Cách nay đúng 76 năm, Mỹ tiến hành không kích Nhật Bản
Ngày 18
tháng 04, 1942
·
1942 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Hoa Kỳ
tiến hành không kích (hình) Tokyo và
các thành phố khác của Nhật Bản, là cuộc tấn công đầu tiên vào Chính quốc Nhật
Bản.
Không kích Doolittle
Không kích Doolittle
Địa điểm Tokyo và các thành phố Nhật Bản khác
Kết quả Cuộc tấn công đầu tiên vào Chính quốc Nhật Bản
Chiến thắng về tuyên truyền cho Hoa Kỳ
Không có ý nghĩa đáng kể về chiến thuật hay chiến lược
Chiến thắng về tuyên truyền cho Hoa Kỳ
Không có ý nghĩa đáng kể về chiến thuật hay chiến lược
Tham chiến
Chỉ huy
Lực lượng
80
thành viên đội bay (52 sĩ quan,
28
hạ sĩ quan và binh sĩ)
Tổn thất
(4
chết khi bị giam giữ: 3 bị xử tử, 1 do bệnh tật)
15 chiếc B-25
15 chiếc B-25
Nhật Bản
bành trướng 1940-1942
Trung tá Không quân Jimmy Doolittle (thứ hai từ bên trái)
và đội bay của ông chụp ảnh trước một chiếc B-25 trên sàn đáp tàu sân bay
USS Hornet
Cuộc Không kích Doolittle vào
ngày 18 tháng 4 năm 1942 là
cuộc không kích đầu tiên được Hoa Kỳ thực
hiện nhắm vào đảo chính quốc Nhật Bản (Honshu)
trong Chiến
tranh Thế giới thứ hai. Nó đã
chứng minh rằng Nhật Bản mong manh trước các cuộc không kích của Mỹ, và là một
mưu chước để người Mỹ trả thù cho việc Nhật Bản bất ngờ tấn công Trân Châu
Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941. Cuộc
không kích được vạch kế hoạch và được dẫn đầu bởi Trung tá Không quân James
"Jimmy" Doolittle.
Doolittle sau này đã kể lại trong quyển tự truyện của
ông rằng cuộc không kích được dự định khiến cho người Nhật nghi ngờ những nhà
lãnh đạo của họ và cũng để xốc dậy tinh thần của người Mỹ:
Người dân Nhật đã được bảo rằng đất nước họ
là bất khả xâm phạm... Một cuộc tấn công ngay chính hòn đảo nhà sẽ gây hoang
mang trong tư tưởng của người dân Nhật và gieo rắc ngờ vực về sự tin cậy nơi
những nhà lãnh đạo của họ.
Một lý do thứ hai, có tầm quan trọng tương đương, là khía cạnh tâm lý của cuộc tấn công này... người Mỹ đang rất cần một cú khích lệ tinh thần sau vụ Trân Châu Cảng.
Một lý do thứ hai, có tầm quan trọng tương đương, là khía cạnh tâm lý của cuộc tấn công này... người Mỹ đang rất cần một cú khích lệ tinh thần sau vụ Trân Châu Cảng.
Mười sáu máy bay ném bom tầm trung B-25B
Mitchell của Không lực Lục quân Hoa Kỳ đã được phóng lên từ tàu sân bay Hornet của Hải quân Hoa Kỳ vốn đã tiến sâu vào vùng biển Tây Thái Bình Dương.
Kế hoạch dự định cho chúng ném bom các mục
tiêu quân sự tại Nhật Bản rồi tiếp tục bay về hướng Tây để hạ cánh xuống Trung Quốc, vì không
thể hạ cánh một máy bay ném bom tầm trung trên chiếc Hornet. Tất cả
mọi máy bay tham gia vụ ném bom này đều bị mất, và 11 thành viên của các đội
bay đã tử trận hay bị bắt, và nhiều người trong số họ đã bị các đơn vị Lục quân
Đế quốc Nhật Bản tại Trung Quốc
giết hại. Một trong số những chiếc B-25 đã hạ cánh trên phần đất Viễn Đông của Liên Bang Xô Viết tại Vladivostok,
nơi nó bị tịch thu và đội bay bị giam giữ trong hơn một năm.
Vladivostok (phiên âm tiếng Việt: Vla-đi-vô-xtốc; tiếng Nga: Владивосто́к (giúp
đỡ·thông tin) ) là trung tâm hành chính của Primorsky Krai, Nga, tọa lạc gần biên giới Nga - Trung Quốc và Bắc
Triều Tiên.
Toàn bộ thành viên của mười ba đội bay, và
tất cả ngoại trừ một người của đội thứ mười bốn, đã có thể quay trở về Hoa Kỳ
hay gia nhập các lực lượng Hoa Kỳ đang hoạt động ở nước ngoài. Cuộc không kích chỉ gây ra những thiệt hại vật chất không
đáng kể cho phía Nhật Bản, nhưng nó thành công trong khía cạnh tâm lý đối với
người dân Mỹ, và gieo rắc sự hoài nghi về khả năng của những nhà lãnh đạo quân
sự Nhật Bản. Nó đã khiến cho Nhật Bản phải rút lực lượng
tàu sân bay hùng mạnh khỏi Ấn Độ Dương để bảo vệ chính quốc; và nó
cũng góp phần thúc đẩy Đô đốc Yamamoto Isoroku đi đến quyết định tấn công Midway,
một trận đánh đã chuyển thành một thất bại có tính quyết định của Hải quân
Đế quốc Nhật Bản gần đảo Midway tại Trung Thái Bình Dương.
Ấn Độ Dương trên bản đồ thế giới
Yamamoto Isoroku (kanji: 山本五十六, Hán Việt: Sơn Bản Ngũ Thập Lục; 4 tháng 4 năm 1884 - 18 tháng 4 năm 1943) là một đô đốc tài ba của Hải
quân Đế quốc Nhật Bản
trong Chiến
tranh thế giới thứ hai.
The extent of Japanese military
expansion in the Pacific, April 1942
Đã có đến khoảng 250.000 thường dân Trung
Quốc bị thảm sát bởi Quân đội Nhật Bản tại phía Đông Trung Quốc trong các hành động trả
thù.
Nguồn
gốc
Cuộc không kích được khởi đầu từ một mong muốn của Tổng thống Franklin D. Roosevelt, bày tỏ cùng Hội
đồng Tham mưu Liên quân trong một buổi họp tại Nhà
Trắng vào ngày 21
tháng 12 năm 1941, rằng
Nhật Bản cần phải bị ném bom càng sớm càng tốt để nâng cao tinh thần của công
chúng sau thảm họa tại Trân Châu Cảng.
Franklin
Delano Roosevelt (phiên
âm: Phranh-kơ-lin Đê-la-nô Ru-dơ-ven) (30 tháng 1 năm 1882 – 12 tháng 4 năm 1945, thường được gọi tắt là FDR) là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 32
Ý tưởng thực hiện cuộc không kích đến từ Đại tá Hải quân Francis
Low, Trợ lý Tham mưu trưởng về Chiến
tranh Chống tàu ngầm. Ông đã báo cáo lên Đô đốc Ernest J. King vào
ngày 10 tháng 1 năm 1942, những
suy nghĩ của mình là những chiếc máy bay ném bom hai động cơ của Lục quân có
thể phóng thành công từ một tàu sân bay sau nhiều quan sát tại một sân bay hải
quân ở Norfolk, Virginia, nơi đường băng được kẻ những
vạch sơn giới hạn mô phỏng sàn đáp của một tàu sân bay dùng trong thực tập hạ
cánh. Sau
đó nó được vạch kế hoạch và lãnh đạo bởi Doolittle, một nhà hàng không dân
sự và là kỹ sư hàng không nổi tiếng trước chiến
tranh.
Fleet Admiral
Ernest J. King, USN
Norfolk là một thành phố ở tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ. Với dân số khoảng 237.764 năm 2002, đây
là thành phố lớn thứ hai ở bang Virginia sau Virginia Beach.
Những yêu cầu về một chiếc máy bay có tầm bay xa 3.900 km
(2.400 dặm) cùng một tải trọng bom 900 kg (2.000 pound) đã đưa đến việc
chọn lựa kiểu máy bay North American B-25B Mitchell để
thực hiện nhiệm vụ này.
Flight Performance
School tham gia vào quá trình thử nghiệm tính năng bay của chiếc máy bay ném
bom tầm trung B-25 Mitchell.
Các kiểu máy bay ném bom tầm trung B-26 Marauder, B-18
Bolo và B-23 Dragon cũng đã được xem xét đến, nhưng
chiếc B-26 mắc phải những đặc tính cất cánh đáng nghi ngờ, còn sải
cánh của B-23 lớn gần gấp rưỡi so với B-25, làm giảm bớt số
lượng máy bay có thể mang theo trên một tàu sân bay cũng như bộc lộ những nguy
cơ cho đảo cấu trúc thượng tầng chỉ huy của con tàu. Kiểu B-18, một trong hai
kiểu cuối cùng được Doolittle xem xét, cũng bị loại bỏ cùng lý do đó.
Cho đến lúc đó, chiếc B-25 chưa từng được thử nghiệm trong chiến
đấu, nhưng
các thử nghiệm sau đó cùng với B-25 cho thấy chúng có thể đáp ứng những yêu cầu
của nhiệm vụ. Báo cáo đầu tiên về kế hoạch của Doolittle đề nghị rằng những
chiếc máy bay ném bom có thể hạ cánh xuống Vladivostok, và
rút ngắn được quãng đường bay đến 960 km (600 dặm), trên cơ sở sẽ chuyển
những chiếc B-25 cho Liên Xô theo Chương
trình Cho thuê-Cho mượn. Tuy
nhiên, các cuộc thương lượng với Liên Xô, lúc đó còn chưa ở trong tình trạng
chiến tranh với Nhật Bản, không mang lại kết quả.
Huấn luyện
Trung tá Doolittle gắn một huy chương hữu
nghị Nhật lên một quả bom để "hoàn trả" lại cho chủ nhân gốc.
Khi kế hoạch đã xác định B-25 là kiểu máy bay tốt nhất đáp ứng
các đòi hỏi đặt ra cho nhiệm vụ này, hai chiếc đã được chất lên sàn đáp của
chiếc tàu sân bay Hornet tại Norfolk,
Virginia, và sau đó đã cất cánh từ sàn đáp không chút khó khăn vào
ngày 3 tháng 2 năm 1942. Cuộc
không kích ngay lập tức được phê duyệt và Liên đội Ném bom (tầm
trung) 17 được chọn để cung cấp các đội bay từ những người tình
nguyện. Liên đội 17 đã là liên đội ném bom đầu tiên được trang bị B-25, khi cả
bốn phi đội của nó được nhận kiểu máy bay ném bom tầm trung mới vào tháng 9 năm 1941. Không
chỉ là liên đội ném bom tầm trung đầu tiên của Không
lực Lục quân Hoa Kỳ, Liên đội 17 vào mùa Xuân năm 1942 còn
có những đội bay B-25 có kinh nghiệm nhất. Sự phân công đầu tiên dành cho Liên
đội tiếp theo sau việc Hoa Kỳ tham chiến là được điều về Không lực 8.
Vào lúc đó, Liên đội 17 đang thực hiện các chuyến bay tuần tra
chống tàu ngầm từ căn cứ ở Pendleton, Oregon; họ
lập tức được di chuyển băng ngang lục địa đến Căn cứ
Không lực Lục quân Lexington County tại Columbia, Nam
Carolina, danh nghĩa bên ngoài là tiến hành các chuyến tuần tra tương tự
tại bờ Đông Hoa Kỳ, nhưng trong thực tế là nhằm chuẩn bị để chống lại Nhật Bản.
Liên đội được chính thức chuyển đến Colombia vào ngày 9 tháng
2, nơi các đội bay chiến đấu được đề nghị một cơ hội tình nguyện
tham gia một nhiệm vụ "cực kỳ nguy hiểm" chưa được xác định.
Ngày 17 tháng 2 nhóm được cho tách khỏi Không lực 8.
Kế hoạch ban đầu đề xuất có 20 máy bay tham gia làm nhiệm vụ, nên
24 máy bay ném bom trong số những chiếc B-25B Mitchell của Liên đội được chuyển
đến Trung tâm cải tiến của Mid-Continent Airlines tại Minneapolis, Minnesota. Công
việc cải biến bao gồm:
·
Tháo bỏ tháp súng bên dưới bụng
·
Trang bị những bộ làm tan băng và chất giải nhiệt chống đông
·
Bổ sung những tấm thép hướng gió trên thân chung quanh tháp súng
bên trên
·
Tháo bỏ hệ thống liên lạc radio (một biện pháp tiết giảm nhiên
liệu)
·
Trang bị thêm ba thùng nhiên liệu phụ và các trụ đỡ bên trong
khoang chứa bom, lối đi và khu vực tháp súng dưới bụng nhằm tăng trữ lượng
nhiên liệu từ 2.445 lên 4.319 lít (646 – 1.141 gallon)
·
Các nòng súng giả được gắn trên chóp đuôi
·
Thay thế các bộ ngắm ném bom Norden bằng
kính ngắm đơn giản, theo đề nghị của Đại úy phi công C. Ross Greening biệt danh
"Mark Twain".
24 đội bay được chọn đã nhận những chiếc máy bay được cải biến
tại Minneapolis rồi bay đến Căn cứ Không quân Eglin tại Florida vào
ngày 1 tháng 3 năm 1942. Tại
đây các đội bay được cho luyện tập khẩn trương trong ba tuần, cất cánh từ sàn
đáp mô phỏng của một tàu sân bay, luyện tập bay tầm thấp và bay đêm, ném bom
tầm thấp và định vị bay sát mặt nước. Đại úy Hải quân Henry Miller đã giám sát
công việc huấn luyện cất cánh và đã tháp tùng các đội bay đến địa điểm xuất
phát. Do các nỗ lực của mình, Đại úy Miller được xem là một thành viên danh dự
của đội Raider. Trung
tá Doolittle đã viết trong bản báo cáo sau chiến dịch là việc huấn luyện đã đạt
được trình độ hoạt động cho dù có nhiều ngày không thể cất cánh được do mưa và
sương mù. Một máy bay bị hư hại nặng do tai nạn khi cất cánh và một chiếc khác
bị loại khỏi nhiệm vụ khi bánh đáp mũi bị rung lắc mà không kịp sửa chữa.
Vào ngày 25
tháng 3, 22 chiếc B-25 còn lại cất cánh từ Eglin để đi đến sân bay
McClellan, California. Chúng đi đến Tổng kho Không quân
Sacramento hai ngày sau đó thực hiện những cải biến sau cùng. Sau đó có tổng
cộng 16 chiếc B-25 được cho bay đến Căn cứ
Không lực Hải quân Alameda, California, vào
ngày 31 tháng 3. Mười lăm chiếc sẽ nằm trong lực lượng
tiến hành chiến dịch, còn chiếc thứ 16, do sự thỏa thuận vào phút cuối với Hải
quân, sẽ được cho nhét lên sàn đáp rồi cho cất cánh không lâu sau khi khởi hành
từ San Francisco nhằm phản hồi thông tin cho các phi công Lục quân về những đặc
tính cất cánh. Tuy nhiên, vào lúc cuối cùng chiếc máy bay ném bom thứ 16 cũng
được cho tham gia vào vụ không kích.
Những
chiếc máy bay tham gia
16 máy bay đã tham gia, theo thứ tự cất cánh, bao gồm:
Số hiệu Tên
long Phi đội Mục tiêu Phi
công Số phận
James H. Doolittle , Trung Quốc
Travis Hoover
40-2270 Whiskey
Pete 95 Tokyo Trung úy bị rơi Đông Nam Chu Châu,
Robert M. Gray Trung
Quốc
40-2282 95 Tokyo Trung
úy bị rơi Đông Nam
40-2283 95 Tokyo Đại úy bị rơi
Tây Nam Chu Châu
40-2298 The Green Hornet 95 Tokyo Trung
úy rơi
ngoài biển Wenchu
40-2303 Whirling Dervish 34 Tokyo Trung úy bị rơi phía Nam Nam Xương,
Harold
F. Watson Trung
Quốc
40-2250 89 Tokyo Trung úy bị rơi Đông Bắc Chu Châu,
Richard
O. Joyce Trung
Quốc
40-2249 Hari Kari-er 89 Yokohama Đại úy bị rơi Đông Bắc Chu Châu,
C. Ross
Greening Trung
Quốc
40-2278Fickle Finger of Fate 37 Yokohama Trung
úy bị rơi Đông Bắc Chu Châu,
William
M. Bower Trung
Quốc
40-2247 The Avenger 37 Yokosuka Trung
úy bị rơi Bắc Nam Xương,
Edgar
E. McElroy Trung
Quốc
40-2297 89 Nagoya Thiếu
tá bị rơi Đông Thượng Nhiêu
John
A. Hilger Trung
Quốc
40-2267 TNT 89 Kobe Trung úy rơi ngoài biển Shangchow,
Donald
G. Smith Trung
Quốc
40-2268 Bat Out of Hell 34 Nagoya Trung
úy bị rơi phía Nam Ninh Ba,
Nhiệm
vụ
Những chiếc B-25B bên trên USS Hornet trên
đường đến Nhật Bản
Ngày 1 tháng
4, 16 chiếc máy bay được cải tiến, đội bay năm người mỗi chiếc
cùng các nhân viên kỹ thuật Không lực với tổng cộng 71 sĩ quan cùng 130 hạ sĩ
quan và binh sĩ, được
cho chất lên tàu sân bay Hornet tại
Alameda. Mỗi máy bay mang theo bốn quả bom 225 kg (500 lb) được chế
tạo đặc biệt cho nhiệm vụ này: ba trong số đó là bom nổ công phá cao và một quả
là bom cháy, vốn là những ống cháy dài được bó lại để có thể chứa trong khoang
chứa bom, nhưng được thiết kế để được tách ra sau khi thả và phân tán trên một
khu vực rộng. Có năm quả bom được đính kèm những huy chương "hữu
nghị", là phần thưởng mà Chính phủ Nhật từng trao tặng cho quân nhân Mỹ
trước chiến tranh. Vũ
khí trang bị cho những chiếc máy bay ném bom được giảm bớt hầu có thể giảm
trọng lượng, và nhờ đó gia tăng tầm bay xa. Mỗi chiếc máy bay ném bom được
phóng lên với hai súng máy 12,7 mm (0,50 caliber) bố trí trong tháp súng
bên trên và một súng máy hạng nhẹ 7.62 mm (0,30 caliber) trước mũi. Một
nòng súng giả được gắn ở chóp đuôi, dự định để làm nản lòng những cuộc tấn công
của máy bay Nhật từ phía sau, mà sau này được ghi nhận trong báo cáo của
Doolittle là đặc biệt có hiệu quả. Những
chiếc máy bay được cho dồn lại và cột chắc chắn vào sàn tàu của Hornet theo
thứ tự được dự định sẽ phóng lên.
Với mệnh lệnh cầm trên tay, Đại tá Hải
quân Marc A.
Mitscher, thuyền trưởng USS Hornet, đang
trao đổi với Trung tá James Doolittle.
Hornet và Lực lượng Đặc nhiệm 18 rời cảng Alameda lúc 10 giờ 00
ngày 2 tháng 4 và vài ngày sau đó đã gặp gỡ Lực
lượng Đặc nhiệm 16, dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc William F. Halsey, Jr., bao
gồm tàu sân bay Enterprise cùng
các tàu tuần dương và tàu khu trục hộ tống cho nó giữa Thái Bình Dương
về phía Bắc Hawaii.
Fleet Admiral
William Halsey Jr. c. 1945
Tàu sân bay
USS Enterprise tháng 2 năm 1939
Máy bay tiêm kích và máy bay trinh sát của Enterprise yểm
trợ trên không cho toàn thể lực lượng đặc nhiệm trong trường hợp có một cuộc
tấn công của Nhật Bản, vì toàn bộ máy bay tiêm kích của Hornet được
chứa bên dưới hầm tàu nhường chỗ cho những chiếc B-25 sử dụng sàn đáp bên trên.
Lực lượng phối hợp bao gồm hai tàu sân bay, ba tàu tuần dương hạng nặng, một
tàu tuần dương hạng nhẹ, tám tàu khu trục và hai tàu chở dầu hạm đội. Các con
tàu hộ tống Salt Lake City, Northampton, Vincennes, Nashville, Balch, Fanning, Benham, Ellet, Gwin, Meredith, Grayson, Monssen, Cimarron và Sabine sau
đó di chuyển với sự in lặng vô tuyến tuyệt đối. Trưa ngày 17
tháng 4 các tàu chở dầu chậm chạp tiếp nhiên liệu cho lực lượng
đặc nhiệm, rồi cùng với các tàu khu trục rút lui về hướng Đông, trong khi các
tàu sân bay và tàu tuần dương băng nhanh về hướng Tây với tốc độ 37 km/h
(20 knot), đến điểm dự định xuất phát trong vùng biển do đối phương kiểm soát
về phía Tây Nhật Bản.
Chiếc B-25 của Doolittle đang cất cánh từ sàn
đáp của USS Hornet, bắt đầu nhiệm vụ của họ đến Nhật Bản.
Lúc 7 giờ 38 phút sáng 18
tháng 4, khi lực lượng đặc nhiệm còn cách Nhật Bản khoảng 1.050 km
(650 dặm), nó bị một tàu tuần tra Nhật Bản trông thấy và gửi một bức điện cảnh
báo tấn công về chính quốc.Chiếc Dai-23
Nittō Maru là một tàu tuần tra tải trọng 70 tấn, được chỉ huy bởi một
hạ sĩ quan vốn đã tự sát thay vì để bị bắt khi con tàu bị đánh chìm. Năm trong
số mười một thành viên thủy thủ đoàn còn sống sót khi họ được chiếc tàu tuần
dương hạng nhẹ Nashville vớt
lên.
Cho dù con tàu bị hỏng nặng và bị đánh chìm bởi hải pháo
của Nashville, do
lo ngại về khả năng Nhật Bản sẽ được báo động bởi thông tin từ chiếc tàu tuần
tra; Doolittle hội ý với Thuyền trưởng của Hornet, Đại tá Marc Mitscher, và
quyết định tung ra những chiếc B-25 ngay lập tức, 10 giờ sớm hơn và cách xa
Nhật Bản hơn 270 km (170 dặm) so với kế hoạch. Sau khi
sắp xếp lại để có chỗ khởi động và làm nóng động cơ, máy bay của Doolittle chỉ
có khoảng đường băng để cất cánh dài 142 m (467 ft). Cho
dù trong thực tế chưa có phi công B-25 nào, kể cả Doolittle, từng cất cánh từ
một tàu sân bay trước đó, tất cả 16 chiếc máy bay đều cất cánh an toàn từ 8 giờ
20 phút đến 9 giờ 19 phút. Chiếc B-25 thứ 16 chỉ được đưa theo như để dự trữ,
được dự tính bay kèm theo như một nền tảng trinh sát và chụp ảnh, nhưng khi yếu
tố bất ngờ bị thử thách, Doolittle quyết định sử dụng tất cả 16 chiếc máy bay
vào nhiệm vụ tấn công.
Đây là lần duy nhất trong lịch sử mà máy bay ném bom
của Không
lực Lục quân Hoa Kỳ được phóng từ một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ trong một phi vụ chiến
đấu.
Những chiếc B-25 bắt đầu bay về phía Nhật Bản, hầu hết theo nhóm
từ hai đến bốn chiếc trước khi tách ra từng chiếc một ở độ cao ngay bên trên
mặt sóng biển nhằm tránh bị phát hiện. Những
chiếc máy bay bắt đầu đến bên trên bầu trời Nhật Bản vào lúc giữa trưa (giờ
Tokyo, sáu giờ sau khi phóng lên), và đã ném bom xuống 10 mục tiêu quân sự và
công nghiệp tại Tokyo, hai tại Yokohama,
cùng Yokosuka, Nagoya, Kobe và Osaka mỗi nơi một mục tiêu. Cho dù một số chiếc B-25 phải chịu đựng
hỏa lực phòng không hạng nhẹ và một ít máy bay tiêm kích bên trên bầu trời Nhật
Bản, không có chiếc máy bay ném bom nào bị bắn rơi, và chỉ có chiếc B-25 của Trung
úy Richard O. Joyce bị hư hại nhẹ do hỏa lực phòng không. Máy
bay số 4 do Trung úy Everett W. Holstrom điều khiển buộc phải phóng bỏ các quả
bom trước khi đến được mục tiêu khi bị máy bay tiêm kích đối phương tấn công do
tháp súng của nó gặp trục trặc không thể vận hành.
Sau đó 15 trong số 16 máy bay tiếp tục bay về hướng Tây Nam dọc
theo bờ biển phía Nam Nhật Bản và vượt qua biển Đông Trung Quốc hướng về phía Đông Trung
Quốc, nơi nhiều sân bay tại tỉnh Chiết
Giang được dự định sẵn sàng để dẫn đường cho họ nhờ vào các cột
mốc dẫn đường hàng không, hạ cánh và được tiếp nhiên liệu trước khi tiếp tục
bay đến Trùng
Khánh, thủ đô thời chiến của Trung Quốc dưới quyền Quốc Dân Đảng.
Vị trí của
Trùng Khánh trong bản đồ Trung Quốc
Căn cứ
chủ yếu đặt tại Chu
Châu, hướng mà mọi chiếc máy bay được dẫn đường để đến đó; tuy nhiên
Halsey đã không gửi bất kỳ tín hiệu nào báo trước theo kế hoạch, rõ ràng là vì
mối đe dọa có thể xảy ra đối với lực lượng đặc nhiệm.
Một chiếc B-25, thiếu hụt nhiên liệu nghiêm trọng, đã quyết định
bay về phía lục địa nước Nga ở gần hơn về phía Tây Bắc.
Các đội bay đối mặt với vô số thử thách không thể lường trước
trong chặng bay đến Trung Quốc: bóng đêm ập đến, nhiên liệu sắp cạn và thời
tiết xấu đi rõ rệt. Không ai đã có thể tiếp tục bay đến được Trung Quốc nếu như
không có một cơn gió mạnh ngẫu nhiên phía đuôi khi họ vừa rời khỏi mục tiêu,
giúp gia tăng tốc độ bay thêm được 46 km/h (25 knot) trong vòng bảy giờ. Do
hậu quả của những vấn đề này, các đội bay ý thức rằng họ không thể nào bay đến
được các căn cứ được dự tính tại Trung Quốc, chỉ cho họ cơ hội lựa chọn nhảy dù
lên vùng đất phía Đông Trung Quốc hoặc đáp xuống dọc theo bờ biển Trung Quốc.
Mười lăm chiếc máy bay đã bay đến được bờ biển
Trung Quốc sau 13 giờ bay và đã rơi khi hạ cánh hoặc nhảy dù; một đội bay đã đi
đến khu vực Viễn Đông nước Nga, và đã hạ cánh ở địa điểm cách Vladivostok 65 km
(40 dặm) về phía Bắc, nơi chiếc B-25 của họ bị tịch thu và đội bay bị bắt giữ
trước khi họ tìm cách thoát được qua ngã Iran vào
năm 1943.
Đây là phi vụ chiến đấu dài nhất từng được kiểu máy bay ném bom
tầm trung B-25 Mitchell thực
hiện, với khoảng cách trung bình 3.600 km (2.250 dặm).
Doolittle và các đội bay của mình, sau khi nhảy dù an toàn xuống
Trung Quốc, đã nhận được sự giúp đỡ của binh lính và thường dân Trung Hoa, cũng
như của John
Birch, một nhà truyền giáo người Mỹ tại Trung Quốc.
Giống như tất cả những người tham gia phi vụ, Doolittle cũng đã phải nhảy dù
thoát ra nhưng may mắn rơi xuống một đống phân trong một ruộng lúa gần Cù Châu, nên
đã cứu được mắt cá chân của mình từng bị chấn thương trước đây. Doolittle cho
rằng phi vụ này đã thất bại thảm hại vì những chiếc máy bay đã bị mất, và ông
cho rằng mình sẽ bị đưa ra toà án binh khi
trở về nhà. Doolittle
sau đó đề nghị Birch bí mật tiếp xúc với Đội Phi Hổ (Flying
Tigers) của Tướng Claire Chennault.
Claire Lee
Chennault (September 6,
1893 – July 27, 1958)[1] was an American military aviator best
known for his leadership of the "Flying Tigers" and the Republic
of China Air Force in World War II.
Diễn
biến tiếp theo
Số phận các thành viên đội bay mất tích
Trung tá James H. Doolittle (giữa) cùng các
thành viên trong đội bay của mình cùng các sĩ quan Trung Quốc sau cuộc tấn
công. Trung úy Richard Cole, đứng ngay bên phải Doolittle, hiện còn sống và
từng tham dự cuộc Họp mặt Raider 2008.
Sau cuộc Không kích Doolittle, hầu hết các đội bay B-25 đã hạ
cánh xuống Trung Quốc sau đó, và được an toàn là nhờ sự giúp đỡ của binh lính
và thường dân Trung Hoa.
Tuy nhiên, những người Trung Hoa tốt bụng giúp
đỡ họ đã phải trả một giá đắt vì đã che chở những người Mỹ. Lục quân Nhật Bản
đã bắt đầu Chiến
dịch Chiết Giang-Giang Tây để hăm dọa người Trung Quốc vì đã
giúp đỡ các phi công Hoa Kỳ. Quân Nhật đã giết hại đến khoảng 250.000 thường
dân Trung Hoa trong khi truy lùng người của Doolittle.
Người Tàu tự khoe mình là cái rốn của vũ trụ, đặt
tên nước mình là Trung hoa. Họ coi các dân tộc ở xung quanh như mọi rợ. Nay con
cháu Thái Dương thần nữ cả gan đánh Mỹ thi chắc họ coi người Tàu như Tàu đã coi
rẻ mình. Với nhãn quan như thể thì nạn đói năm Ất dậu ở quê hương chúng ta là điều
dễ hiểu!
Đội bay của hai máy bay với tổng cộng mười người đã không nhận
được tin tức nào: bao gồm đội của Hallmark (chiếc thứ sáu) và của Farrow (chiếc
cuối cùng). Vào ngày 15
tháng 8 năm 1942, thông
qua Tổng Lãnh sự Thụy Sĩ tại Thượng Hải, người Mỹ được tin tám thành viên của các
đội bay bị mất tích là tù nhân tại trụ sở cảnh sát của Nhật Bản tại thành phố
này (hai thành viên khác tử nạn khi rơi máy bay). Ngày 19
tháng 10 năm 1942, Nhật
Bản thông báo họ đã xét xử tám người và kết án tử hình, nhưng nhiều người trong
số họ được giảm án còn chung thân; không có tên tuổi hay chi tiết nào khác được
đưa ra trong tin tức được tường thuật qua phát thanh. Bộ máy tuyên truyền Nhật
Bản chế nhạo cuộc không kích, gọi nó là "Cuộc không kích chẳng-làm-được-gì",
và khoe khoang là nhiều chiếc B-25 đã bị bắn rơi. Trong thực tế, không có chiếc
nào bị mất do các hoạt động thù địch.
Sau chiến tranh, toàn bộ câu chuyện về hai đội bay bị mất tích
đã được làm sáng tỏ trong một tòa án xét xử tội phạm chiến tranh tại
Thượng Hải. Phiên tòa được mở vào tháng 2 năm 1946 để
xét xử bốn sĩ quan Nhật Bản vì đã ngược đãi tám thành viên đội bay bị bắt giữ.
Hai thành viên còn thiếu, Trung sĩ William J. Dieter và Hạ sĩ Donald E. Fitzmaurice
đã thiệt mạng khi chiếc B-25 của họ rơi ngoài khơi bờ biển Trung Quốc. Tám
người còn lại, các trung úy Dean E. Hallmark, Robert J. Meder, Chase Nielsen,
William G. Farrow, Robert L. Hite và George Barr cùng các hạ sĩ Corporals
Harold A. Spatz và Jacob DeShazer bị
bắt. Ngoài việc bị đánh đập và bị bỏ đói, những người này còn mắc phải
chứng tiêu chảy và phù thũng do
hậu quả của tình trạng sống tồi tệ mà họ bị đối xử. Vào ngày 28
tháng 8năm 1942, các phi công Hallmark và Farrow cùng xạ thủ súng máy Spatz bị
người Nhật đưa ra xét xử giả mạo, cho
dù họ không được biết về hình phạt dành cho họ. Ngày 14
tháng 10 năm 1942, ba
người này được thông báo là họ sẽ bị xử tử vào ngày hôm sau. Lúc 16 giờ 30 phút
ngày 15 tháng 10 năm 1942, họ
được xe tải đưa đến Nghĩa trang Công cộng Số 1 ở ngoại vi thành phố Thượng Hải
và bị xử bắn bởi một đội hành quyết.
Năm người còn lại tiếp tục bị giam giữ trong trại tập trung quân
sự với chế độ ăn đói khát, và tình hình sức khỏe của họ sa sút nghiêm trọng.
Đến tháng 4 năm 1943, họ
được chuyển đến Nam Kinh, nơi mà vào ngày 1 tháng
12 năm 1943, Meder
mất. Bốn người còn lại Nielsen, Hite, Barr và DeShazer cuối cùng nhận được sự
chăm sóc có cải thiện đội chút từ những người giam giữ, và được cho một
bản Kinh Thánh cùng một số ít sách vở khác. Họ đã
sống sót cho đến khi được giải thoát bởi lực lượng Mỹ vào tháng 8 năm 1945. Bốn
sĩ quan Nhật Bản bị xét xử tội ác chiến tranh đối với tám thành viên Doolittle
đều bị xem là có tội: ba người bị kết án lao động khổ sai trong năm năm trong
khi người thứ tư bị kết án chín năm. DeShazer sau cùng trở thành một nhà truyền
đạo và quay trở lại Nhật Bản vào năm 1948, nơi
ông hoạt động với tư cách này trong hơn 30 năm.
Trong nhóm này, hiện nay chỉ có Hite còn sống. Barr chết vì đột
quỵ năm 1967,
Nielsen mất năm 2007 và Jacob DeShazer qua đời ngày 15
tháng 3năm 2008.
Một thành viên Doolittle khác bị mất trong nhiệm vụ này. Hạ sĩ
Leland D. Faktor (thợ máy/xạ thủ trong đội bay của Gray) thiệt mạng khi tìm
cách nhảy dù ra khỏi máy bay, ông là người duy nhất trong đội bay của mình tử
trận.
Những
phục vụ tiếp theo
Liền ngay sau trận không kích, Doolittle nói với các thành viên
khác là ông tin với việc mất toàn bộ 16 chiếc máy bay, kèm với việc thiệt hại
tương đối nhẹ mà chúng đã gây ra đối với các mục tiêu, cuộc tấn công này được
xem là một thất bại và ông sẽ bị đưa ra tòa án quân sự một
khi quay trở về được Hoa Kỳ. Thay vì vậy, cuộc không kích đã củng cố tinh thần
cho người dân Mỹ đến mức Doolittle được Tổng thống Franklin D. Roosevelt trao
tặng Huân chương Danh dự, và được thăng hàm vượt cấp từ
Trung tá lên Chuẩn tướng, bỏ qua cấp Đại tá. Khi vị tướng vừa được
thăng chức Doolittle đi thăm các cơ sở vừa được mở rộng của sân bay Eglin vào tháng 7 năm 1942 cùng
với Đại tá Chỉ huy trưởng Grandison Gardner, tờ báo địa phương Okaloosa
News-Journal, tại Crestview, Florida, trong
khi đưa tin về sự hiện diện của ông, đã không hề đề cập đến việc huấn luyện tại
Eglin lúc đó còn đang được giữ bí mật. Ông tiếp tục lãnh đạo Không lực 12 tại
Bắc Phi, Không lực 15 tại
khu vực Địa Trung Hải và Không lực 8 tại
châu Âu trong ba năm tiếp theo sau.
Ngoài phần thưởng Huân chương Danh dự của Doolittle, Hạ sĩ David
J. Thatcher (thợ máy/xạ thủ trong đội bay của Lawson) và Trung úy Thomas R.
White (xạ thủ trong đội bay của Smith) được trao tặng Ngôi sao Bạc do
nỗ lực của họ giúp đỡ những thành viên bị thương trong đội bay của Trung úy
Lawson trốn thoát khỏi lực lượng Nhật Bản tại Trung Quốc. Tất cả 80 Raider được
tặng thưởng Huân
chương Chữ thập bay Dũng cảm và mỗi người trong số những
người tử trận hay bị thương do cuộc không kích còn được tặng thưởng huy
chương Trái
tim Tím.
Trái tim
Tím_PurpleHeart
Thêm vào đó, mỗi thành viên Doolittle Raider còn nhận được một
phần thưởng của Chính phủ Trung Quốc.
Hai mươi tám thành viên đội bay ở lại tham gia các hoạt động bay
tại Chiến
trường Trung Hoa-Miến Điện-Ấn Độ, đa số trong hơn một năm, và
có năm người tử trận. Mười chín thành viên đã tham chiến tại Bắc Phi trước khi
quay trở về Hoa Kỳ, với bốn người bị giết và bốn người trở thành tù binh. Chín
thành viên đã phục vụ tại Mặt
trận Tây Âu, và một người đã tử trận. Tổng cộng có 12 người sống sót đã
chết khi chiến đấu trong vòng 15 tháng sau cuộc không kích. Hai người còn sống
được cho xuất ngũ khỏi lực lượng Không quân vào năm 1944 do
những vết thương trầm trọng của họ.
Liên đội Ném bom 17, đơn vị mà các thành viên Doolittle Raider
được tuyển chọn, được nhận các đội bay bổ sung thay thế và được chuyển
đến Căn cứ
Không quân Barksdale vào tháng 6 năm 1942, nơi
nó được chuyển sang một kiểu máy bay ném bom tầm trung khác là B-26 Marauder.
Martin B-26
Marauder (kẻ cướp) là một
kiểu máy bay ném bom tầm trung hai động cơ của Hoa Kỳ trong Thế
Chiến II do hãng Glenn
L. Martin Company chế
tạo.
Đến tháng 11 năm 1942 nó
được bố trí ra nước ngoài đến Bắc Phi, nơi
nó hoạt động tại Mặt
trận Địa Trung Hải trong thành phần của Không lực 12 cho
đến hết cuộc chiến tranh.
Chiến
dịch Chiết Giang-Giang Tây
Vì hầu hết những chiếc B-25 trong cuộc Không kích Doolittle đã
hạ cánh dọc theo bờ biển phía Đông Trung Quốc, và các phi công Mỹ đã nhận được
sự giúp đỡ quan trọng của người dân quê nơi khu vực này để trốn thoát, phản ứng
của quân Nhật chống lại người Trung Hoa đặc biệt gay gắt. Mọi sân bay trong
phạm vi khu vực 20.000 dặm vuông nơi các phi công hạ cánh đều bị đào xới, chiến tranh vi trùng được
đem ra sử dụng đối với thường dân và ước lượng có khoảng một phần tư triệu
người dân thường đã bị giết. Cuộc
thảm sát trả đũa của quân Nhật thường được biết đến như Chiến
dịch Chiết Giang-Giang Tây.
Ảnh
hưởng
So sánh với hậu quả khủng khiếp của các cuộc ném bom do những
chiếc B-29 Superfortress gây
ra sau này, cuộc không kích Doolittle chỉ gây ra ít thiệt hại vật chất, và tất
cả chúng đều được sửa chữa nhanh chóng.
B-29 của Không
lực Lục quân Hoa Kỳ
Tám mục tiêu chính và năm mục tiêu phụ đã bị đánh trúng. Tại
Tokyo, các mục tiêu bao gồm một kho dầu, một nhà máy thép và nhiều nhà máy phát
điện. Tại Yokosuka, ít nhất một quả bom từ chiếc B-25 do Trung úy Edgar E.
McElroy điều khiển đã đánh trúng chiếc tàu sân bay Nhật sắp hoàn thành Ryūhō, làm
trì hoãn việc hạ thủy nó cho đến tháng 11.
Tàu sân bay
hạng nhẹ Ryūhō được máy bay Hải quân Mỹ chụp ảnh tại căn cứ Kure vào tháng 9 năm 1945, cho thấy các hư hỏng của thang nâng.
Sáu trường học và một bệnh viện quân đội bị vô ý đánh trúng.
Người Nhật cho rằng hai chiếc máy bay mà đội bay bị bắt đã tấn công các mục
tiêu đó.
Cho dù những thiệt hại gây ra chỉ là tối thiểu, tinh thần của
người dân Mỹ bay vọt khi tin tức về cuộc không kích được công bố. Đang phải
chịu đựng nỗi đau sau cuộc tấn công Trân Châu Cảng cùng việc Nhật Bản xâm chiếm
các vùng lãnh thổ, cuộc không kích này có vai trò quan trọng đối với công chúng
Mỹ để họ biết rằng một đòn giáng trả quân sự đã được tiến hành thành công.
Cuộc không kích cũng mang đến một hậu quả chiến lược, cho dù
không được biết đến ngay vào lúc đó: Nó đã khiến Bộ chỉ huy Tối cao Nhật ra
lệnh triệu hồi một số đơn vị chiến đấu của Hải quân Nhật về bảo vệ chính
quốc Nhật Bản. Lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay chủ lực, với năm tàu sân bay
nhanh hạm đội cùng những máy bay hải quân tốt nhất và những đội bay giỏi nhất,
dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Chuichi
Nagumo, đã gây ra những tổn thất to lớn cho Hải quân Hoàng gia Anh và tàu buôn thương mại
trong cuộc không kích Ấn Độ Dương, tiến
xa về phía Tây đến tận Ceylon để không kích các tàu bè Anh Quốc cùng các sân bay của Không quân Hoàng gia Anh tại
đây.
Đô đốc Nagumo
Chūichi
Sau cuộc Không kích Doolittle, lực lượng của Nagumo nhận được lệnh
quay trở về Nhật Bản, giải tỏa mọi áp lực đang đè nặng Hải quân Hoàng gia tại
Ấn Độ Dương.
Hải quân Đế quốc Nhật Bản cũng
đã phải chịu một trách nhiệm đặc biệt vì đã để cho một lực lượng tàu sân bay Mỹ
tiếp cận các đảo chính quốc Nhật Bản theo một cách gần giống như Hạm đội Nhật
đã làm tại Hawaii vào tháng 12 năm 1941, và
cũng thoát được tương tự mà không bị thiệt hại. Một
thực tế là việc sử dụng những chiếc máy bay ném bom hai động cơ tương đối lớn
đặt căn cứ trên đất liền thực hiện việc không kích đã gây ra sự lẫn lộn nơi
giới chỉ huy cao cấp của Hải quân Nhật về nguồn gốc của cuộc không kích. Sự lẫn
lộn này cùng với kết luận rằng Nhật Bản tỏ ra mong manh đối với nguy cơ không
kích đã củng cố cho quyết tâm của Đô đốc Yamamoto muốn
chiếm lấy đảo Midway, mà việc tiến hành chúng đã đưa đến thất bại quyết định
của Hải quân Nhật trong trận
Midway.
"Kế hoạch hy vọng sẽ gây được tổn hại cả về mặt vật chất
lẫn khía cạnh tâm lý. Hư hại vật chất sẽ phá hủy được những mục tiêu cụ thể gây
ra sự xáo trộn và làm chậm trễ việc sản xuất. Các hậu quả tâm lý được hy vọng
sẽ triệu hồi các phương tiện chiến đấu tại các chiến trường khác về phòng thủ
quê nhà, và do đó làm giảm nhẹ áp lực trên các mặt trận đó, tạo một cảm giác lo
sợ phức tạp tại Nhật Bản, cải thiện mối quan hệ với các Đồng Minh, và một phản
ứng thuận lợi của người dân Mỹ." — Tướng James H. Doolittle, 9 tháng 7 năm
1942
Sau chiến tranh
Cựu chiến binh Lục quân thời Thế Chiến II
George A. McCalpin (phải) đang trao đổi với Trung tá Richard E. Cole (ngồi) về
người cháu họ của mình là một thành viên Raider, Trung sĩ William 'Billy Jack'
Dieter, trong buổi họp mặt lần thứ 66 tổ chức tại Trường Đại học Texas ở Dallas
vào tháng 4năm 2008.
Các thành viên của cuộc không kích Doolittle (gọi là những
Raider) tổ chức một cuộc họp mặt hội ngộ hằng năm bắt đầu vào cuối những
năm 1940. Cao trào của buổi hội ngộ là một nghi lễ trang trọng và riêng
tư, nơi những Raider còn sống được gọi tên, rồi cùng nhau nâng cốc tưởng nhớ
những đồng đội Raider đã qua đời những năm trước đó. Những chiếc ly bạc được
khắc đặc biệt, mỗi chiếc dành cho từng người trong số 80 Raider, được sử dụng
cho cuộc nâng ly này. Ly của những người đã qua đời được úp lại. Để mỗi thành
viên có thể được nhận biết là còn sống hay đã qua đời, tên của họ được khắc hai
lần trên ly bạc, ở mặt ngửa và mặt úp. Khi chỉ còn lại có hai Raider, họ sẽ
cùng nhau uống lần cuối cùng chai rượu cognac Hennessy sản
xuất năm 1896 vốn
đã đi kèm theo những chiếc ly bạc trong mỗi cuộc họp mặt Raider kể từ năm 1960. Đời
rượu này được chọn vì đó chính là năm sinh của Jimmy Doolittle. Chai cognac và
các ly bạc được giữ tại Học viện Không quân Hoa Kỳ để
được trưng bày tại Sảnh Arnold, trung tâm xã hội của học viên mới. Từ
ngày 19 tháng 4 năm 2006, địa
điểm lưu niệm được chuyển đến Bảo
tàng Quốc gia Không quân Hoa Kỳ.
Cho đến tháng 6 năm 2010, có
bảy thành viên Raider còn sống.[40] Chỉ
có tám người có thể tham dự cuộc họp mặt lần thứ 64 tại Dayton, Ohio,
vào tháng 4 năm 2006; bảy
người tham gia lần thứ 65 năm 2007 tại San
Antonio, Texas; sáu người tham gia lần thứ 66 năm 2008 tại Dallas, Texas; và
bốn người tham dự lần thứ 67 năm 2009 tại Columbia, Nam
Carolina. Các Raider tổ chức lần gặp gỡ thứ 68 của họ tại Bảo
tàng Quốc gia Không quân Hoa Kỳ tại Dayton, Ohio; chỉ
có Cole, Griffin, Hite và Thatcher là những người còn đủ khỏe để tham dự.[41]
Có thêm bảy người khác, như là Đại úy Miller và Đại tá Carroll
V. Glines, sử gia chuyên về các Raider, được xem là những thành viên danh dự do
những nỗ lực đáng trân trọng của họ cho nhiệm vụ này.[42]
Những
người còn sống
·
Đại tá Richard E. Cole, phi công phụ chiếc số #1
·
Thiếu tá Thomas C. Griffin, hoa tiêu chiếc số #9
·
Trung tá Robert L. Hite, phi công phụ chiếc số #16
·
Thiếu tá Edward Joseph Saylor, thợ máy chiếc số #15
·
Trung sĩ David J. Thatcher, xạ thủ chiếc số #7
Đến tháng 1 năm 2011, vẫn còn 5 Raider còn sống.[43] [44] Phi
công tham gia cuộc không kích còn sống cuối cùng là Bill Bower, mất ngày 10
tháng 1 năm 2011 ở
tuổi 93 tại Boulder, Colorado.[45]
Di sản
Hải quân Hoa Kỳ đã đặt tên cho một trong những tàu sân bay
thuộc lớp Essex của họ cái tên địa danh
tưởng tượng USS Shangri-La (CV-38), có
liên hệ rõ ràng đến cuộc Không kích Doolittle. Tổng thống Franklin D. Roosevelt khi trả lời câu hỏi của
một nhà báo đã nói rằng cuộc không kích xuất phát từ "Shangri-La",
tên đặt cho một xứ sở tưởng tượng vô cùng hạnh phúc có sự trường sinh bất tử
trong dãy núi Himalaya mà James
Hilton nói đến trong cuốn tiểu thuyết Lost Horizon.[46][47]
Trưng bày Không kích Doolittle
Gian trưng bày Không kích Doolittle tại Bảo tàng Quốc gia Không quân Hoa Kỳ. Tấm vải bạt che động cơ nhằm giấu đi điểm khác biệt về
ống xả của động cơ trên phiên bản 'D' vốn khác với phiên bản 'B' được sử dụng
trong cuộc không kích.
Gian trưng bày rộng rãi nhằm ghi nhớ cuộc Không kích Doolittle
ấn tượng nhất có thể thấy tại Bảo
tàng Quốc gia Không quân Hoa Kỳ tại Căn cứ
Không quân Wright-Patterson ở Dayton, Ohio. Tâm
điểm của cuộc trưng bày này là một chiếc B-25 hầu như mới, được sơn và vẽ ký
hiệu như là chiếc máy bay của Doolittle (cho dù đây chỉ là phiên bản trinh sát
hình ảnh F-10D của kiểu B-25D). Chiếc máy bay ném bom, được hãng North American Aviation trao
tặng cho các Raider vào năm 1958, được
trưng bày trên phông nền mô phỏng lại sàn đáp của tàu sân bay USS Hornet;
được làm như thật với những hình sáp mặc quần áo chung quanh chiếc máy bay, bao
gồm chính Doolittle, Đại tá Hải quân Marc Mitscher,
thuyền trưởng USS Hornet, cùng các nhân viên kỹ thuật Lục quân và
Hải quân đang nạp bom đạn cho chiếc máy bay. Tại đây còn trưng bày các ly bạc
mà các Raider sử dụng trong mỗi lần họp mặt hàng năm; các mảnh quần áo bay cùng
các vật dụng cá nhân, một chiếc dù mà một Raider đã dùng khi nhảy dù tại Trung
Quốc; cùng ảnh chụp nhóm của toàn thể 16 đội bay. Nhiều hiện vật lý thú khác
cũng có trong bộ sưu tập này.
Những chiếc ly bạc của các Raider
Một mảnh vỡ của một trong những chiếc máy bay bị rơi cùng những
huy chương trao tặng cho Doolittle được trưng bày tại Bảo
tàng Quốc gia Hàng không và Không gian Smithsonian tại Washington,
D.C.
Bảo
tàng Hàng không Thái Bình Dương vừa mới được mở
trên đảo Ford, Oahu, Hawaii có
một gian triển lãm năm 1942, mà trung tâm là một chiếc B-25 được phục chế, mang ký hiệu của
chiếc "The Ruptured Duck"
từng được sử dụng trong cuộc không kích Doolittle.[48]
Bảo tàng của Commemorative Air Force tại San
Marcos, Texas trưng bày tấm giáp bảo vệ ghế ngồi của phi công trên chiếc
B-25 mà Doolittle bay trong cuộc không kích.
Tái hiện cuộc Không kích Doolittle
Chiếc B-25 "Heavenly Body" được
phục chế thời Thế Chiến II đang cất cánh từ sàn đáp của tàu sân bay USS Ranger
Ngày 21
tháng 4 năm 1992, hòa
cùng với các lễ hội khác nhằm kỷ niệm 50 năm Chiến tranh Thế giới thứ hai, tàu
sân bay Ranger đã
tham gia tái hiện nhằm tưởng niệm cuộc Không kích Doolittle xuống Tokyo, Nhật
Bản.
Hai máy bay ném bom B-25 thời Thế Chiến II đã được cho chất lên
tàu cùng với hơn 1.500 vị khách, cùng các phương tiện truyền thông đất nước và
thế giới, để chứng kiến hai chiếc máy bay cũ lăn bánh và cất cánh khỏi sàn đáp
của chiếc Ranger.
Văn
hóa đại chúng
Cuộc không kích Doolittle là đề tài chính của bộ phim Thirty
Seconds over Tokyo thực hiện năm 1944. Nó
được dựa trên quyển sách cùng tên của Đại úy phi công Ted W. Lawson, một
Raider trong nhóm Doolittle, đã bị mất một chân cùng nhiều thương tích nghiêm
trọng khác sau khi máy bay của ông rơi dọc theo bờ biển Trung Quốc. Spencer
Tracy đã đóng vai Doolittle và Van Johnson thể
hiện Lawson. Cuốn phim được xem đã mô tả lại cuộc không kích khá chính xác và
không thêm thắt, được các Raider nói chung chấp nhận. Các cảnh quay trong phim
sau này được sử dụng lại trong những đoạn mở đầu của phim Midway và
trong loạt phim truyền hình War and Remembrance.
Cuộc không kích cũng đã gây niềm cảm hứng cho hai cuốn phim
khác. Bombardier của
hãng RKO năm 1943 có
sự tham gia của Randolph
Scott và Pat O'Brien. Cao
trào của cuốn phim là một cuộc tấn công xuống Nhật Bản do một nhóm máy bay ném
bom B-17 Flying Fortress thực
hiện. The Purple Heart thực
hiện 1944 do Dana Andrews đóng
là một câu chuyện hư cấu về một tòa án quân sự Nhật Bản xét xử các phi công Mỹ
bị bắt giữ sau cuộc Không kích Doolittle.
Bộ phim Pearl Harbor năm 2001,
với Alec Baldwin đóng vai Doolittle, trình bày một
cuộc ném bom bị hư cấu nặng nề. Nội dung cuốn phim trình bày không chính xác
việc lập kế hoạch, bản thân cuộc không kích và diễn biến tiếp theo, cho là đã
gây hậu quả tàn phá nghiêm trọng cho cả một khu công nghiệp. Thêm nữa, nó còn
bao gồm một trận đánh hoàn toàn hư cấu xảy ra giữa binh lính Nhật tại Trung
Quốc và các phi công Mỹ, đưa đến cái chết của nhiều người của cả hai bên, và
việc giải cứu của binh lính Trung Quốc.
Một cuốn phim hư cấu khác có liên quan đến cuộc không kích cũng
từng được thực hiện vào năm 1943, Destination Tokyo có
sự tham gia của Cary Grant, nói về một chiếc tàu ngầm hư cấu USS Copperfin.
Nhiệm vụ của chiếc tàu ngầm là xâm nhập vào vịnh
Tokyo và cho đổ bộ một nhóm lên bờ thu thập thông tin thời tiết
cần thiết cho cuộc không kích Doolittle. Cuốn phim cho rằng cuộc không kích sẽ
không được tung ra cho đến khi nhận được những thông tin được cập nhật sau
cùng, tuy nhiên mọi báo cáo sau đó cho biết nó đã thực hiện mà không có thời
gian để thông tin thời tiết do việc đụng độ với con tàu tuần tra đối phương.
Nhiều quyển sách đã viết về đề tài cuộc Không kích Doolittle sau
chiến tranh. Quyển Doolittle's Tokyo Raiders của C.V. Glines
kể lại toàn bộ chi tiết về cuộc không kích, bao gồm kinh nghiệm riêng của mỗi
đội bay B-25. Guests of the Kremlin là quyển sách mà Phi công
phụ Bob Emmens mô tả lại cuộc phiêu lưu của đội bay mình như những con tin tại
Nga sau khi hạ cánh trên đất nước này sau cuộc không kích. Quyển Four
Came Home cũng của C.V. Glines kể lại câu chuyện của Nielsen, Hite,
Barr, và DeShazer, những Raider bị giam giữ tại trại tù binh
chiến tranh trong hơn ba năm. The First Heroes của
tác giả Craig Nelson đi vào chi tiết những sự kiện dẫn đến cuộc không kích và
diễn tiến tiếp theo của mọi phi công và gia đình của họ.
Một cuốn băng VHS có liên quan, với những đoạn quay đương thời
về Doolittle và những sự chuẩn bị cho chuyến bay cùng việc phóng lên những
chiếc B-25, đã xuất hiện trong DeShazer, câu chuyện về nhà truyền
giáo-Trung sĩ Jake DeShazer của
chiếc B-25 thứ 16, chiếc cuối cùng được phóng lên từ Hornet. Cuốn
băng được quay dựa trên quyển sách The Amazing Story of Sergeant Jacob
De Shazer: The Doolittle Raider Who Turned Missionary của tác giả C.
Hoyt Watson. Vào đoạn cuối của cả cuốn băng lẫn trong quyển sách, sau chiến
tranh DeShazer đã gặp gỡ Mitsuo
Fuchida, vị chỉ huy và là phi công dẫn đầu của cuộc tấn công Trân Châu Cảng.
Fuchida Mitsuo
Nhóm nhạc rock Pere Ubu đã
thu âm bài hát "Thirty Seconds Over Tokyo" vào tháng 9 năm 1975. Nó
được phát hành lần đầu tiên dưới dạng dĩa đơn của Hearpen Records, chung với
bài "Heart of Darkness"; và sau đó được tiếp tục phát hành dưới những
album khác. David Thomas, trưởng nhóm Pere Ubu, công nhận là bài
hát chịu ảnh hưởng từ cuộc không kích của Jimmy Doolittle.
No comments:
Post a Comment