh mục có mặt
ở Gia Định lúc đó miêu tả vụ phá hủy khu người
Hoa ở Chợ Lớn năm
1782 của Nguyễn Nhạc:
''Người Trung Hoa, bất luận
binh lính hay dân buôn, mới đến hay ở lâu, đều bị bắt giết, thây chất ngổn
ngang vất đầy sông ngòi, đến nổi nước ấy không chảy, cả tháng hơn người ta
không ai dám ăn tôm cá, uống nước sông. (...) Những ai có hàng Trung Hoa trong
nhà như vải, lụa, trà thuốc, hương giấy... đều vứt cả ra đường mà không người
dám lượm. Andre Tôn (thư ngày 1-7-1784) nói có từ 10.000 đến 12.000 người chết''
Đánh
bại liên quân Xiêm - Nguyễn Ánh
Trong thời gian còn chống trả Tây Sơn tại Nam Bộ, Nguyễn Ánh nhiều lần thông qua giám mục Pigneau de Béhaine (hay Bá Đa Lộc) để cầu viện người Pháp nhưng
không thu được nhiều kết quả. Do đó Ánh có ý chuyển sang cầu viện ở Xiêm La.
Tháng 2 năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Ánh từ Hà Tiên sang Xiêm La hội
kiến với vua Xiêm La là Chất Tri (Chakri,
Rama I) tại Vọng Các (Bangkok). Theo
quan điểm của các tác giả Việt Nam hiện đại là Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc
Phụng thì đây là lần "cõng rắn cắn gà nhà" đầu tiên của Nguyễn Ánh.
Vua Xiêm sai hai tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem 2 vạn quân
thủy cùng 300 chiến thuyền. Ngoài ra còn có 3 vạn quân bộ tiến sang Chân
Lạp với danh nghĩa giúp vua Chân Lạp, thực chất với ý đồ tạo
gọng kìm phía Tây, chờ cơ hội tiêu diệt quân Tây Sơn.
Quân Xiêm nhanh chóng lấy được Rạch
Giá, Ba Thắc, Trà Ôn, Mân
Thít, Sa Đéc. Tuy
nhiên, do ỷ thế đi đến đâu quấy nhiễu dân sự, làm nhiều điều tàn ác, cho nên bị
dân chúng oán hận, ngay cả chúa Nguyễn
Ánh cũng phải nói trong 1 bức thơ gởi cho linh
mục J. Liot:
"Nay thì Xiêm binh tự
do cướp giật, cưỡng hiếp phụ nữ, cướp bóc tài sản, giết bừa không tha già trẻ.
Vậy nên, "giặc" Tây Sơn ngày một mạnh, thế quân Xiêm ngày một suy. Cớ
ấy qua tháng chạp, mùng tám vừa thất lợi, các giai hội tản"... .
Tướng Tây Sơn giữ đất Gia
Định là phò mã Trương Văn Đa, thấy quân Xiêm thế lực mạnh,
bèn cố thủ tại Gia Định và sai người về Quy
Nhơn báo. Vua Tây Sơn sai Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đem quân vào đánh.
Trận Rạch Gầm - Xoài Mút
Sau khi vào Gia Định, Nguyễn Huệ cho bố trí trận địa và nhử
quân Xiêm đến
gần đoạn sông Rạch Gầm và Xoài Mút ở
phía trên Mỹ Tho, quyết tâm đánh một trận tiêu diệt hết quân Xiêm.
Đêm 19 rạng 20 tháng 1 năm 1785 (đêm 9 rạng 10 tháng 12 năm Giáp
Thìn), quân Xiêm lợi dụng thủy triều xuôi theo dòng sông để tấn công Mỹ
Tho nhằm phá vỡ đội thuyền phòng thủ của Tây Sơn. Quân Tây Sơn giả thua rút dần
về hướng Mỹ Tho, nhử đối phương lọt vào trận địa mai phục đoạn sông Rạch Gầm -
Xoài Mút. Khi quân Xiêm lọt vào trận mai phục, bất ngờ quân Tây Sơn bắn pháo
ở cù lao Thới Sơn và bờ sông
Tiền, khóa chặt hai đầu, dồn quân Xiêm vào thế "tiến thoái
lưỡng nan". Bên cạnh đó, hỏa hổ ở hai bên bờ nã đạn tới tấp vào đội hình
làm quân Xiêm rối loạn, tinh thần hoang mang rồi bỏ chạy. Cùng lúc đó, một đội
thuyền cảm tử chở đầy rơm và những vật liệu dễ cháy đâm thẳng vào thuyền quân Xiêm
làm cho số bị chìm, số bị cháy. Trong khi đó, cánh quân bộ Xiêm La ngay từ đầu
đã bị quân Tây Sơn chặn đánh không cho cứu viện.
Chỉ một trận quyết chiến diễn ra không đầy một ngày, Nguyễn Huệ
đã tiêu diệt hoàn toàn quân Xiêm. Mấy vạn quân Xiêm chỉ sót lại vài nghìn
người, chạy theo đường thượng đạo trốn về nước. Các tướng Chiêu Tăng, Chiêu
Sương và Nguyễn Ánh phải bỏ chạy theo đường thủy, bộ về Xiêm La, 4.000 quân chỉ
còn lại 800. Cánh quân Xiêm trên bộ nghe tin thất trận cũng tan rã và tháo
chạy.
Trận đánh chớp nhoáng là một kỳ tích của Nguyễn Huệ và quân Tây Sơn. Sau trận đánh này,
quân Tây Sơn nổi tiếng đến mức số quân Xiêm còn lại phải thốt lên rằng: "Sợ
Tây Sơn như sợ cọp".
Lật
đổ chúa Trịnh
Đánh chiếm Phú Xuân
Tại Bắc Hà, năm 1782, Tĩnh Đô vương Trịnh
Sâm chết. Con nhỏ Trịnh
Cán được lập. Phe người con lớn là Trịnh Tông (hay Trịnh Khải), làm binh biến giết
quan phụ chính là Huy quận công Hoàng Tố Lý (cháu lão tướng Hoàng Ngũ Phúc) đưa Trịnh Tông lên ngôi, tức là Đoan Nam vương
(1782-1786).
Một tướng cùng phe với quận Huy là Nguyễn Hữu Chỉnh không hợp tác với Trịnh
Tông, bỏ chạy vào nam hàng Tây Sơn và được Nguyễn Nhạc rất tín nhiệm.
Bắc Hà ngày một suy yếu. Kinh thành Thăng
Long bị quân kiêu binh - những kẻ có công tôn lập chúa Trịnh -
càn quấy, tàn phá. Sau khi đánh bật được Nguyễn Ánh ra khỏi lãnh thổ, Nguyễn
Nhạc quyết định đánh chiếm Phú Xuân (đất cũ của chúa Nguyễn). Năm 1786,
ông cử Nguyễn Huệ làm tổng chỉ huy đánh ra Bắc.
Về phía Trịnh, năm 1775, sau khi nhận hàng Nguyễn Nhạc, lão
tướng Hoàng Ngũ Phúc rút đại quân về Bắc, để lại Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể
giữ thành Phú Xuân, sau đó không lâu qua đời.
Nguyễn Huệ lập kế lung lạc chủ tướng Phạm Ngô Cầu.
Nguyễn Hữu Chỉnh lại dùng kế ly gián Cầu và phó tướng Hoàng Đình Thể. Quân
Tây Sơn bất ngờ đánh úp thành Phú Xuân. Cầu bỏ mặc Thể chết trận, dâng thành
hàng Tây Sơn.
Tiến ra Thăng Long
Bài chi tiết: Chiến dịch Thăng Long 1786
Do sự thuyết phục của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ quyết định đem quân ra Bắc đánh Thăng
Long để diệt họ Trịnh dù chưa được lệnh của vua anh Nguyễn
Nhạc.
Với danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh", Nguyễn Huệ sai
Chỉnh làm tiên phong Bắc tiến. Quân Trịnh rệu rã nhanh chóng thua trận, các
danh tướng phần nhiều nghe tin Phú Xuân thất thủ đã khiếp sợ, đến khi nghe
quân Tây Sơn kéo ra, đa số đã bỏ trốn. Chúa
Trịnh không được lòng dân, bỏ thành Thăng Long chạy, bị dân bắt
đem nộp Tây Sơn. Trên đường áp giải, Trịnh Tông tự sát.
Nguyễn Huệ vào thành Thăng Long yết kiến vua Lê Hiển Tông. Tuy về danh nghĩa Nguyễn Huệ trao trả quyền chính lại cho vua Lê
và nhận phong Nguyên súy Dực chính phù vận Uy quốc công, nhưng trong thực tế,
ông nắm toàn bộ quyền chính ở Bắc Hà. Do sự sắp xếp của Nguyễn Hữu Chỉnh, vua
Lê Hiển Tông gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ.
Tháng 7 năm 1786, vua Lê Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi. Do ý
kiến của công chúa Ngọc Hân thiên về lập hoàng thân Lê Duy Cận (anh của Ngọc
Hân), Nguyễn Huệ muốn hoãn lễ đăng quang của Lê Duy Kỳ. Do áp lực của tôn thất
nhà Lê đối với Ngọc Hân, Nguyễn Huệ đành thu xếp cho Lê Duy Kỳ lên ngôi vua, đó
là vua Lê Chiêu Thống. Ít lâu sau, Nguyễn Huệ đem
công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút quân về Nam.
Dẹp tàn dư chúa Trịnh
Sau khi quân Tây Sơn rút đi, các thế lực của chúa Trịnh từng bỏ
trốn khi Tây Sơn kéo ra như Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phùng Cơ trỗi dậy,
lập Trịnh Bồng lên ngôi vương, tức là Án Đô vương,
tái lập chính quyền chúa Trịnh.
Vua Lê Chiêu Thống đang muốn chấn hưng nhà Lê bèn
mời Nguyễn Hữu Chỉnh đang trấn ở Nghệ An ra
dẹp Trịnh Bồng. Chỉnh nhanh chóng đánh tan quân Trịnh, đốt phủ chúa, Trịnh Bồng
bỏ đi mất tích. Họ Trịnh mất hẳn, nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh lại lộng hành như chúa
Trịnh trước kia.
Mâu
thuẫn nội bộ
Nguyên nhân
Sử sách không ghi chép thật rõ ràng về sự kiện mâu thuẫn giữa
anh em Tây Sơn. Có tài liệu nói rằng Nguyễn Nhạc yêu cầu Nguyễn Huệ nộp vàng
bạc lấy từ kho của họ Trịnh ở Bắc Hà mang về Nam nhưng vua em không chịu; hơn thế vua em lại
xin vua anh cho cai quản thêm Quảng
Nam và vua anh không chấp thuận, do đó Nguyễn Huệ chủ động
mang quân vào Nam đánh Nguyễn Nhạc.
Có ý kiến bàn thêm rằng, chủ trương của Nguyễn Nhạc là tập trung
tiêu diệt chúa Nguyễn, chỉ đánh chiếm phần đất của chúa Nguyễnđể thay thế cai trị tại miền Nam và giữ hòa
bình với Bắc Hà, cho nên việc Nguyễn Huệ tự ý đem quân Bắc tiến là trái ý vua
anh. Ngay khi biết tin Nguyễn Huệ đánh Thăng
Long, vua Tây Sơn vội mang quân ra Bắc, thực chất là để gọi em về.
Mặt khác, Nguyễn Nhạc không yên tâm với sự phát triển thế lực riêng của Nguyễn
Huệ. Trong khi đó, là người có hùng tâm, Nguyễn Huệ có chủ trương tự lực phát
triển ra ngoài tầm kiềm chế của vua anh và việc Bắc tiến của ông không hẳn chỉ
vì lời khuyên của Nguyễn Hữu Chỉnh. Đây mới chính là nguyên nhân
dẫn tới mâu thuẫn của anh em Tây Sơn.
Sử cũ ghi rất vắn tắt và thật không rõ ràng về sự kiện này, chỉ
biết khoảng đầu năm 1787, Nguyễn Huệ mang 60.000 quân Nam tiến vây thành Quy
Nhơn. Theo thư của một số linh
mục Pháp, để có đủ 6 vạn quân vây bọc thành Quy Nhơn, Nguyễn Huệ bắt
thêm toàn bộ đàn ông ở Thuận-Quảng làm lính, khiến nhiều vùng không còn đàn ông
nữa. Nguyễn Nhạc bị vây ngặt bèn gọi Đặng Văn Trấn, đang trấn thủ Gia
Định, ra cứu. Trấn vâng lệnh mang quân ra, nhưng đến Phú Yên đã
bị Nguyễn Huệ bắt sống. Nguyễn Huệ nã pháo tới tấp vào thành Quy Nhơn. Nguyễn
Nhạc bị vây bức quá phải lên thành khóc xin em đừng đánh thành nữa. Nguyễn Huệ
bằng lòng giảng hòa với anh.
Tuy nhiên, theo một giáo sĩ phương Tây tại Việt Nam lúc đó, anh
em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ tuy mâu thuẫn nhưng cho đến khi Nguyễn Huệ bắt được
Đặng Văn Trấn, quân đội hai bên vẫn chưa thực sự đánh nhau thì Nguyễn Lữ đứng
ra điều đình và hai bên vì tình cảm trong nhà đã đồng ý giảng hoà.
Nguyễn Nhạc phong vương cho hai em, mỗi người chia nhau giữ một
khu vực từ tháng 4 năm 1787:
Nguyễn Huệ giảng hoà và nhận chức Bắc Bình vương của vua anh
phong. Hai anh em lấy Bản Tân làm ranh giới, từ Thăng Hoa, Điện
Bàn ra Bắc thuộc Nguyễn Huệ, từ Quảng
Ngãi trở vào thuộc vua Thái Đức. Như vậy vua Thái Đức đã thoả
mãn yêu cầu được cai quản Quảng Nam của vua em. Còn Nguyễn Lữ trấn thủ Gia
Định, có thái bảo Phạm Văn Tham giúp sức.
Hậu quả
Việc bất hòa giữa anh em Tây Sơn để lại hậu quả nghiêm trọng và
lập tức bị kẻ địch từ hai phía tận dụng.
Ở phía Nam, sau trận Rạch Gầm - Xoài Mút,
Nguyễn Huệ đã chủ động giao hảo với vua Xiêm để cởi bỏ thù hằn, do đó vua Xiêm
không có ý giúp Nguyễn Ánh trở về lần nữa. Tuy
nhiên sau 3 năm lưu vong ở Xiêm, Nguyễn Ánh nhận ra cơ hội này để về nước và đã
tập hợp lực lượng, trở về vào tháng 8 năm 1787.
Nguyễn Lữ hèn yếu nghe tin Nguyễn Ánh trở về vội vã tránh đi nơi
khác để Gia Định cho Phạm Văn Tham giữ. Sau đó thế quân
Nguyễn Ánh ngày càng mạnh khiến Nguyễn Lữ sợ hãi mang quân bản bộ rút chạy về
Quy Nhơn. Quân Tây Sơn đã mỏng lại càng mỏng. Mặc dù sau đó Phạm Văn Tham đã nỗ
lực chống trả nhưng vì không được viện binh trợ lực nên tháng 8 năm 1788 Nguyễn
Ánh chiếm lại được Gia Định. Phạm Văn Tham rút chạy ra ngoài vẫn cố đơn độc
chiến đấu để chờ viện binh nhưng lúc đó Nguyễn Nhạc chỉ lo phòng bị vua em Bắc
Bình vương ở phía bắc mà không đoái hoài đến việc cứu phía Nam nữa. Thế cùng
sức kiệt, đầu năm 1789 Phạm Văn Tham bị Nguyễn Ánh vây chặt, lại bịt đường ra
biển về Quy Nhơn nên buộc phải đầu hàng. Tây Sơn lại mất Nam Bộ.
Sau một thời gian để mất Gia Định và trở về Quy Nhơn, Đông Định
vương Nguyễn Lữ lâm bệnh qua đời. (Xem thêm bài về Nguyễn
Lữ)
Ở Bắc Hà, Nguyễn Hữu Chỉnh nhân lúc Tây Sơn lục đục
bèn có ý chống lại Tây Sơn. Nguyễn Huệ phái Vũ Văn Nhậm, con rể của Nguyễn Nhạc, ra tiêu diệt
Nguyễn Hữu Chỉnh. Tuy nhiên, đến lượt Vũ Văn Nhậm chuyên quyền, có ý chống
Nguyễn Huệ. Tháng 4 năm 1788, Lê Chiêu Thống đã bỏ kinh đô lưu vong.
Nguyễn Huệ phải đem quân ra Bắc lần thứ hai, giết Vũ Văn Nhậm. Ông tổ chức lại
hệ thống cai trị ở Bắc Hà, đưa các danh sĩ có tên tuổi như Ngô Thì Nhậm, Phan
Huy Ích ra đảm đương công việc.
Sau khi đã lập Sùng nhượng công Lê Duy Cận làm Giám quốc, Nguyễn
Huệ lại rút quân về Phú Xuân.
Đại
phá quân Mãn Thanh
Quân Thanh tiến vào Thăng Long
Cuối năm 1788, vua Thanh đương thời là Càn
Long sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy hơn 29 vạn quân, huy động
từ Lưỡng Quảng, Vân Nam và Quý
Châu hộ
tống Lê Chiêu Thống về Việt Nam với danh
nghĩa phù Lê, vào chiếm đóng Thăng
Long.
Càn Long còn đặc cử Phúc
Khang An chuyên trách hậu cần. Theo sách Thánh vũ ký,
phần "Càn Long chinh phủ An Nam ký" của Ngụy Nguyên đời
Thanh, Phúc Khang An đã thiết lập trên 70 đồn quân lương to lớn và
kiên cố từ hai đường Quảng
Tâyvà Vân Nam tới Thăng Long. Riêng chặng đường từ ải Nam
Quan tới Thăng Long, Khang An thiết lập 18 kho quân lương trong
khi Tôn Sĩ Nghị hành quân.
Quân Tây Sơn do Đại Tư mã Ngô Văn Sở chỉ huy, theo mưu kế của Ngô Thì Nhậm, chủ động rút quân về đóng ở Tam Điệp - Biện Sơn (Ninh
Bình) cố thủ chờ lệnh.
Quang Trung đại phá quân Thanh
Nghe tin báo, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm
1788), Bắc Bình vương Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Với lý do
vua Lê đã bỏ nước và rước giặc về, để có danh nghĩa chính thống, Nguyễn Huệ lên
ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung.
Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26 tháng 12 năm 1788), đại quân
của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An, dừng
quân tại đó hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng. Để có thêm quân
đánh Thanh, vua Quang Trung thi hành chính sách cưỡng bách tòng quân. Theo tác
giả Hoa Bằng, tất cả đinh nam từ 12, 13 đến 60 tuổi đều phải đăng lính. Theo
thư của giáo sĩ La Barette, tất cả nam từ 15 tuổi trở lên đều phải đi lính,
người già và phụ nữ phải đi sửa cầu đường. Theo
Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng, cứ 3 suất đinh thì chọn lấy 1 người đi
lính. Trong 10 ngày tuyển quân, Quang Trung đã có thêm khoảng mấy vạn quân,
nâng tổng quân số lên tới 10 vạn.
Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, số quân cũ và mới của Quang Trung là 10 vạn, được tổ chức thành 5 đạo:
tiền, hậu, tả, hữu và trung quân, ngoài ra còn có một đội tượng
binh gồm 200 voi chiến.
Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ tinh thần và
ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Mãn Thanh.
Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà.
Ngày 20 tháng 12 năm Mậu Thân (15 tháng 1 năm 1789), đại quân
của Quang Trung đã ra đến Tam
Điệp, Ninh
Bình. Sau khi xem xét tình hình, Quang Trung nói với toàn quân rằng
chỉ trong 10 ngày sẽ quét sạch quân Thanh.
Sớm hơn cả dự kiến, chỉ trong vòng 6 ngày kể từ đêm 30 Tết âm
lịch, quân Tây Sơn đã đánh tan 29 vạn quân Thanh bằng
hàng loạt trận đánh tập kích, mai phục, thần tốc và chớp nhoáng mà trận Ngọc Hồi - Đống Đa là tiêu biểu. Trưa mồng 5
Tết Kỷ Dậu - 1789, quân Tây Sơn tiến vào Thăng
Long.
Tôn Sĩ Nghị dẫn tàn quân bỏ chạy, trên đường chạy liên tiếp bị
quân Tây Sơn mai phục chặn đánh. Cuối cùng, Tôn Sĩ Nghị và Lê Chiêu Thống chạy thoát về Trung
Quốc.
Vua
Quang Trung thống nhất nhà Tây Sơn và dựng nước
Tiền thời vua Quang
Trung (Quang Trung thông bảo)
Thống nhất nhà Tây Sơn
Sau cái chết của Nguyễn Văn Duệ và sau đó là Vũ Văn Nhậm và diễn biến chiến trường Nam Bộ, vua
Thái Đức (Nguyễn Nhạc) đã tỏ ra buông xuôi. Không thể kìm chế
người em tài ba hơn mình, cuối năm 1788, ông từ bỏ đế hiệu và niên hiệu Thái
Đức, chỉ xưng là "Tây Sơn vương". Ông viết thư cho Nguyễn
Huệ, chỉ xin giữ Quy Nhơn và nhường toàn bộ binh quyền, đất đai trong cả nước
cho vua em; đồng thời ông cầu khẩn Nguyễn Huệ mang gấp đại binh vào cứu Nam bộ
(chiếu lên ngôi của Quang Trung nói rõ vấn đề này).
Tuy nhiên lúc đó Nguyễn Huệ dù biết lời cầu khẩn của anh nhưng
không thể vào nam tham chiến vì 20 vạn quân Thanh do Lê Chiêu Thống rước về đã vượt qua biên
giới. Nguy cơ phía bắc rõ ràng lớn và gấp hơn nên Nguyễn Huệ đã lên ngôi Hoàng
đế, lấy hiệu là Quang Trung rồi kéo quân ra bắc và đã nhanh chóng đánh bại quân
Thanh.
Sau khi đánh bại quân Thanh, Quang Trung trở thành nhà lãnh đạo
tối cao của triều Tây Sơn và là vị Hoàng đế duy nhất cai trị tại Việt Nam (Nguyễn Nhạc đã bỏ đế hiệu, Lê Chiêu Thống đã chạy sang Trung Quốc,
còn Nguyễn Ánh khi đó địa bàn còn nhỏ hẹp và chưa
xưng đế). Tình hình với Quang Trung rất thuận lợi: ông có được uy tín lớn sau
chiến công chống quân Thanh, được nhà Thanh công nhận là vị vua chính thống của
Việt Nam (thay thế địa vị của nhà Hậu Lê), lại dẹp bỏ được mâu thuẫn trong nội bộ
nhà Tây Sơn và nắm quyền lãnh đạo thống nhất (vua anh Nguyễn Nhạc đã bỏ đế hiệu, tự giáng xuống làm
vương để tỏ ý quy phục sự lãnh đạo của ông).
Trên cơ sở đó, Quang Trung đã lập ra các chiến lược rất lớn nhằm
triệt để đánh bại các thế lực đối địch còn lại để thống nhất đất nước. Sự
nghiệp thống nhất đất nước, sáng lập một triều đại mới đã đến rất gần.
Đối nội, đối ngoại
Ngay sau chiến thắng Kỷ Dậu, Quang Trung vội trở lại Phú Xuân để đề phòng Nguyễn
Ánh, trao lại binh quyền cho Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm.
Một mặt lo chống thù trong giặc ngoài, mặt khác vua Quang Trung
rất quan tâm tới việc xây dựng đất nước. Vua khuyến khích người hiền tài ra
giúp nước, phân phối đất đai cho những người nông dân nghèo, thúc đẩy thủ công nghiệp từng
bị cấm trước kia, cho phép tự do tôn giáo, mở cửa Việt Nam với ngoại
thương quốc tế và bỏ chữ Hán như
là chữ viết chính thức. Chọn
chữ viết chính thức của các khu vực Nguyễn Huệ cai trị là chữ Nôm.
Sau chiến thắng quân Thanh, Quang Trung quyết định dựng nghiệp
lớn, việc đầu tiên là thành lập một kinh đô. Ông chọn đất Nghệ An để
lập Trung Đô, tức Phượng Hoàng Trung Đô. Hoàng Xuân Hãn viết: “Có thể tin
chắc rằng Phượng Hoàng trung đô ở khoảng giữa núi Mèo (núi Kỳ Lân) và núi
Quyết. Địa thế thành rất dễ giữ. Phía trước có sông Cồn Mộc và sông Lam, phía
bên có núi Quyết, đều là hào và thành thiên nhiên. Ở giữa thành, còn dấu thành
trong, và nền nhà. Nhất là có nền cao ba bậc ở phần bắc, mà ngày sau, đời
Nguyễn dùng làm nền xã tắc. Chắc đó là chỗ Quang Trung ngự triều trong khi tạm
nghỉ ở Nghệ An."
Về ngoại giao, ngay từ trước khi giao chiến với quân Thanh,
Quang Trung đã tính đến chiến lược ngoại giao với nhà Thanh. Theo phương lược
vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, Tây Sơn nhanh chóng
bình thường hóa bang giao với nhà
Thanh. Vua Thanh Càn
Long đã cho sứ giả vào tận Phú Xuân để phong vương cho Nguyễn
Huệ; rồi hoàng đế Quang Trung giả đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi
của vua Càn Long nhà Thanh.
Việc nhà Thanh công nhận nhà Tây Sơn khiến Lê Duy
Kỳ (Chiêu Thống) phải uất hận chết ở Trung Quốc cuối năm
1792.
Dẹp Lê Duy Chi, tấn công Vạn Tượng
Quân Thanh, lực lượng cứu trợ cho nhà Lê bị đánh tan nhưng các
lực lượng thân nhà Lê vẫn tiếp tục hoạt động ở phía bắc khiến vua Quang Trung
tiếp tục phải đánh dẹp. Em Lê Duy Kỳ là Lê Duy Chi được
sự hợp tác của các tù trưởng Hoàng Văn Đồng, Nông Phúc Tấn đẩy mạnh hoạt động
ở Cao Bằng, Tuyên
Quang. Duy Chi tìm cách liên kết với các tù trưởng người Vạn Tượng(vương quốc Viêng Chăn thời vua
(Chao) Nanthasen (tức
Chiêu Nan) và vua (Chao) Intharavong
Setthathirath III (tức Chiêu Ấn)) để chống Tây Sơn. Nước Xiêm La khi đó cũng
muốn trả thù Tây Sơn sau Trận Rạch Gầm - Xoài Mút nên
tìm cách khống chế nước Vạn Tượng và tràn sang tác động tới các tù
trưởng người Việt ở Trấn
Ninh, Quy Hợp xứ Nghệ
An và liên lạc với cựu thần nhà Lê là Trần Phương Bính. Mặt
khác, Xiêm La cũng
liên lạc với Nguyễn Ánh ở Gia Định để cùng Duy Chi tổ chức
tấn công Tây Sơn. Theo kế hoạch này, quân Duy Chi sẽ đánh xuống từ Cao Bằng,
Nguyễn Ánh đánh lên từ Gia Định, còn quân Vạn Tượng và Xiêm sẽ đánh vào Thanh Hóa, Nghệ An.
Đứng trước nguy cơ bị tấn công từ ba mặt, sau khi thực hiện
thành công việc bang giao với nhà Thanh, đầu năm 1791, Quang Trung tập trung
đối phó với Lê Duy Chi và quân Vạn Tượng – Xiêm. Ông sai sứ sang Trấn Ninh, Quy
Hợp để thăm dò tình hình nhưng bị vua Vạn Tượng bắt giữ và nộp cho Xiêm La.
Xiêm La sai sứ mang cờ và trống của Tây Sơn vào Gia Định cho Nguyễn Ánh để
khuyến khích Ánh ra quân.
Quang Trung quyết định ra quân. Ông sai hoàng tử Nguyễn Quang Thùy đang trấn thủ Thăng
Long cùng các tướng Bắc Hà mang quân đánh Lê Duy Chi; sai Trần
Quang Diệu và Lê Trung mang quân đánh Trấn Ninh, Quy Hợp. Quang Thùy đánh lên
Cao Bằng nhanh chóng đánh bại và bắt được cả Lê Duy Chi, Hoàng Văn Đồng và Nông
Phúc Tấn mang về Thăng Long xử tử.
Ở phía tây, Trần Quang Diệu cũng nhanh chóng diệt
được Trần Phương Bính ở ven núi Hồng Lĩnh. Tới tháng
6 năm 1791, Quang Diệu mang 3 vạn quân sang Trấn Ninh bắt được các tù trưởng
thiệu Kiểu, thiệu Đế. Tháng 8 năm đó, Quang Diệu đánh bại Quy Hợp. Tháng 10,
quân Tây Sơn tiến sang Vạn Tượng. Vua Vạn Tượng là Chao Nan (Chao Nanthasen)
không chống nổi phải bỏ trốn sang Xiêm. Quang Diệu tiến vào Viên-chăn đến tận
biên giới Xiêm, các tướng Vạn Tượng là tả phan Dung, hữu phan Siêu tử trận.
Tháng 10/1791, Tây Sơn chiếm xong Vạn Tượng.
Nguyễn Ánh ở Gia Định không dám ra quân. Chân
Lạp là đồng minh của Tây Sơn cũng chuẩn bị lực lượng để phối hợp nếu quân Tây
Sơn vượt biên giới Vạn Tượng tiến vào Xiêm hoặc Gia Định khiến các giáo sĩ ở
Gia Định lo sợ, chuẩn bị tìm đường chạy. Nhưng
Trần Quang Diệu đi đánh xa lâu ngày, được lệnh rút về.
Đầu năm 1792, quân Tây Sơn trở về Đại Việt. Không lâu sau, lực
lượng phù Lê của Trần Quang Châu ở Kinh Bắc cũng bị tiêu diệt.
Giữa năm 1792, Quang Trung đã gửi thư đến Càn Long cầu hôn một nàng công chúa
Thanh triều và "xin" hai tỉnh Quảng Đông và Quảng
Tây. Ông cũng sai đô đốc Vũ Văn Dũng làm chánh sứ sang triều kiến vua Càn
Long. Tuy nhiên, dự định không thực hiện được vì cái chết đột ngột và bí ẩn của
ông. (Xem bài viết về Nguyễn Huệ)
Dự định chinh phục Gia Định, thống nhất đất nước
Việc Quang Trung chiếm Vạn Tượng chỉ trong mấy tháng đã làm rung
động cả ba thế lực là Xiêm - Cao Miên và Nguyễn Ánh. Tháng 4/1792, vua Xiêm
viết thư đề nghị Nnguyễn Ánh chung sức chống Tây Sơn, nhưng nhân tiện lại đòi
Nguyễn Ánh cắt đất Long
Xuyên, Kiên
Giang và Ba Xắc để làm điều kiện. Nguyễn
Ánh trả lời là không nhường đất, nhưng chấp nhận đề nghị của vua Xiêm là hợp
lực đánh Tây Sơn. Thư trả lời của Nguyễn Ánh có viết: "Vương (vua
Xiêm) thì đem trọng binh đánh Nghệ An. Giặc giữ Nghệ An thì vương đánh ngả
trước, quả nhân (chỉ Nguyễn Ánh) đánh ngả sau; nếu giặc giữ Phú Xuân thì vương
quấy rối ở ngả sau, quả nhân đánh ngả trước, đầu đuôi giáp đánh thì giặc không
còn đi đâu được nữa"
Sau khi Nguyễn Ánh tấn công chớp nhoáng tiêu diệt thuỷ quân của
Nguyễn Nhạc ở Thị Nại tháng 7-8/1792, Quang Trung quyết định thực hiện một
chiến dịch lớn nhằm tiêu diệt tận gốc thế lực của Nguyễn Ánh. Ông truyền hịch
cho dân hai miền Quảng Ngãi và Quy Nhơn, trước khi hành quân để đánh vào Gia
Định.
kế hoạch của vua Quang Trung là: điều động 20 - 30 mươi vạn quân
thuỷ bộ; bộ binh theo đường núi qua Lào đánh xuống Cao Miên, chiếm mặt sau Sài
Gòn; thuỷ binh vào cửa bể Hà Tiên đánh lên Long Xuyên, Kiên Giang, chiếm mặt
trước Sài Gòn. Kẹp quân Nguyễn Ánh vào giữa để bao vây tiêu diệt, không để cho
đối phương có đường trốn thoát.
Trong lúc tình hình hết sức khẩn cấp, Bá Đa Lộc và những sĩ quan
Pháp trong quân Nguyễn Ánh liệu thế không chống đỡ nổi Quang Trung, tính chuyện
bỏ trốn. Trong thư gửi cho M. Létondal ngày 14/9/1791, giám mục Bá Đa Lộc
viết: “… Nhà vua đã không biết lợi dụng cơ hội mà ông ta có được để
đánh bại kẻ thù, mà lại để chúng có thì giờ hoàn hồn và chúng thấy rõ tất cả
những đồn đại về việc người Âu đến giúp chỉ là chuyện hão. Ông ta (Nguyễn
Ánh) bắt dân đóng thuế và làm dịch vụ nặng nề, và lúc này, dân
chúng bị nạn đói đe dọa nên họ có vẻ mong quân Tây Sơn đến. Trong tình trạng
hiện thời, nếu chúng quả quyết đến tấn công, thì nhà vua khó có thể đương đầu
lại đầu được... Tôi rất sợ không đi kịp trước khi tai họa xẩy ra cho nhà vua,
nếu có sự ấy."
Kế hoạch đang chuẩn bị thì ngày 16/9/1792, vua Quang Trung băng
hà.
Sự
sụp đổ của nhà Tây Sơn
Pháp trợ giúp Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Định
Kể từ năm 1787, với sự giúp đỡ mạnh mẽ hơn của người Pháp thông
qua giám mục Pigneau de Béhaine (tức Bá Đa Lộc), Nguyễn
Ánh quay trở lại Gia
Định. Trước đó, ngày 25 tháng 1 năm 1787, Bá Đa Lộc (giáo sĩ người Pháp làm cố vấn cho
Nguyễn Ánh) đã thay mặt Nguyễn Ánh ký Hiệp ước Versailles (1787) với
Pháp. Theo đó, vua Pháp đồng ý cử sang 4 chiếc tàu chiến và một đạo binh: 1.200
lục quân, 200 pháo binh, 250 lính da đen ở Phi Châu (Cafres) và đủ các thứ súng
ống thuốc đạn để đánh Tây Sơn. Ngược lại, sau khi chiến thắng, Nguyễn Ánh phải
nhường đứt cho nước Pháp cửa Hội An (Faifo)
và đảo Côn Lôn (Poulo-Condore), chủ quyền các vùng
đất đó sẽ vĩnh viễn thuộc về nước Pháp ngay lúc quân đội Pháp chiếm đóng hòn
đảo nói trên. Đúng lúc đó thì nước Pháp xảy ra Cách mạng, vua Pháp không thực
hiện Hiệp ước nhưng Bá đa lộc đã kêu gọi các thương nhân người Pháp trợ giúp
cho Nguyễn Ánh.
Các hoạt động quyên góp tiền sau này hay xây dựng, sửa sang
thành Gia Định, Vĩnh
Long, Châu
Đốc, Hà Tiên, Biên
Hòa, Bà Rịa, huấn
luyện cơ đội pháo thủ, tổ chức bộ binh và rèn luyện tập binh lính theo lối châu
Âu, trung gia mua tàu chiến và vũ khí... đều có sự góp sức của những người Pháp
mà do Bá Đa Lộc chiêu mộ, kêu gọi. Việc
củng cố Gia Định cộng thêm sự giúp đỡ của người Pháp đã giúp cho thế lực của
Nguyễn Ánh ngày càng mạnh, có thể đối đầu với Tây Sơn.
Nhà nghiên cứu Maybon, trong cuốn sách "La Relation
Bissachère và Histoire moderne du pays d’Annam", in năm 1920 tổng kết
công trạng của những người Pháp do Bá Đa Lộc chiêu mộ trong việc trợ giúp Nguyễn
Ánh chống Tây Sơn như sau:
“Vai trò của nhóm người
can đảm đếm trên đầu ngón tay này, trong sự thiếu vắng thông tin mong đợi,
không thể xác định được một cách chi tiết. Nhưng không thể chối cãi được rằng họ
đã góp phần lớn lao vào chiến thắng của Nguyễn Ánh. Ấy là chưa kể đến phần của
họ trong những trận đánh quan trọng như trận tiêu diệt hạm đội của Tây Sơn năm
1792 và những trận dẫn đến chiến thắng Huế năm 1801. Người ta không khỏi khâm
phục công trình tạo mà họ đã thực hiện trong những điều kiện không mấy thuận lợi:
họ đã xây dựng một nền hải quân theo lối Tây phương và thành lập đội ngũ thủy
binh; họ đã huấn luyện quân đội, họ đã đưa kỷ luật vào quân đội, thành lập những
cấp chỉ huy; họ đã đúc đại bác, dạy cho người An Nam cách dùng trái phá, họ đã
tạo ra đội ngũ pháo binh lưu động mà sự di chuyển đã khiến quân Tây Sơn khiếp
viá; họ đã xây dựng những thành đài”
Trong lúc Nguyễn Huệ bận đối phó tình hình Bắc Hà, Nguyễn Lữ qua
đời, Nguyễn Nhạc bất lực, Ánh nhanh chóng chiếm lại đất đai ở Nam Bộ rồi đánh
lấn ra Diên Khang, Bình
Thuận - đất của Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc già yếu không cứu được
chỉ còn lo giữ Quy Nhơn, Quảng
Ngãi, Phú Yên.
Khi nghe tin quân Thanh giúp Chiêu Thống sang đánh Tây Sơn va đã
tiến chiếm Thăng Long, Nguyễn Ánh từng
sai người chở 50 vạn cân gạo ra
giúp quân Thanh để có thêm thế lực trợ giúp việc đánh Tây Sơn, nhưng thuyền đi
giữa đường bị đắm hết.
Gia tộc bị chia rẽ
Sau khi được anh trai là Nguyễn Nhạc trao lại binh quyền, vua
Quang Trung đang định chuẩn bị đem quân vào Nam đánh Gia Định thì đột ngột qua
đời (1792). Con
là Nguyễn Quang Toản còn nhỏ tuổi lên nối
ngôi, tức là vua Cảnh Thịnh. Không có người lãnh đạo đủ năng lực, nhà
Tây Sơn nhanh chóng suy yếu. Nội bộ xảy ra tranh chấp, quyền hành rơi vào tay
ngoại thích Bùi Đắc Tuyên.
Năm 1793, Nguyễn Ánh đem quân đánh Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc cầu
cứu ra triều đình Phú Xuân. Quang Toản sai Ngô Văn Sở, Phạm Công Hưng đem 17.000 quân và 80
thớt voi vào cứu, quân Nguyễn Ánh rút lui. Quân Phú Xuân nhân đó lại chiếm luôn
đất đai của Nguyễn Nhạc. Lúc đó Nguyễn Nhạc đang bệnh trên giường, nghe tin đất
phong của con mình là Nguyễn Văn Bảo bị chiếm mất thì uất quá
thổ huyết mà qua đời. Quang Toản an trí Nguyễn Văn Bảo ra huyện Phù Ly, phế làm
Hiếu Công và cai quản toàn bộ đất đai của dòng trưởng.
Tuy nhiên nội bộ Tây Sơn lại mâu thuẫn, các tướng tranh
quyền. Vũ Văn Dũng giết Bùi Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở (1795), Quang Toản nhỏ tuổi nên không
làm gì được. Trần Quang Diệu đang đi đánh Nguyễn Ánh,
nghe tin bị nghi oan đành rút quân về. Nguyễn Văn Bảo cùng các tướng cũ nổi dậy
chiếm Quy Nhơn nhưng bị dập tắt và giết chết. Lê
Trung bị nghi ngờ sau đó bị giết, Nguyễn Văn Huấn cũng bị giết.
Tây Sơn sụp đổ
Biến loạn tạm thời dẹp yên nhưng đã làm chính quyền Tây Sơn suy
sụp. Do Quang Toản đã giết Lê Trung trong vụ biến loạn tại Phú Xuân nên con rể Trung là Lê Chất bỏ
sang hàng Nguyễn Phúc Ánh. Ánh
nhân thời cơ đó ra sức Bắc tiến.
Năm 1800, Nguyễn Ánh chiếm được Quy Nhơn, tướng Vũ Tuấn đầu hàng. Quang
Toản sai Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đem quân vào chiếm lại. Tướng của
Nguyễn Ánh là Võ Tánh tử
thủ cầm chân hai danh tướng Tây Sơn trong hơn một năm. Năm 1801,
Nguyễn Ánh nhận thấy tinh binh Tây Sơn đều tập trung cả ở chiến trường Quy Nhơn
nên mang quân chủ lực vượt biển ra đánh Phú Xuân. Quang Toản thua trận bỏ chạy
ra Bắc.
Đầu năm 1802, Tây Sơn chiếm lại thành Quy Nhơn, Võ Tánh tự vẫn. Nhưng lúc đó
Nguyễn Ánh đã ồ ạt Bắc tiến tới Nghệ An. Trần
Quang Diệu vội mang quân ra cứu, bị quân Nguyễn chặn đường, phải vòng qua
đường Vạn Tượng (Lào). Tới
Nghệ An thì thành đã mất, quân sĩ bỏ chạy gần hết, vợ chồng Trần Quang Diệu
- Bùi Thị Xuân bị bắt, Vũ Văn Dũng không biết trốn
đi đâu.
Giữa năm 1802 Nguyễn Ánh tiến ra chiếm được Thăng Long, Quang Toản không
chống nổi, bỏ chạy và bị bắt. Nguyễn Ánh đã trả thù gia đình Quang Toản những
người theo Tây Sơn vô cùng tàn bạo: Quang Toản bị 5 ngựa xé xác. Mộ của
vua Thái Đức và vua Quang Trung bị quật lên, hài cốt bị giã thành bột
nhồi vào thuốc súng và bắn đi, hộp sọ bị bỏ vào vò và giam trong ngục (Những
người thương tiếc Tây Sơn vẫn gọi là "Ông Vò"). Nữ tướng Bùi Thị Xuân và con gái bị voi giày, Trần Quang Diệu do thờ mẹ già 80 tuổi có
hiếu nên không bị hành hình quá dã man mà chỉ bị chém đầu.
Nhà Nguyễn ra sức truy sát những quan lại và hậu duệ của nhà Tây
Sơn. Đến năm Minh Mạng thứ 12 (1831), quan quân nhà Nguyễn vẫn tiếp tục truy
tìm hậu duệ của Tây Sơn, bắt được Nguyễn Văn Đức (con trai Nguyễn Nhạc) và
Nguyễn Văn Đâu. Đâu là con của Đức, cả hai đều bị chém ngang lưng. Nhà Tây Sơn
có còn sót lại hậu duệ nào hay không, đến nay vẫn chưa rõ ràng.
Về vấn đề thống nhất quốc gia cuối thế kỷ 18
Tiền thời vua Cảnh Thịnh (Cảnh Thịnh thông
bảo)
Giáo sư Nguyễn Phan Quang đã tập hợp ý kiến của các nhà nghiên
cứu về vấn đề "Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh - ai thống nhất quốc gia" như
sau:
1/ Ý kiến Tạ Chí Đại Trường: Vận dụng luận
điểm "sức mạnh Nam hà kết hợp với sức mạnh Tây phương", tác giả giải
thích: "Trong lịch sử của họ, Tây Sơn đã xô đổ được Nam hà, rồi không tìm
được đồng minh bên ngoài, bên trong lại hãnh diện về sức mạnh quân lực, họ
không tìm được cách tổ chức khai thác những khả năng địa phương để tâm phục lâu
dài dân chúng. Quay ra Bắc hà, họ lại chui đầu và trong cái rối rắm mà người
trước đã gỡ không ra vì sự cằn cỗi của đất đai, vì không khí bảo thủ lâu đời
khó tẩy xóa của sinh hoạt vua,quan, dân chúng". Cho nên, theo tác giả, cái
ngày Nguyễn Ánh thắng Tây Sơn, chiếm được Bắc hà cũng là ngày "đóng hết một
giai đoạn rối rắm, tàn bạo". Và tác giả gói ghém ý tưởng của mình như sau:
"Ngày 20 tháng 7, Nguyễn Ánh ra tới Thăng Long, đặt chân lên nơi mà hơn
200 năm trước tổ tiên ông phải giả tiếng mới về Nam được. Thăng Long, Thanh
Hóa, Phú Xuân, Gia Định, rồi nối vòng Gia Định, Phú Xuân, Thăng Long, con đường
thật dài, thật đầy gian nan cực nhọc mà cũng đầy vinh quang. Đất nước mệt mỏi
vì chiến tranh, nay đã tìm được đường thoát trong thống nhất, yên nghỉ..."
(Lịch sử nội chiến Việt Nam từ 1771 đến 1802 - Sài Gòn, 1971).
2/ Ý kiến Lê Thành Khôi: Năm 1955, trong cuốn Le
Việt Nam, histoire et civilisation xuất bản ở Paris, tác giả cho rằng
phong trào Tây Sơn "chỉ mới dọn đường cho sự khôi phục nền thống nhất dân
tộc mà Nguyễn Ánh sẽ thực sự hoàn thành vào đầu thế kỷ XIX". Vẫn theo tác
giả, "một nước gọi là thống nhất khi chỉ có một chính quyền trong bờ
cõi". Từ luận điểm trên, tác giả đối chiếu các niên đại và thấy rằng: năm
1786 tồn tại 4 chính quyền (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ và vua Lê), năm
1788 tồn tại 3 chính quyền (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh), năm 1794 vẫn
còn hai chính quyền (Nguyễn Quang Toản và Nguyễn Ánh), đến năm 1802 "Gia
Long thắng Cảnh Thịnh, chỉ còn một chính quyền của nhà Nguyễn, lúc bấy giờ nước
Việt Nam mới thống nhất". Năm 1981, Lê Thành Khôi tái bản cuốn sách trên với
nhiều bổ sung, đổi tên sách là Histoire du Vietnam des origines à 1858 và
vẫn giữ luận điểm cũ khi tác giả viết: "Nếu chỉ cần vượt giới tuyến là thống
nhất đất nước rồi, thì công... đó phải thuộc về họ Trịnh khi quân Trịnh vượt
sông Gianh năm 1774 và vào Huế năm 1775", và "[thời Tây Sơn] không những
đất nước chưa trở lại hòa bình thống nhất, mà nội chiến vẫn tiếp tục khi ở Bắc
khi ở Nam, và thanh niên lại đổ máu". Cuối cùng, "sự bất hòa của anh
em Tây Sơn đã cho phép Nguyễn ánh trở về Gia Định và tổ chức việc khôi phục nhà
nước của mình. Cuộc chiến tranh lâu dài và đẫm máu, khi thắng khi bại diễn ra
trong 15 năm trước khi kết thúc vào năm 1802 với thắng lợi của họ Nguyễn và sự
thống nhất hoàn toàn nước Việt Nam".
3/ Ý kiến Đỗ Bang: "Nguyễn Huệ, lãnh tụ
của phong trào Tây Sơn, sau khi giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống
Xiêm (1785) đã đi từ Nam ra Bắc bằng sự nghiệp vượt sông Gianh năm 1786, xóa bỏ
Đàng trong và Đàng ngoài, thủ tiêu chế độ thống trị của hai họ Trịnh - Nguyễn
chia cắt đất nước. Nguyễn Huệ có nhiều nỗ lực củng cố nền thống nhất và cứng rắn
độc lập dân tộc trong những năm sau đó nhưng vẫn không vượt qua được những hạn
chế phân phong nghiệt ngã trong nội bộ vương triều Tây Sơn, và cũng là cơ hội để
Nguyễn Ánh trở lại củng cố thế lực ở đất Gia Định. Sau ngày Quang Trung chết
(1792), thế lực Nguyễn Ánh ngày càng mạnh, năm 1801 chiếm Phú Xuân. Năm 1802,
Nguyễn Ánh ra Bắc tiêu diệt lực lượng Tây Sơn còn lại, hoàn thành công cuộc thống
nhất đất nước. Vậy thống nhất đất nước là một quá trình đấu tranh gay go, mà sự
kiện xóa bỏ Đàng Trong, Đàng Ngoài năm 1786 là sự kiện vĩ đại và có ý nghĩa nhất.
Sự kiện năm 1802 là sự kiện kết thúc, hoàn thành công cuộc thống nhất. Nguyễn
Huệ, Nguyễn Ánh là hai đối thủ không đội trời chung, nhưng cùng chung số mệnh
là đấu tranh "thống nhất sơn hà", thực hiện niềm khát vọng của nhân
dân sau hơn 200 năm nội chiến, chia cắt". Trong Kỷ yếu HTKH phú
Xuân - Thuận Hóa thời Tây Sơn (Huế, tháng 12-2001), tác giả Đỗ Bang
nói thêm: "[từ Phú Xuân Thuận Hóa] phong trào Tây Sơn lớn mạnh phát triển
ra toàn quốc, đã xóa bỏ chế độ thống trị vua Lê - chúa Trịnh, chấm dứt tình trạng
cát cứ Đàng Trong - Đàng Ngoài, lập lại nền thống nhất đất nước, quét sạch 29 vạn
quân xâm lược Mãn Thanh vào đầu xuân Kỷ Dậu (1789)". Ở một đoạn khác, tác
giả dẫn ý kiến của nhà nghiên cứu Lê Quý Thi cho rằng: việc Nguyễn Huệ vượt qua
sông Gianh ra Đàng Ngoài "là một hành động hợp với quy luật lịch sử, cũng
là một hành động vượt qua chính mình của cuộc khởi nghĩa nông dân Tây
Sơn".
4/ Ý kiến của Nguyễn Phương: "Nguyễn
Ánh là cha đẻ của nước Việt Nam", là "người tiêu biểu cho tinh thần
ái quốc", "là một anh hùng dân tộc". Và tác giả khẳng định:
"Nếu Nguyễn Ánh không còn có công nào khác - mà thực sự còn nhiều - ngoài
công cuộc thống nhất Việt Nam, thống nhất lãnh thổ và tinh thần ái quốc, thì với
bấy nhiêu thiết tưởng ông đã đủ đáng được mọi người dân Việt Nam biết ơn rồi vậy".
So sánh với Nguyễn Huệ, tác giả viết: "Chẳng những Nguyễn Huệ chưa phục vụ
gì cho việc thống nhất, mà trái lại đã giúp đắc lực vào việc chia cắt đất nước
ra một cách sâu xa hơn thời Trịnh Nguyễn". Còn Nguyễn Ánh "chẳng những
đã thống nhất Việt Nam về địa lý mà còn thống nhất về tinh thần ái quốc"
(Tạp chí Bách Khoa," số 149).
5/ Ý kiến Tân Việt Điểu: Tác giả có thừa nhận
chút ít đóng góp của Tây Sơn khi cho rằng: "Tây Sơn là những tay thợ đã dọn
quang đãng những chướng ngại vật để sau này Gia Long thênh thang đi đến thống
nhất", nhưng lại khẳng định: "Nguyễn Ánh mới là người đem tất cả tâm
huyết, tất cả tài đức ra để thống nhất nước Việt... Sở dĩ Nguyễn Ánh thắng được
Cảnh Thịnh, một phần lớn là nhờ vào cái địa thế "phụng chử lân chầu và
"long bàn hổ cứ" của miền Nam rất thuận lợi để làm bàn đạp cho cuộc Bắc
tiến, nhằm mục đích thống nhất lãnh thổ" (Văn hóa nguyệt san, số 64).
6/ Ý kiến GS. Phan
Huy Lê: Khái quát toàn bộ sự nghiệp của phong trào Tây Sơn, tác giả viết:
"Đó là sự nghiệp lật đổ chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong, chính quyền
chúa Trịnh cùng chế độ vua Lê - chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, đánh tan quân xâm lược
Xiêm ở phía Nam, quân xâm lược Thanh ở phía bắc, bảo vệ vững chắc nền độc lập
dân tộc, xóa bỏ tình trạng chia cắt đất nước kéo dài trên hai thế kỷ, bước đầu
lập lại nền thống nhất quốc gia, xây dựng vương triều Tây Sơn trong đó triều
Quang Trung đã đề ra và thực thi nhiều chính sách tích cực..." (Kỷ yếu
HTKH "Phú Xuân - Thuận Hóa - thời Tây Sơn" - Huế, tháng 12-2001).
7/ Ý kiến Phan Thuận An: "Nguyễn Huệ,
người anh hùng kiệt xuất của thời đại ấy đã lần lượt phá tan từng mảng xã hội
mâu thuẫn, bất công, nhiễu nhương từ Nam ra Bắc để bước đầu đưa đất nước đến chỗ
thống nhất" (Kỷ yếu HTKH "Phú Xuân – Thuận Hóa thời Tây Sơn" -
Huế, tháng 12-2001).
8/ Ý kiến GS. Trần Văn Giàu: "Phần
đóng góp của Nguyễn Huệ vào hệ thống tư tưởng yêu nước Việt Nam là ý thức về sự
nghiệp thống nhất nước nhà (...). Từ năm 1527, Đại Việt bị phân liệt. Tình trạng
phân liệt kéo dài đến gần cuối thế kỷ 18, hơn 200 năm (...). Mạc, Trịnh, Nguyễn,
không ai có tư tưởng thống nhất, tất cả họ chỉ có ý đồ xâm chiếm lẫn nhau. Cứ
như thế ấy thì cái họa xâm lăng ắt khó tránh. Nội chiến chỉ chấm dứt khi khởi
nghĩa Tây Sơn thắng lợi, lần lượt đánh đổ cả hai chúa Nguyễn, chúa Trịnh, đánh
đổ luôn vua Lê, trong Nam thì đuổi quân Xiêm, ngoài Bắc thì đuổi quân Thanh,
lãnh tụ Tây Sơn đường đường chánh chánh lên ngôi hoàng đế, vua Càn Long nhà
Thanh dù mới đại bại (hay là vì đại bại) mà phải công nhận Quang Trung là vua
nước Việt Nam (...). Trong việc lập lại sự thống nhất sau thời gian phân liệt
kéo dài thời Lê mạt, thì người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ là vĩ nhân đã khởi xướng
và bắt đầu thực hiện sự nghiệp ấy" (Sự hình thành về cơ bản của hệ thống
tư tưởng yêu nước Việt Nam - Tham luận tại Hội thảo Việt Nam học tại Hà Nội,
tháng 7-1998). Giáo sư Trần Văn Giàu còn cho rằng: "Ngày
xưa không phải là không có ý thức thống nhất, nhưng phải hiểu rằng ý thức thống
nhất lúc bấy giờ là thôn tính theo lối phong kiến".
9/ Ý kiến GS. Hoàng Xuân Hãn: "Về Quang Trung, cái
công đánh bạt Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long, cái công ấy rất to... Chứ còn trong anh
em (viết sử) sau này thường cứ nói rằng là: Công thống nhất nước Việt Nam là
Tây Sơn, tức là Quang Trung, đối với tôi thì tôi không đồng ý. Cái sự quân Tây
Sơn có đánh bại quân Xiêm ở Rạch Gầm cũng là một sự thực. Đánh bại quân Thanh ở
Thăng Long cũng là một sự thực. Nhưng hai cái thắng trận ấy không phải là đồng
thời, mà trái lại, có thể nói cái hồi mà vua Quang Trung ở ngoài Bắc thì Nguyễn
Nhạc còn đang chiếm vùng giữa, vùng trong thì lúc ấy nhà Nguyễn đã chiếm cả
trong Nam rồi. Không phải là thống nhất. Đấy chỉ là đánh được giặc ở Nam, đánh
được giặc ở Bắc. Nếu ông ấy sống lâu nữa, có lẽ sẽ thống nhất; nhưng vì ông chết
sớm thành ra không thống nhất được".
10/ Ý kiến Đặng Thành Nam: "Việc đất
nước chia đôi là do Trịnh Nguyễn phân tranh suốt trong hai thế kỷ. Khi nhà Tây
Sơn nổi lên...; Nguyễn Ánh phải chạy qua Xiêm lưu vong và cầu cứu ngoại bang.
Cuối cùng ai là người diệt được nhà Trịnh mà suốt 200 năm nhà Nguyễn không những
không làm gì được mà còn bị mất kinh đô về tay nhà Trịnh nữa. Chính Nguyễn Huệ
đã diệt Trịnh, đuổi Thanh, chấm dứt việc hai trăm năm đất nước bị chia đôi và
đưa đến việc thống nhất đất nước về cơ bản. Việc Gia Long rước hàng vạn quân
Xiêm về giết dân, tàn phá đất Nam Bộ, bị Quang Trung đánh chạy thục mạng ở Rạch
Gầm kia đâu phải là chuyện tuyên truyền chính trị. Việc Gia Long nhờ vũ khí, nhờ
đại bác của Pháp, nhờ chính bọn đánh thuê, bọn cha cố phương Tây để chiếm lấy đất
nước đâu phải là chuyện bịa đặt!" (Về những hiện tượng bất thường trong
văn học và sử học - Báo Công an Tp.Hồ Chí Minh, 21-5-1998, tr.18).
11/ Ý kiến Jean Chesneaux: "(...) Sự
kiện lớn nhất dường như việc khôi phục thống nhất đất nước, việc xóa bỏ sự chia
cắt đất nước thành hai vương quốc đối địch. Chính là Tây Sơn chứ không phải là
nhà Nguyễn ở thế kỷ XIX, như người ta thường gán cho họ, đã có công trong việc
xây dựng một nước Việt Nam thống nhất; dù chia ra các miền khác nhau nhưng vẫn
cùng một mục đích... Niềm kiêu hãnh khôi phục lại uy danh của nước Việt Nam thể
hiện rõ trong bài hịch [Hịch Tây Sơn]" (Contribution à l’ histoire de
la nation vietnamienne - Paris 1955, tr.37).
12/ Ý kiến Joseph Buttinger: Trong cuốn The
Smaller Dragon (New York, 1962), tác giả viết: "Khi Hà Nội thất
thủ trước chính quyền mới ở Đàng Trong [ý nói: Tây Sơn], Việt Nam đã trở lại thống
nhất (...). Triều đại Tây Sơn ngắn ngủi, song nền thống nhất của Việt Nam tồn tại
suốt cho đến lúc đương triều cuối cùng của nó bị lật đổ vào năm 1802 trước những
lực lượng mới trỗi dậy từ phương Nam. Nhương đây lại là một phần của câu chuyện
khác: khi nhà Tây Sơn đổ, vận mệnh Việt Nam được đặt dưới ảnh hưởng của những lực
lượng phương Tây đưa vào châu Á".
Nhìn chung những ý kiến trên chia thành 4 luồng:
a/ Khẳng định công thống nhất thuộc về Nguyễn
Ánh.
b/ Khẳng định công thống nhất thuộc về Nguyễn
Huệ.
c/ Mở đầu công cuộc thống nhất, phá bỏ các
chướng ngại là công của Nguyễn Huệ nhưng ông lại mất sớm, nên người hưởng thành
quả là Nguyễn Ánh.
d/ Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh chỉ thôn tính lẫn
nhau theo kiểu phong kiến, việc thống nhất đất nước là kết quả tất yếu của việc
bên này tiêu diệt được bên kia.
Quân
đội nhà Tây Sơn
Lục quân
Theo đánh giá của người châu Âu thì quân đội Tây Sơn rất tinh
nhuệ, trang bị nhiều vũ khí tân kỳ ở thời đó. Quân Tây Sơn có nhiều loại súng
ống bao gồm cả súng đại bác và súng hỏa mai. Súng đại bác được dùng để phòng thủ, nếu
đưa ra trận thì dùng voi kéo hay chở nên rất cơ động. Quân Tây Sơn cũng được
huấn luyện để tự pha chế lấy thuốc nổ và người Âu Châu đã kinh ngạc vì lính Tây
Sơn nạp đạn rất nhanh: trong khi quân Anh phải thực hiện đến 20 động tác cho
mỗi lần nạp đạn thì người Việt chỉ cần có 4 động tác.
Thanh gươm và súng loại nhỏ của quân đội nhà
Tây Sơn, trưng bày tại Viện Bảo tàng Lịch sử TP. HCM
Theo nhiều sách cổ chép lại, quân Tây Sơn có rất nhiều hỏa hổ,
là một loại vũ khí hình ống. Sách Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ mô tả: “Hỏa đồng còn có tên
là hỏa hổ, có bầu lớn dài chừng một thước, khi lâm trận phun lửa, trong ống
tống nhựa thông ra, trúng phải đâu, lập tức bốc cháy... vì lửa cháy dữ dội, nên
gọi là hỏa hổ”. Theo các nhà nghiên cứu, hỏa hổ thời Tây Sơn được cải tiến
từ các hỏa đồng (ống lửa) hạng nhỏ thời Lê sơ. Trong tay nghĩa quân Tây Sơn, nó
được dùng một cách tập trung, ồ ạt, tạo thành hỏa lực giáp chiến hết sức lợi
hại. Ngoài ra, quân Tây Sơn có "Hỏa cầu", là một quả cầu
kim loại rỗng ruột hoặc bằng giấy quết nhựa bên ngoài, có tay cầm, to cỡ quả
bưởi, bên trong nhồi thuốc nổ, chất cháy, mảnh gang, sắt vụn và các quả cầu
con. Khi sử dụng thì châm ngòi nổ và ném vào đối phương, có thể coi đây là một
loại lựu đạn sơ khai. Quân Tây Sơn đã sử dụng hỏa cầu trong trận đốt cháy tàu
Manuel năm 1782 và trong trận tấn công đồn Ngọc Hồi năm 1789.
Súng thần công của quân Tây Sơn được tìm thấy
tại căn cứ thủy binh Tây Sơn ở cảng Thị Nại (Quy Nhơn), hiện được trưng bày
trong Bảo tàng Tây Sơn (Bình Định)
Súng đại bác loại nhỏ (small cannon) thì có thể mang trên lưng
và bắn một loại đạn nặng chừng hơn 100 gram. Một người lính cõng cái nòng súng
(barrel), dài chừng 2 thước, trong khi một người lính khác mang cái “giá” là
một khúc gỗ tròn dài cũng chừng cái nòng súng. Khi tác xạ, cái giá được dựng
lên bằng hai cái càng hay một cái chạc cao khỏi mặt đất chừng một mét, nòng
súng sau đó để lên trên giá trong một cái ngàm sắt. Người lính có thể điều
chỉnh độ nhắm và kiểm soát bằng một cái báng tì lên trên vai. Các loại súng này
rất tiện lợi cho việc di chuyển và phục kích quân địch.
Hỏa hổ và hỏa cầu không phải là loại vũ khí hoàn toàn mới nhưng
cách sử dụng sáng tạo của quân Tây Sơn đã nâng cao hiệu quả của chúng. Quân Tây
Sơn đã chế tạo ra hỏa hổ bằng những ống tre, trở thành một khí cá nhân gọn nhẹ.
Nếu đem so với những khẩu pháo nặng hàng trăm kg của quân chúa Trịnh hay của
nhà Minh, nhà Thanh thì sự sáng tạo này rất có giá trị. Vua Quang
Trung còn kết hợp hỏa hổ, hỏa cầu với voi chiến tạo thành một
lực lượng đột kích mạnh, nhanh chóng phá vỡ đội hình của đối phương. Sử nhà
Thanh viết như sau: “Trên lưng mỗi con voi có ba, bốn người lính chít
khăn đỏ, ngồi ném tung hỏa cầu lưu hoàng ra khắp nơi, đốt cháy cả người nữa”.
Quân Tây Sơn thường dùng tượng binh phá kỵ binh, dùng hỏa hổ,
hỏa cầu gây rối loạn bộ binh đối phương, rồi xông cho quân xông lên giáp lá cà
bằng các vũ khí thông thường. Dưới sự chỉ huy linh hoạt của vua Quang Trung,
chiến thuật này đã nhanh chóng đánh bại quân đối phương.
Tây Sơn
thập thần binh khí là
danh xưng người đương thời gọi để chỉ 10 binh khí nổi tiếng của quân Tây Sơn,
gồm có:
2/ Song Thần Côn:
3/ Tam Thần Đao:
4/ Tứ Thần Cung:
Thủy quân
Quân thủy Tây Sơn là một đội quân có tính chất nhảy vọt trong
lịch sử Việt Nam, vượt xa quân thủy Trịnh – Nguyễn, vuợt cả quân thủy của Minh
Mạng trong thời kỳ thịnh đạt nhất của nhà Nguyễn.
Kỹ nghệ đóng thuyền của quân Tây Sơn rất tiến bộ, đó là kỹ thuật
chia đáy thuyền thành các khoang khác nhau. Vì thế thuyền sẽ không bị chìm dù
va phải đá ngầm.
Barizy, Chaigneau là những sĩ quan Pháp từng trực tiếp giáp mặt
với quân thủy Tây Sơn đã mô tả những chiến hạm Tây Sơn, trang bị tới 50-60 khẩu
đại bác hạng nặng. Chính sử nhà Nguyễn gọi đó là loại thuyền “Định Quốc Đại Hiệu”.
Một mô hình tàu chiến được cho là của thủy
quân Tây Sơn, hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Tây Sơn (Bình Định)
Thủy quân Tây Sơn chia các tàu ra làm nhiều hạng:
1/ Chiến thuyền loại 1: Có 600 - 700 thủy
thủ và trang bị 50 - 60 đại bác bắn đạn nặng 24 cân Anh (khoảng 10,88 kg)
mỗi khẩu.
2/ Chiến thuyền loại 2: Trang bị ít đại bác
hơn, đạn mỗi khẩu nặng 12 cân Anh (tương đương 5,4 kg), số lượng thủy thủ
vào khoảng 200 người (chỉ bằng 1/3 của loại 1).
3/ Chiến thuyền loại 3: Trang bị chỉ có 1
khẩu đại bác, song lại lớn hơn bất cứ loại đại bác nào khác (36 cân Anh tương
đương 16,3 kg), có khoảng 150 thủy thủ hoặc binh lính.
4/ Còn lại là chiến thuyền loại 4 và 5 với
số lượng nhiều gấp bội, mỗi tàu có từ 50 đến 70 thủy thủ, chuyên dùng tác chiến
trên sông rạch.
"Đại Nam thực lục tiền biên" ghi: Năm 1782, Nguyễn Ánh
đem vài trăm chiến thuyền vào cửa Cần Giờ, tham dự trận thủy chiến ở sông Thất
Kỳ giang. Dù thủy quân Nguyễn Ánh đã có 2 tàu Tây và người Tây chiến đấu dũng
cảm như Emmanuel, song cũng không địch nổi thủy quân Tây Sơn. Barizy tường
thuật về lực lượng của hạm đội Tây Sơn do Vũ Văn Dũng chỉ huy như sau: “Lực lượng
này gồm có 673 chiến hạm đủ cỡ lớn nhỏ. Trong số này, có những chiến hạm lớn
trang bị súng đại bác và thủy thủ đoàn nhiều hơn cả những chiến hạm lớn nhất
kiểu Tây phương mà quân Nguyễn có”. Ngoài ra, trong một bức thư của Jeaptiste Chaigneau cho
biétriêng ở Quy Nhơn, thủy đội Tây Sơn có 54 tàu, 93 chiếc thuyền, 300 pháo
hạm, 100 tàu buồm trang bị rất hùng hậu.
Tính kỷ luật
Dưới thời vua Quang Trung, quân đội Tây Sơn có kỷ luật rất tốt.
Quân đội Tây Sơn nghiêm cấm việc cướp bóc, phá hoại người dân. Theo Montyon,
trong chiến tranh Nguyễn Ánh - Tây Sơn, "một đoàn quân khác [quân
Tây Sơn] đến vây thành của vua Nam Hà [Gia Định] nhận được kỷ luật sắt: lính
không được lấy gì của dân mà không trả đúng giá, không được vào nhà dân mà
không được họ cho phép. Binh lính hai bên đánh nhau, dân đứng nhìn, tiếp tế cho
quân đội và được trả đúng giá những gì họ cung cấp, chỉ bắt buộc phải công nhận
người chiến thắng làm minh chủ"
Ở những khi đóng quân và phải ổn định trật tự thì kỷ luật thép
được áp dụng. Theo thư của giáo sĩ Le Roy ở Nam Ðịnh viết cho ông Blandin ở
Paris ngày 11 tháng 7 năm 1786 thì: … Những người Nam Hà này (quân Tây
Sơn) đã áp dụng sự xử án khắc nghiệt, tố cáo chẳng cần đợi xét xử lôi thôi, họ
đã chém đầu những bọn trộm cướp hay tất cả những kẻ nào bị người ta tố cáo là
trộm cướp. Người ta rất lấy làm thích sự xử phạt như vậy và sự liêm khiết của
quân Tây Sơn. Vì họ không cướp bóc của ai, họ chỉ biết chặt đầu những kẻ đó mà
thôi. Ðiều đó đã tạo ra sự yên lành ở một vài nơi trong một thời gian."
Các
trận chiến liên quan đến nhà Tây Sơn
Chiến tranh
Tây Sơn-Chúa Nguyễn lần 1 (1771-1785)
Chiến tranh Đại Việt-Xiêm
La (1785)
Chinh phạt Chân Lạp (1785)
·
Trận Nam Vang (1785)
Chiến tranh
Tây Sơn-Chúa Trịnh (1775-1786)
Xung đột nội bộ (1787)
·
Cuộc bao vây thành Quy Nhơn (1787)
Chiến tranh Đại Việt-Đại Thanh (1789)
Chinh phạt Viêng Chăn (1791)
·
Trận Viêng Chăn (1791)
Chiến tranh
Tây Sơn-Chúa Nguyễn lần 2 (1787-1802)
Danh
sách các vua nhà Tây Sơn
Nhà Tây Sơn từ khi vua Thái Đức lên ngôi năm 1778 đến khi Cảnh
Thịnh bị bắt năm 1802 được tất cả 24 năm, có 3 vua:
1/ Thái Đức Hoàng Đế Nguyễn Nhạc (1778 - 1788). Từ năm 1788, ông nhường
ngôi cho Nguyễn Huệ, còn mình xưng là Tây Sơn vương.
2/ Quang Trung Hoàng Đế Nguyễn Huệ (1788 - 1792). Mất đột ngột năm 1792,
con là Quang Toản nối ngôi.
Nếu tính từ khi Nguyễn Nhạc khởi binh từ năm 1771 thì cộng tất
cả là 31 năm.
Sơ đồ nhà Tây Sơn:
Nhận định
Thời Tây Sơn chính là một trong những thời kỳ nhiều biến động
nhất trong lịch sử Việt Nam trên khắp phạm vi lãnh
thổ, thậm chí cả những biến cố bên ngoài biên giới có liên quan (Campuchia, Lào, Thái
Lan, Trung
Quốc, Pháp). Chính sự chúa Nguyễn suy đồi, rồi nhà Tây Sơn nổi dậy cho tới
cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, khi nhà Tây Sơn bị tiêu diệt thì chiến tranh mới
kết thúc, kéo dài suốt 30 năm. Phần lớn các cuộc chiến lớn nhỏ đều có sự tham
gia của quân Tây Sơn. Các phe phái chính trị trong nước chính tham gia thời kỳ
này bao gồm chúa
Trịnh ở phía Bắc, vua Lê với sự hậu thuẫn của Trung Quốc, chúa
Nguyễn ở phía Nam và quân Tây Sơn ở dải miền Trung.
Các bộ sử của nhà Nguyễn coi Tây Sơn là "giặc cướp",
"phản loạn" và phê phán nặng nề các nhân vật của triều đại này. Tuy
nhiên, trong một số chi tiết đã cho thấy thực sự nhà Nguyễn ghi nhận tài năng
của các lãnh đạo triều Tây Sơn. Sách Đại Nam thực lục của nhà
Nguyễn chép lại lời tâu của bề tôi Nguyễn Ánh về Tây Sơn:
"Kẻ kia, Nhạc, Huệ,
anh em từ dân áo vải, không tấc đất cắm dùi, vươn tay hô một tiếng, người theo
có cả vạn, chẳng đầy 5-6 năm mà có được nước. Họ không có quá tài đức của người
thì vì lẽ gì mà lại hưng thịnh dữ dội như vậy?".
Còn quyển Lịch sử Việt Nam của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm
1971 đã viết: "Còn công lao Tây Sơn đối với lịch sử là rất vĩ đại, nhân
dân Việt Nam sẽ nhớ mãi. Họ kế tục, phát triển và đưa sự nghiệp của Quang Trung
tiến lên ngang tầm với tầm vóc của thời đại, khi ngọn cờ giải phóng dân tộc sẽ
chuyển sang tay giai cấp lịch sử tiên tiến nhất, dân tộc Việt Nam cùng với loài
người tiến bộ sẽ chiến thắng chủ nghĩa đế quốc và mở ra một kỷ nguyên mới trong
lịch sử thế giới.".
"Sau Chiến tranh
thế giới thứ hai, và trong buổi đầu của cuộc cách mạng cộng sản
chủ nghĩa với những liên hệ chặt chẽ với nông thôn Việt Nam, việc xây dựng hình
ảnh Tây Sơn với đặc điểm là một "cuộc nổi dậy của nông dân" hoặc một
"phong trào nông dân" bắt đầu xuất hiện trong nghiên cứu của Việt
Nam. Các học giả đã nhiệt tình mô tả cuộc nổi dậy của Tây Sơn hoặc như một cuộc
"cách mạng", hoặc một cách trung lập hơn, là một "phong
trào nông dân."
"Trong cách nghiên
cứu sử học về Tây Sơn này, nông dân nổi lên
như một biểu tượng anh hùng, cao thượng và không biết sợ hãi, quyết tâm theo đuổi mục tiêu
công bằng kinh tế và xã hội, và vì một đất
nước thống nhất không bị ngoại bang can thiệp".
"Chính những cách
diễn giải này, mà phần lớn được các sử gia Việt Nam công bố
vào nửa sau thế kỷ 20, thống trị toàn bộ diễn ngôn về thời Tây Sơn".
Theo nhà sử học Trần Trọng Kim viết năm 1920, trong tác
phẩm Việt Nam sử lược đã đánh giá phân minh rằng: xét riêng
với nhà Nguyễn thì Tây Sơn là kẻ địch (vì họ đã đánh đổ chúa Nguyễn), nhưng xét về công lao với đất nước, với
dân tộc thì phải coi đây là một triều đại chính thống, sánh ngang với nhà
Đinh, nhà Lê:
“Vậy nay (tôi) lấy những lẽ ấy mà xét xem nên cho nhà
Nguyễn Tây Sơn làm chính thống hay ngụy triều, để cho hợp lẽ công bằng và cho xứng
cái danh hiệu những người anh hùng đã qua.
...từ khi nhà Lê trung hưng lên trở về sau, họ Nguyễn hùng cứ phương
Nam, họ Trịnh xưng chúa miền Bắc; trên tuy còn tôn vua nhưng mà quyền về cả nhà
chúa. Vua không phải là vua, tôi không phải là tôi, ấy là một thời loạn. Đến
sau ở trong Nam thì có Trương Phúc Loan chuyên
quyền làm bậy, ở ngoài Bắc thì có kiêu binh làm loạn, giết hại quan đại thần,
vua chúa phải nhún mình mà chiều đãi, đình thần phải khoanh tay mà chịu, ấy lại
là một lúc đại loạn vậy.
Lúc ấy anh em Nguyễn Nhạc là người dân mặc áo vải, dấy binh ở ấp Tây
Sơn, chống nhau với chúa Nguyễn để lập nghiệp ở đất Quy Nhơn. Tuy rằng đối với
họ Nguyễn là cừu địch, nhưng mà đối với nước Nam, thì chẳng qua cũng là
một người anh hùng lập thân trong lúc biến loạn đó mà thôi. Còn như Nguyễn Huệ là
vua Thái Tổ nhà Nguyễn Tây Sơn, thì trước giúp anh bốn lần vào Gia Định đều
được toàn thắng, phá hai vạn quân hùm beo của
Xiêm La, chỉ còn được mấy trăm người lủi thủi chạy về nước;
sau lại ra Bắc Hà, dứt họ Trịnh, tôn vua Lê, đem lại mối cương thường cho rõ
ràng. Ấy là đã có sức mạnh mà lại biết làm việc nghĩa vậy.
Sau vua Lê Chiêu Thống và bà Hoàng Thái Hậu đi sang kêu cầu bên Tàu,
vua nhà Thanh nhân
lấy dịp ấy mượn cớ cứu nhà Lê, để lấy nước Nam, bèn sai binh tướng sang giữ
thành Thăng Long. Bấy giờ cứ theo như tờ mật dụ của vua nhà Thanh thì nước Nam
ta, bề ngoài tuy chưa mất hẳn, nhưng kỳ thật đã vào tay người Tàu rồi. Vậy nước
đã mất, thì phải lấy nước lại, ông Nguyễn Huệ mới
lên ngôi Hoàng Đế, truyền hịch đi các nơi, đường đường chính chính, đem quân
ra đánh một trận phá 20 vạn
quân Tàu, tướng nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị phải
bỏ cả ấn tín mà chạy, làm cho vua tôi nước Tàu khiếp sợ, tướng sĩ nhà Thanh
thất đảm. Tưởng từ xưa đến nay nước ta chưa có võ công nào lẫm liệt như vậy.
Vả đánh đuổi người Tàu đi lấy nước lại mà làm vua thì có điều gì mà
trái đạo? Há lại chẳng hơn nhà Lý, nhà Trần nhân lúc ấu quân, nữ chúa, mà làm
sự thoán đoạt hay sao? Vậy thì lấy lẽ gì mà gọi là ngụy? Huống chi sau vua nhà
Thanh cũng công nhận cho ông Nguyễn Huệ làm vua nước Nam, và lại sai sứ sang
phong cho ông làm An Nam Quốc vương theo như lệ các triều trước, như thế thì
nhà Nguyễn Tây Sơn mở nước có khác gì nhà Đinh và nhà Lê không?
Tuy rằng chẳng được bao lâu nhà Nguyễn Tây Sơn sinh ra nội loạn, vua
Thế Tổ Cao Hoàng nhà Nguyễn lại thu phục được cơ nghiệp cũ mà nhất thống cả nam
bắc lại làm một, nhưng việc thành bại hưng vong là mệnh trời, vả lại khi hai
người anh hùng đuổi một con hươu, tất là người nọ gọi người kia là cừu địch.
Vậy lấy lẽ tôn bản triều (nhà Nguyễn) mà xét thì nhà Tây Sơn là ngụy, nhưng
lấy công lý mà suy thì vua Quang Trung Nguyễn Huệlà
một ông vua cùng đứng ngang vai với vua Đinh Tiên Hoàng,
vua Lê Thái Tổ,
mà nhà Nguyễn Tây Sơn cũng là một triều đại chính thống như nhà Đinh và nhà Lê vậy.
Về văn trị
Sau khi định đô ở Quy
Nhơn, vua Thái Đức không có đóng góp gì đáng nói về văn
trị. Văn trị nhà Tây Sơn vẫn chủ yếu là thành tựu của vua Quang Trung nhờ ông biết trọng dụng nhân tài.
Việc khuyến khích phát triển kinh tế và
dùng chữ Nôm chứng tỏ ông không chỉ là một người
lãnh đạo "võ biền" đơn thuần. Đánh Xiêm, Thanh, nhưng
cũng ngay lập tức, Quang Trung chú trọng nối lại hòa bình bằng ngoại giao với
các nước này. Tuy nhiên, thời gian trị vì của ông quá ngắn ngủi khiến tác dụng
của những biện pháp cai trị của ông chưa có hiệu quả rõ nét.
Đáng chú ý là việc trọng dụng chữ Nôm đã
biểu lộ tinh thần quốc gia mãnh
liệt muốn tách khỏi ảnh hưởng từ chữ Hán. Quang Trung tuy trọng khoa cử, chữ Nho vẫn
được dùng nhưng trong chiếu, biểu, sắc, dụ, thi phú, văn Nôm đă được đặt vào
một địa vị quan trọng.
Vốn là con người có óc thực tế, vua Quang Trung sau khi lên ngôi
liền nghĩ ngay việc đúc tiền bằng đồng để tiêu dùng trong nước và có sự thuận
tiện trong việc thương mại. Năm Quang Trung thứ tư (1791) do cần chuẩn bị việc
đánh Mãn Thanh, nhà vua đã cho đi thu gom các đồ bằng đồng tốt trong nước để
đem làm binh khí và đúc tiền cho rộng tài nguyên.
Về võ công
Tương truyền Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ đều là những
người rất giỏi võ nghệ và là những người khai sáng ra một số võ phái Bình Định. Nguyễn Huệ khai sáng Yến phi quyền, Nguyễn Lữ sáng tạo Hùng kê quyền, và cả ba anh em Tây Sơn sáng
tạo Độc lư thương. Tây Sơn tam kiệt có vai trò
rất lớn cho sự hình thành, phát triển Võ thuật Bình Định, là những đầu lĩnh sáng tạo,
cải cách các bài quyền, bài binh khí để truyền dạy cho ba quân trong giai đoạn
đầu khởi nghĩa.
Chỉ trong một thời gian ngắn kể từ khi khởi sự, nhà Tây Sơn đã
lập được rất nhiều chiến tích quân sự: Từ Nam ra Bắc, Tây Sơn đánh đổ cả hai
tập đoàn phong kiến đã có trên 200 năm là chúa
Trịnh và chúa Nguyễn, sau đó còn đánh bại cả quân ngoại viện do
tàn dư của các thế lực cũ đưa vào là quân Xiêm và quân Thanh. Điều đáng nói hơn
là trong số những chiến tích võ công đó có nhiều chiến thắng hiển hách, vang
dội, nổi tiếng trong lịch sử dân tộc. Sử quan nhà Nguyễn là Trần Trọng Kim viết
năm 1920, trong tác phẩm Việt Nam sử lược đã đánh giá chiến
thắng 20 vạn quân Thanh của Tây Sơn là "Tưởng từ xưa đến nay nước
ta chưa có võ công nào lẫm liệt như vậy".
Trong 3 anh em, nổi bật nhất là vua Quang Trung. Ông là hoàng đế
bách chiến bách thắng, lập nhiều chiến tích quân sự nhất trong lịch sử Việt Nam. Cả cuộc đời binh nghiệp của
ông, dù dưới danh hiệu Long Nhương tướng quân[e], Bắc
Bình vương hay hoàng đế Quang Trung, ông đều lập công
trạng hiển hách, chưa từng thất bại một trận nào. Do
những chiến tích vang dội, Nguyễn Huệ được các giáo sĩ Tây phương so sánh
với Alexandros Đại đế và Attila.
Gras de Préville, thuyền trưởng tàu Pandour của Pháp ở Gia Định
năm 1788 đã viết về Nguyễn Huệ và quân đội của Tây Sơn như sau: "Tây
Sơn rất mạnh; quân đội của Nguyễn Huệ nếu không thiện chiến cũng rất đông;
Nguyễn Huệ có voi để kéo pháo, và hơn nữa, Nguyễn Huệ có rất nhiều thuyền
chiến, chiến hạm và tàu thuyền để chở quân đội. Nguyễn Huệ có nghị lực, có tài
năng..."
Những hậu duệ cuối cùng và nghi vấn còn tồn tại
Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) quan quân nhà Nguyễn vẫn tiếp tục
truy tìm hậu duệ của Tây Sơn, bắt được Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Văn Lương và
Nguyễn Văn Đâu. Đâu là con của Đức, cả hai đều bị chém ngang lưng. Từ đây Tây
Sơn bị tận diệt. Tuy nhiên theo phân tích của nhà sử học Đỗ Bang, nhiều khả
năng chỉ là tuyên bố để trấn an lòng dân. Nguyễn Văn Đức và Văn Lương đều là
con cháu của Nguyễn Nhạc. Tây Sơn bị diệt vong năm 1802,trong khi 2 ông này bị
bắt năm 1831, như vậy cũng phải hơn 30 tuổi. Vậy thì việc chỉ có Văn Đâu là con
của Văn Đức là điều vô lý. Nhất là khi Nguyễn Văn Đức và Nguyễn Văn Lương ý
thức được rằng việc duy trì nòi giống cho nhà Tây Sơn là điều hết sức quan
trọng nhất là khi triều Nguyễn truy lùng rất gắt gao. Rất có thể vẫn còn những
hậu duệ của hai người này mà triều Nguyễn vẫn chưa bắt được và Văn Đâu chỉ là
một trong những người cháu bị triều Nguyễn bắt được.
Ngoài ra Đỗ Bang còn đưa ra nghi vấn về việc Nguyễn Văn Đức là
con của Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc đặt niên hiệu cho mình là Thái Đức thì không
có lý do gì lại đặt tên con mình là Đức. Nhiều khả năng đây chính là con của
Quang Trung và Lê Ngọc Hân. Và nếu có như vậy thì lúc bị bắt ông đã gần 40
tuổi, không thể chỉ có một người con là Nguyễn Văn Đâu, càng củng cố cho giả
thuyết trên.
Ngoài ra một số tư liệu mà Đỗ Bang cung cấp thì bà Nguyễn Thị
Bích đã cùng con bà đã chạy thoát khỏi sự chu diệt của Nguyễn Ánh.
Nguyên nhân thất bại
Với sự xuất sắc của nhà lãnh đạo, tài năng của các tướng lĩnh và
sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng, Tây Sơn đã tiêu diệt rất nhiều kẻ thù. Đặc
biệt dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ, đó là đội quân bách chiến bách thắng. Vậy
vì sao đội quân đó không thể triệt tiêu hoàn toàn lực lượng tàn dư của Nguyễn
Ánh để gây thành hậu họa sau này?
1/ Thứ nhất, dòng họ chúa Nguyễn lúc ấy
không được lòng dân chúng nhưng lại có được sự ủng hộ của một bộ phận lớn
các địa chủ tại Nam Bộ. Do đó, khi lực lượng bố phòng của Tây Sơn ở lại không đủ mạnh,
Nguyễn Ánh nhanh chóng lấy lại vùng này.
2/ Thứ hai, các nhà lãnh đạo Tây Sơn đã từng
có thời điểm đánh giá chưa đúng thực lực của Nguyễn Ánh. Sau khi nghe tin Ánh
giết tướng Đỗ Thanh Nhơn (Nhân) vì uy tín của Nhơn có phần lấn át Ánh, Nguyễn
Nhạc cho rằng tướng soái của Nguyễn Ánh không có ai đáng ngại nữa. Sau này, khi
đánh bật được Ánh ra khỏi lãnh thổ, nhất là sau khi chớp nhoáng đập tan quân
Xiêm, sự đánh giá ấy càng trở nên chủ quan hơn.
3/ Thứ ba là sự chia rẽ trong nội bộ anh em
Tây Sơn giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ. Chính cuộc xung đột năm 1787 đã tạo điều
kiện cho Nguyễn Ánh trở về lấy lại Gia Định. Lực lượng Tây Sơn ở đây đơn độc tại
Nam Bộ không được sự tiếp viện cần thiết từ phía bắc nên đã không thể giữ được
đất này. Năm sau, cuộc xung đột của hai anh em chấm dứt, Nguyễn Nhạc tự nguyện
trao lại binh quyền, nhưng Nguyễn Huệ lại phải lo đối phó với quân Thanh đã tiến
vào miền Bắc, Nguyễn Nhạc thì đã trở nên già cả và suy yếu lực lượng, không còn
khả năng một mình tiến hành Nam chinh nữa. Cái chết của Nguyễn Lữ dù không ảnh
hưởng quá nhiều đến nhà Tây Sơn (vì ảnh hưởng của ông cũng là ít nhất trong ba
người) nhưng có lẽ càng khiến tinh thần Nam chinh của Nguyễn Nhạc thêm mòn đi.
Điều đó lý giải vì sao Nguyễn Ánh có thể chắc chân tại Nam Bộ tạo cơ sở cho ông Bắc tiến sau này.
Cùng với các nguyên nhân trên, nguyên nhân quan trọng nhất dẫn
đến sự sụp đổ của nhà Tây Sơn khiến lực lượng của Nguyễn Ánh chiến thắng lập
nên nhà Nguyễnchính là cái chết quá sớm và đột ngột của
vua Quang Trung:
a/ Vua Quang Trung là người làm nên gần như
tất cả các thành tựu của nhà Tây Sơn kể từ năm 1777, ông qua đời mà không có
người thay thế xứng đáng. Con trai là Quang Toản còn quá nhỏ (mới 11 tuổi),
không có đủ kinh nghiệm và sự cứng cỏi nên không thể giành được sự ủng hộ của
người dân ở Bắc Hà, mảnh đất vừa chính thức về tay nhà Tây Sơn không lâu. Việc
sau này, lúc bị quân Nguyễn Ánh bắt, anh Toản là Quang Thùy đã tự vẫn nhưng Toản
không dám chết cùng chứng tỏ Toản chưa bằng Đoan Nam vương Trịnh Tông.
b/ Sự xung đột nghiêm trọng của hàng ngũ tướng
lĩnh Tây Sơn. Tây Sơn có nhiều tướng tài, nhưng sau khi người lãnh đạo tối cao
Nguyễn Huệ qua đời, dường như không ai chịu nghe ai. Các tướng giỏi,
ngoài Ngô Văn Sở, Lê
Trung bị giết, còn có Ngô Thì Nhậm phải lánh đi ở ẩn và nguy hại hơn
là Lê Chất chạy sang đầu hàng Nguyễn Ánh. Thực
ra, việc ấu chúa lên ngôi mà triều đình vẫn phải thực hiện di mệnh đánh dẹp
không phải là nhiệm vụ không thể thực hiện được, như trường hợp của vua Thuận
Trị (Phúc Lâm) nhà Thanh. Thuận Trị lên ngôi khi còn nhỏ (và
sau chết yểu) nhưng nhà
Thanh vẫn tiến vào trung nguyên, hoàn thành việc chiếm Trung
Quốc, diệt nhà
Minh và Lý Tự Thành, công việc là nhờ vào tay nhiếp
chính Đa Nhĩ Cổn. Bởi các tướng Tây Sơn không thể có được
ai đứng ra làm nhiếp chính lo liệu mọi việc, lại bị người Pháp từ
bên ngoài can thiệp giúp sức cho Nguyễn Ánh nên nhà Tây Sơn càng nhanh chóng sụp
đổ.
Những đóng góp với lịch sử Việt Nam của nhà Tây Sơn là điều đã
được nhiều nhà nghiên cứu rộng rãi thừa nhận. Tuy nhiên những yếu tố dẫn đến
thất bại nhanh chóng của triều Tây Sơn trong khoảng mười năm sau khi Quang
Trung qua đời đột ngột là điều vẫn còn gây tranh cãi với giới nghiên cứu lịch
sử. Một nguyên nhân không thể phủ nhận là tính chất "chuộng võ" quá
đậm của triều đại vốn phát tích từ đất Bình Định. Bởi vậy, khi có một nhà lãnh
đạo giỏi về võ công lẫn sáng suốt về cai trị như Quang Trung Nguyễn Huệ thì
nhóm nho sĩ và nhóm võ tướng tìm được tiếng nói chung và hết lòng phục vụ lợi
ích của dân tộc, nhưng khi không còn một người lãnh đạo có sức quy tụ mạnh như
Quang Trung thì họ để lộ rõ điểm yếu trong đường lối hành động của mình. Những
người có công đầu với triều đại trở thành những đầu mối của cuộc tranh giành
quyền lực cá nhân, góp phần không nhỏ dẫn đến việc sụp đổ nhanh chóng của triều
đại, mặc dù xét cả về mặt chất lẫn lượng thì nhà Tây Sơn vẫn áp đảo phe cánh
ủng hộ Nguyễn Ánh ở những năm đầu của thập niên cuối cùng thế kỷ 18.
Một nguyên nhân khác, dù không phải là quan trọng nhất nhưng
không thể không nói đến. Đó là lòng kiên trì kèm thêm may mắn của Nguyễn Ánh.
Rõ ràng Ánh đã gặp may khi nhiều lần thoát chết trước sự truy đuổi sát nút của
Tây Sơn. Nhưng ông cũng là một người có lòng dũng cảm và ý chí bền bỉ, dù bị
thua hết lần này đến lần khác, gặp rất nhiều hiểm nguy. Có thể nói tài năng
quân sự của ông không bằng Nguyễn Huệ nhưng vận may của ông thì lớn hơn nhiều.
Sau khi Nguyễn Huệ chết, nhà Tây Sơn lục đục nên không còn ai đứng ra làm đối
thủ của ông. Sự ra đi sớm của Nguyễn Huệ và việc Nguyễn Ánh "có số
mệnh dài hơn và chết sau Nguyễn Huệ" là một nhân tố giúp ông
giành thắng lợi sau cùng.
Một nguyên nhân khác là tình hình miền Bắc Việt Nam thời kỳ đó
hoàn toàn chưa yên ổn, nhiều người dân và sĩ phu Bắc Hà vẫn tưởng nhớ nhà Hậu Lê và mong mỏi vương triều cũ được tái
lập. Sự hoài vọng đó làm nhiều người Bắc Hà có những ảo tưởng: họ mong đợi,
thậm chí trợ giúp quân Nguyễn
Ánh ở trong Nam kéo ra đánh Tây Sơn. Họ nghĩ rằng Nguyễn Ánh
là dòng dõi chúa Nguyễn, lại vẫn dùng niên hiệu Cảnh Hưng của vua
Lê nên vẫn là thần tử của nhà Lê, sau khi thắng Tây Sơn thì Nguyễn Ánh sẽ giúp
nhà Hậu Lê tái lập. Chỉ đến sau này, khi Nguyễn Ánh lên ngôi thì những người
này mới "vỡ mộng" và thất vọng.
Theo Cao Tự Thanh, với việc tàn phá Cù lao
Phố, sát hại người
Hoa ở đây nên trong suốt hơn 10 năm Tây Sơn vẫn không được
đông đảo nhân dân miền Nam ủng hộ. Tuy
nhiên, đây là ý kiến trên cơ sở các tài liệu của sử sách nhà Nguyễn, triều đại
đối địch với nhà Tây Sơn. Theo ý kiến của một nhà nghiên cứu phương Tây hiện
đại là Georges Dutton sự
khốn khổ của người dân trong thời nội chiến là tình trạng chung ở mọi vùng
miền, dưới các chính thể khác nhau - bất kể là Tây Sơn hay chúa Nguyễn - trong
những thời điểm nhất định:
"...Những người
dân đang sống dưới quyền kiểm soát chính trị của chính thế lực nhà Nguyễn ở sâu
trong miền nam... mong đợi được giải thoát khỏi họ. Đến cả Pigneau de Behaine (Bá Đa Lộc), ủng hộ viên người Âu nhiệt tình nhất của Nguyễn
Ánh, vào năm 1791, cũng đề cập đến điều này, khi ông viết về tình cảnh ngày
càng không chịu đựng nổi của những người dân Việt sống trong vùng nhà Nguyễn kiểm
soát."
"... sau đó (khi họ
Nguyễn lại kiểm soát Nam Bộ), hoàn cảnh sống của người dân dưới chính thể nhà
Nguyễn vẫn chẳng hề được cải thiện; điều này được mô tả trong thư của một nhà
truyền giáo người Pháp khác, rằng "hai năm vừa qua, mọi người đều phải đi
làm việc công ích, và [người ta] không bận tâm với bất kì điều gì khác ngoài việc
tìm cách để sống sót, đau khổ đã trở nên đến cực điểm."
Cũng theo Georges Dutton thì "việc hào quang hóa
phong trào Tây Sơn trong trí tưởng tượng của dân chúng vào thế kỷ 19... Khả
năng cách nhìn ưu ái dành cho phong trào và chính thể Tây Sơn có thể là sản
phẩm của mối ác cảm mà dân chúng dành cho nhà Nguyễn, cũng nhiều bằng khả năng
đó chính là ký ức tập thể thật sự về nhà Tây Sơn"
Dù sao đi nữa, tên tuổi của nhà Tây Sơn với những chiến công
đánh giặc giữ nước (đặc biệt là của vua Quang Trung) vẫn còn ghi mãi trong lịch
sử và ký ức của người dân, các bộ sử của nhà
Nguyễn cũng không sao chối bỏ được, dù đây là một trong những
triều đại ngắn nhất trong lịch sử Việt Nam.
Dư âm
Giếng nước của gia đình Tây Sơn Tam Kiệt (Bảo
tàng Quang Trung, Bình Định, Việt Nam).
Tại Hà Nội, bức tượng Quang Trung được tạc trong chùa Bộc dưới
hình thức Đức Ông. Hàng năm, vào ngày mồng 5 Tết âm lịch, tại quận Đống Đa - Hà
Nội thường tổ chức hội Gò Đống Đa để kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa
đánh tan quân Thanh của vua Quang Trung.
Dù Tây Sơn mất nhưng còn nhiều ảnh hưởng về sau, chẳng những
trong nhân dân mà ngay cả với nhà Nguyễn. Theo sách "Truyện cũ cố đô"
của Nguyễn Đắc Xuân, vào
đời cháu nội của Nguyễn Phúc Ánh là Nguyễn Phúc Miên Tông làm vua, tức là Thiệu
Trị (1841-1847), có sứ giả nhà
Thanh đến. Vốn là người hay chữ, Thiệu Trị ra vế đối cho hai
hoàng tử là Nguyễn Phúc Hồng Bảo và Nguyễn
Phúc Hồng Nhậm (sau là vua Tự Đức) rằng:
Bắc sứ lai triều
Không cần suy nghĩ, Hồng Bảo đọc ngay:
Tây Sơn phục quốc
Vế đối về chữ nghĩa thì thật chỉnh không thể bắt bẻ nhưng về nội
dung thì thật "phản nghịch". Thiệu Trị nghe như sét đánh ngang tai,
cố bình tĩnh gượng cười rồi trách Hồng Bảo:
"Tây Sơn mà phục quốc
thì cả bà con mi không còn đất mà chôn! Lần sau có đối thì cũng phải giữ gìn ý
tứ nghe con!"
Sau đó một phần vì việc này mà Thiệu Trị truất ngôi con trưởng
của Hồng Bảo, lập Hồng Nhậm làm thái tử, sau Nhậm trở thành vua Tự Đức.
Các
danh nhân thời Tây Sơn[sửa | sửa mã nguồn]
Tướng võ[sửa | sửa mã nguồn]
Tây Sơn thất hổ tướng là
danh hiệu người đời đặt cho 7 vị tướng tham gia phong trào Tây Sơn từ giai đoạn
đầu, gồm:
Tây Sơn ngũ phụng thư là
danh hiệu người đời đặt cho 5 người phụ nữ nổi bật tham gia phong trào Tây Sơn
từ giai đoạn đầu, gồm:
Ngoài ra còn có nhiều tướng gia nhập sau này như:
Nhân sĩ[sửa | sửa mã nguồn]
Tây Sơn lục kỳ sĩ là
danh hiệu người đời đặt cho 6 vị nhân sĩ tham gia phong trào Tây Sơn từ giai
đoạn đầu, gồm:
Ngoài ra còn có:
No comments:
Post a Comment