Cách nay 13 năm, Airbus bắt đầu chuyến bay A380; phi cơ chở
khách lớn nhất thế giới
Ngày 27
tháng 04, 2005
·
2005 – Máy bay phản lực lớn nhất thế giới Airbus
A380 hoàn thành chuyến bay đầu tiên với khả năng chuyên chở
hành khách là 840 người.
Airbus A380
Kiểu Máy bay hành khách
Chuyến bay đầu tiên 27 tháng 4 năm 2005
Được giới thiệu 25 tháng 10 năm 2007
Tình trạng Đang hoạt động
Được chế tạo 2005–nay
Số lượng sản xuất 198 tính đến ngày 31
tháng 10 năm 2016
Airbus A380 là chiếc máy bay phản lực thân rộng hai tầng, bốn động cơ của Airbus. A380 là chiếc máy bay hành khách lớn nhất thế giới,
và người ta đã phải nâng cấp những sân bay mà nó hoạt động để phù hợp với nó.
Chiếc máy bay ban đầu được đặt tên là Airbus A3XX và được
thiết kế để cạnh tranh trực tiếp với Boeing trong
thị trường máy bay siêu lớn. Chiếc A380 bay chuyến bay đầu tiên vào ngày 27 tháng 4 năm 2005, và đi
vào khai khác thương mại từ tháng 10 năm 2007 với Singapore Airlines.
Singapore Airlines (Viết tắt: SIA; tiếng Mã Lai: Syarikat Penerbangan Singapura, chữ Hán: 新加坡航空公司; bính âm: Xīnjīapō
Hángkōng Gōngsī, Tân
Gia Ba hàng không công ty; viết tắt 新航 - Tân Hàng) SGX: S55 là hãng
hàng không quốc gia của Singapore
Chiếc Airbus A380 có tầng trên kéo dài toàn
bộ chiều dài của thân
máy bay, đồng thời nó có chiều ngang tương đương
với chiều ngang một chiếc máy bay thân rộng. Nhờ vậy, chiếc A380-800 có khoang
cabin rộng rãi với diện tích sử dụng 550 m², nhiều hơn 40% so với chiếc máy bay
lớn thứ hai là chiếc Boeing 747-8, và có thể đạt sức chứa 525 người trong cấu hình
tiêu chuẩn với ba hạng hành khách, hoặc 853 người trong cấu hình toàn bộ hành
khách phổ thông (tiếng Anh: economy
class). Chiếc A380-800 có tầm bay xa cực đại 15.700 km, đủ để bay không
nghỉ từ Dallas đến Sydney, và tốc
độ bay ổn định vào khoảng Mach 0.85
(khoảng 900 km/h, 560 mph hay 490 kn tại độ cao bay ổn định).
Tính đến tháng 11 năm 2016, Airbus đã nhận
được 319 đơn đặt hàng và đã giao 200 máy bay; trong đó Emirates là hãng hàng không có nhiều chiếc A380 trong đội
bay nhất, với 142 đơn đặt hàng và 100 chiếc đã giao.
Emirates (tiếng Ả Rập: طَيَران الإمارات DMG: Ṭayarān Al-Imārāt) là một trong
hai hãng
hàng không quốc gia của Các
Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất cùng với Etihad Airways, và có trụ sở tại Dubai.
Phát triển
Bối cảnh
Mùa hè năm 1988, một nhóm kỹ sư của hãng Airbus đứng đầu là Jean
Roeder đã bí mật phát triển một loại máy bay chở khách sức chứa lớn, với hai
mục tiêu là để hoàn thiện các phân khúc máy bay của Airbus cũng như để đánh đổ
sự thống trị của Boeing trong thị trường này từ thập niên 1970 với những
chiếc 747.
Cũng trong thời điểm này, McDonnell
Douglas không thành công trong việc thương mại hóa mẫu máy bay hai
tầng MD-12.
McDonnell
Douglas là một nhân vật
chủ yếu trong chương trình không gian vũ trụ của Hoa Kỳ, sản phẩm thương mại
nổi tiếng là máy bay quân sự. McDonnell Douglas hợp nhất với Boeing năm 1997 thành tập đoàn Boeing.
Roeder được cho phép tiếp tục nghiên cứu mẫu máy bay sau bài
thuyết trình chính thức tới Chủ tịch và Giám đốc điều hành của hãng vào tháng 6
năm 1990. Dự án được công bố tại Farnborough Air Show năm
1990, với mục tiêu được nêu là sẽ giảm bớt 15% chi phí vận hành so với Boeing
747-400.
Airbus đã tổ chức bốn nhóm thiết kế, từ bốn đối tác của nó
là Aérospatiale, British Aerospace, Deutsche Aerospace AG và CASA, cùng
nghiên cứu và đề xuất những công nghệ tiên tiến nhất để áp dụng cho mẫu máy bay
mới trong tương lai. Các mẫu thiết kế được trình bày trong năm 1992 và những
thiết kế xuất sắc nhất đã được áp dụng.
Aérospatiale là một hãng chế tạo các sản phẩm hàng
không không gian của Pháp, chủ yếu chế tạo máy bay quân sự, dân sự và tên lửa.
DASA (officially Deutsche
Aerospace AG, later Daimler-Benz Aerospace AG, then DaimlerChrysler
Aerospace AG), was the former aerospace subsidiary of Daimler-Benz AG (later DaimlerChrysler) from 1989.
In July 2000, DASA merged with Aérospatiale-Matra and CASA to form EADS.
EADS CASA was a Spanish aircraft
manufacturer, previously Construcciones
Aeronáuticas SA (CASA).
It became the Spanish branch of EADS in 1999, and was absorbed by Airbus Military in 2009
Tháng 1 năm 1993, Boeing và một số công ty trong tập đoàn Airbus
bắt đầu nghiên cứu và phát triển chung một mẫu siêu máy bay chở khách cỡ lớn
nhằm mục tiêu hình thành một quan hệ đối tác để chia sẻ thị trường hạn chế. Nghiên
cứu bị hủy bỏ hai năm sau đó khi mối quan tâm của Boeing giảm sút bởi các
chuyên gia nhận định rằng một sản phẩm lớn như vậy sẽ vượt quá mức chi phí phát
triển dự tính là 15 tỉ đô la.
Mặc dù chỉ có hai hãng hàng không tỏ ra hứng thú với việc mua
chiếc máy bay được giới thiệu, Airbus vẫn theo đuổi dự án máy bay siêu lớn của
mình.
Các nhà phân tích suy đoán rằng Boeing, thay vào đó, sẽ tiếp tục
kéo dài thiết kế chiếc 747 của mình, và rằng việc di chuyển bằng đường hàng
không đã thay đổi từ mô hình hub-and-spoke vốn
tập trung lượng hành khách vào những chiếc máy bay lớn sang những chuyến bay
thẳng thực hiện bởi những chiếc máy bay nhỏ hơn.
Chiếc máy bay A380 hoàn chỉnh đầu tiên tại sự
kiện "A380 Reveal" ở Toulouse, Pháp, ngày 18 tháng 1 năm 2005
Vào tháng 6 năm 1994, Airbus công bố kế hoạch phát triển một mẫu
máy bay chở khách cỡ lớn, gọi tên là A3XX. Airbus
đã nghiên cứu một số mẫu thiết kế, bao gồm cả một mẫu khá khác thường trong đó
kết hợp phần thân của hai chiếc A340, mẫu
máy bay phản lực lớn nhất của Airbus tại thời điểm đó.
Chiếc A3XX được đặt mục tiêu sẽ đối đầu với mẫu máy bay kế nhiệm
chiếc 747 của Boeing. Từ
năm 1997 đến 2000, trong lúc cuộc khủng hoảng tài chính châu
Á phủ bóng đêm lên thị trường toàn cầu, Airbus đã tinh chỉnh
lại thiết kế của mình với mục tiêu giảm từ 15–20% chi phí vận hành so với chiếc
Boeing 747-400. Thiết kế A3XX bao gồm hai tầng, cho phép chuyên chở được nhiều
hành khách hơn so với thiết kế một tầng truyền thống, tiếp
tục giữ lại mô hình vận chuyển hub-and-spoke thay vì mô hình từ-điểm-đến-điểm
của Boeing với chiếc Boeing
777, sau
khi tiến hành một cuộc nghiên cứu sâu rộng với hơn 200 cuộc khảo sát nhóm.
Mặc dù trong một số chiến dịch tiếp thị ban đầu, các hình vẽ mặt
cắt chiếc máy bay hé lộ khả năng nó sẽ được trang bị cửa hàng miễn thuế, nhà
hàng, phòng tập thể hình, sòng bạc và các thẩm mỹ viện nhưng với thực tế và
tính kinh tế trong hàng không, những tiện nghi đó không xuất hiện trên chiếc máy
bay hoàn chỉnh.
Ngày 19 tháng 12 năm 2000, ban giám sát của Airbus nhất trí khởi
động chương trình trị giá 8,8 tỷ Euro để lắp ráp chiếc máy bay A3XX, đã đổi tên
thành A380, với
50 đơn đặt hàng từ 6 hãng hàng không khai trương. Cái
tên A380 phá vỡ quy tắc đặt tên tăng dần đều của các dòng máy bay Airbus trước
đây, từ A300 đến A340. Con số 8 được chọn bởi vì nó tượng trưng cho thiết kế
hai tầng, và ở một số nước châu Á mà nó được tiếp thị, số 8 là con số may mắn. Thiết
kế chiếc máy bay được hoàn tất vào đầu năm 2001, và quá trình sản xuất phần
cánh chiếc A380 đầu tiên bắt đầu vào ngày 23 tháng 1 năm 2002. Chi phí phát triển
chiếc A380 đã tăng từ 11 tỷ lên 14 tỷ khi
chiếc máy bay đầu tiên hoàn thành.
Các giai
đoạn thiết kế
Ngày 19/12/2000, Ban giám sát mới được tái cơ cấu của Airbus đã
thống nhất chương trình xây dựng A3XX trị giá 8,8 tỷ euro, đổi tên mẫu máy bay
mới là A380, với
50 đơn đặt hàng từ sáu công ty khách hàng.[30][31] Thiết
kế của A380 là sự thay đổi lớn so với các thành viên còn lại của Airbus, là kết
quả của việc phát triển từ mẫu A300 đến A340. Nó đã được lựa chọn bởi vì số 8
giống với mục chéo hai sàn tàu, và là con số may mắn theo quan niệm của một số
nước Châu Á, thị trường mục tiêu của A380 . Các
tính năng của A380 đã được hoàn thiện vào đầu năm 2001, bộ phận cánh của máy
bay được bắt đầu đưa vào sản xuất vào ngày 23/1/2002. Chi phí phát triển của
A380 là đã tăng lên đến 11 tỷ euro tính cho đến khi chiếc máy bay đầu tiên được
xuất xưởng .
Thử
nghiệm
Chiếc A380 đầu tiên, số MSN001 và đăng ký F-WWOW, đã được công
bố tại một buổi lễ ở Toulouse ngày
18 tháng 1 năm 2005.[32][33] Chuyến
bay đầu tiên của nó diễn ra lúc 08:29 UTC (10:29 giờ địa phương) ngày 27 Tháng
Tư năm 2005.[34]Chiếc
máy bay này được trang bị động cơ Trent 900, cất cánh từ Sân bay quốc tế
Toulouse Blagnac với một phi hành đoàn gồm sáu phi công thử nghiệm chính do
Jacques Rosay điều khiển. Và hạ cánh thành công sau ba giờ và 54 phút sau thử
nghiệm..[35]
Ngày 01 tháng 12 năm 2005 của A380 đạt được tốc độ thiết kế tối
đa Mach 0,96 (so với tốc độ bay bình thường là Mach 0,85).[34]
Ngày 10 tháng 1 năm 2006 của A380 đã vượt Đại Tây Dương đầu tiên
chuyến bay đến Medellín ở Colombia, để kiểm tra hiệu suất động cơ tại một sân
bay độ cao lớn.
Nó đã bay đến Bắc Mỹ vào ngày 06 tháng hai, hạ cánh tại Iqaluit, Nunavut ở Canada để
thử nghiệm trong thời tiết lạnh.[35]
Airbus đã công bố thay đổi thêm 30 kg cho cánh để cung cấp
sức mạnh cần thiết sau lượt kiểm tra không thành công hồi đàu năm 2006.[36]
Ngày 26 tháng 3 năm 2006 A380 đã trải qua chứng nhận sơ tán ở
Hamburg. Với 8 trong số 16 thoát khỏi bị chặn, 853 hành khách và phi hành đoàn
20 rời máy bay trong 78 giây, ít hơn 90 giây yêu cầu của tiêu chuẩn chứng nhận.[37]
Ba ngày sau, A380 đã nhận được phép từ Cơ quan An toàn Hàng
không châu Âu (EASA) và Cục Hàng không liên bang Hoa Kỳ(FAA) phê duyệt để thực
hiện lên đến 853 hành khách.[38]
Các chuyến bay đầu tiên của A380 đầu tiên sử dụng GP7200, số
serial động cơ MSN009 và đăng ký F-WWEA -diễn ra vào ngày 25 Tháng 8, 2006.[39][40]
Vào ngày 04 tháng 9 năm 2006, lần đầu tiên mang đầy đủ hành
khách chuyến bay thử nghiệm đã diễn ra.[41] Chiếc
máy bay đã bay từ Toulouse với 474 nhân viên Airbus trên tàu, trong các đầu
tiên của một loạt các chuyến bay để kiểm tra các cơ sở hành khách và thoải mái.[41] Trong
tháng 11 năm 2006 một loạt hơn nữa của các tuyến đường bay minh đã diễn ra để
chứng minh máy bay thực hiện của các đối 150 chuyến bay giờ theo điều kiện hoạt
động hàng không điển hình.[42]
Sản xuất
Phần lớn cấu trúc của A380 được chế tạo tại Pháp, Đức, Tây Ban
Nha, và Vương quốc Anh. Do kích thước rất lớn nên các
bộ phận của A380 được vận chuyển đến lắp ráp tại xưởng của Airbus tại Toulouse,
Pháp bằng tàu thủy, mặc dù một số phần được chuyển bằng A300-600ST Beluga, máy
bay được sử dụng trong việc xây dựng các mẫu Airbus khác.[43]
Các bộ phận của A380 được cung cấp bởi các nhà cung cấp từ khắp
nơi trên thế giới; năm nhà cung cấp lơn nhất tính theo giá trị là Rolls-Royce,
SAFRAN, United Technologies, General Electric, và Goodrich .
Các phần phía trước và phía sau của thân máy bay được chuyển lên
tàu vận tải của Airbus bằng trục lăn, cảng Ville de Bordeaux, tại Hamburg ở
miền bắc nước Đức, từ đó họ được chuyển đến Vương quốc Anh [44][45]. Cánh
của máy bay được sản xuất tại Filton ở Bristol và Broughton, miền bắc xứ Wales;
được vận chuyển bằng sà lan đến cảng Mostyn và sau đó được chuyển lên các tàu
chở hàng. Tại Saint-Nazaire ở phía Tây nước Pháp, các tàu chở những phần thân
của máy bay từ Hamburg đẻ lắp ráp lại với nhau. Trong đó bao gồm cả một số bộ
phận ở mũi máy bay. Sau đó các bộ phận này được chuyển đến và dỡ xuống cảng
Bordeaux. Các tàu này tiếp tục bốc các phần bụng và đuôi của máy bay tại nhà
máy Construcciones Aeronáuticas SA tại Cádiz phía Nam của Tây Ban Nha và sau đó
lại chuyển về cảng Bordeaux.[46]
Airbus sized the production facilities and supply chain for
a production rate of four A380s per month.[47]
Từ đó, các bộ phận A380 được vận chuyển bằng sà lan đến Langon
và được vận chuyển đến điểm láp ráp cuối cùng tại Toulouse. Các tuyến đường và
kênh đào để vận chuyển các bộ phận của A380 đều đã được mở rộng và sửa chữa.
Sau khi hoàn thành công đoạn lắp ráp, nó sẽ bay đến sân bay Hamburg
Finkenwerder (XFW) để được hoàn thiện và sơn. Mất khoảng 3600 lít sơn để che
phủ 3.100 m2 bên ngoài của A380. Năng lực sản xuất A380 là vào khoảng 04 chiếc
mỗi tháng.[44][48][49]
Các đặc điểm
So sánh kích thước 4 máy bay lớn nhất
Các đặc điểm tổng quát
·
Phi hành đoàn: 2
·
Khả năng chuyên chở: 555 trong 3 cấp hay 853 hành khách 1 cấp, với
66,4 tấn (146.400 lb) hàng hoá trong 38 LD3 hay
13 pallet
·
152,4 tấn (336.000 lb) hàng hoá (158 t option)
·
4×340 kN (76.500 lbf)
Kích thước
·
Dài: 73 m (239 ft 6 in)
·
Sải cánh: 79,8 m (261 ft 10 in)
·
Cao: 24,1 m (79 ft 1 in)
·
Diện tích cánh: 845 m² (9.100 ft²)
Trọng lượng và dung tích nhiên liệu
·
Trọng lượng lúc trống: 276.800 kg (610.200 lb)
·
252.200 kg (556.000 lb)
·
Trọng lượng tối đa lúc cất cánh: 560.000 kg
(1.235.000 lb)
·
590.000 kg (1.300.000 lb)
·
Nhiên liệu chứa tối đa: 310.000 litres (81.890 US gal)
·
310.000 l (352.000 l option)
Vận hành
·
Tốc độ bay tối đa: 0,89 Mach
·
Tầm xa: 16.000 km (8.000 nmi)
·
10.400 km (5.600 nmi)
·
Độ cao phục vụ: 13.100 m (43.000 ft)
Đặt hàng
Có 17 hãng hàng không đã đặt hàng A380 tính đến 6 tháng 4 năm 2006 bao
gồm cả đơn đặt hàng từ bộ phận cho thuê máy bay của AIG, ILFC. Hiện
nay, tổng số đơn đặt A380 đứng ở 163, bao gồm cả 27 chiếc loại vận tải. Điểm hòa vốn được ước tính từ 250 đến 300
chiếc. CEO của Airbus, Noël Forgeard, nói
ông ta dự đoán sẽ bán được 750 chiếc. Vào năm 2006, giá một chiếc A380 là 295
triệu US$[52][53].
Kiểu Động cơ
Air France 2008 10 4
X
China Southern Airlines 2011 5 X
Emirates 2008 100 X
Etihad Airways 2012 4 X
FedEx 2010 10 10 X
ILFC 2004 5 5 X
Kingfisher Airlines 2012 5
Korean Air 2009 5 3 X
Lufthansa 2008 15 10 X
Malaysia Airlines 2010 6 X
Qantas 2009 12 10 X
Qatar Airways 2009 2 2
Singapore Airlines 2007 10 15
X
Thai Airways International 2012
đến 2015 6 X
CLA Năm
2012 đến 2015 21981989
UPS 2011 10 10
Virgin Atlantic 2012 6 6
X
Tổng 138 25 74 72 63
No comments:
Post a Comment