Monday, April 16, 2018

Cách nay 71 , danh từ “Chiến tranh lạnh” được dùng lần đầu tiên

Ngày 16 tháng 04, 1947

·        1947 – Cố vấn chính trị người Mỹ Bernard Baruch trở thành người đầu tiên sử dụng cụm từ "Chiến tranh lạnh" để miêu tả quan hệ Mỹ.


Chiến tranh Lạnh

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đây là một bài viết cơ bản. Nhấn vào đây để biết thêm thông tin.
Mục từ "Chiến tranh lạnh" dẫn đến bài này. Xin đọc về thuật ngữ tại bài Chiến tranh lạnh (thuật ngữ).

Máy bay trinh sát P-3A của Mỹ bay trên chiến hạm Varyag của Liên Xô năm 1987.


Một phần của một loạt bài về Chiến tranh Lạnh

Chiến tranh Lạnh (1946–1989) là tình trạng tiếp nối xung đột chính trị, căng thẳng quân sự, và cạnh tranh kinh tế tồn tại sau Thế chiến II (1939–1945), chủ yếu giữa Liên bang Xô viết và các quốc gia đồng minh của họ, với các cường quốc thuộc thế giới phương Tây, gồm cả Hoa Kỳ.

Liên Xô, tên đầy đủ là Liên bang các nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết (tiếng Nga: Союз Советских Социалистических Республик, chuyển tự. Soyuz Sovietskikh Sotsialisticheskikh Respublik Phát âm tiếng Nga: [sɐˈjus sɐˈvʲetskʲɪx sətsɨəlʲɪˈstʲitɕɪskʲɪx rʲɪsˈpublʲɪk], viết tắt: СССР; tiếng Anh: Union of Soviet Socialist Republics, viết tắt: USSR)
Dù các lực lượng tham gia chủ yếu không bao giờ chính thức xung đột, họ đã thể hiện sự xung đột thông qua các liên minh quân sự, những cuộc triển khai lực lượng quy ước chiến lược, một cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân, tình báo, chiến tranh ủy nhiệm, tuyên truyền, và cạnh tranh kỹ thuật, như cuộc chạy đua không gian.
Dù là các đồng minh chống lại Phe TrụcLiên XôHoa KỳAnh Quốc và Pháp đã không đồng thuận trong và sau Thế chiến II, đặc biệt về việc thiết lập thế giới thời hậu chiến. Khi cuộc chiến kết thúc, họ chiếm hầu hết châu Âu, với việc Hoa Kỳ và Liên Xô là các lực lượng quân sự mạnh nhất.
Liên Xô lập ra Khối Đông Âu với các quốc gia Đông Âu mà họ giải phóng, sáp nhập một số trở thành Các nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết và duy trì các quốc gia khác như nước đồng minh của mình, một số nước trong số đó sau này được củng cố vào Khối hiệp ước Warsaw (1955–1991).

Phân chia trước năm 1989 giữa "Tây" (màu xám) và "Khối Đông" (màu cam) chồng lên biên giới hiện thời: Nga (màu cam xẫm), các quốc gia khác xưa kia thuộc Liên Xô (màu cam trung bình), các thành viên của Khối Warszawa (màu cam lợt), và những chính thể cựu cộng sản khác không liên kết với Moskva (màu cam lợt nhất).
Hoa Kỳ và một số quốc gia Tây Âu thì lập ra chính sách ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản như là chính sách phòng vệ của họ, và lập ra các liên minh (ví dụ NATO, 1949) cho mục đích đó.
Nhiều quốc gia trong số đó cũng tham gia vào kế hoạch tái thiết châu Âu, đặc biệt là Tây Đức, vốn bị Liên Xô phản đối. Ở những nơi khác, tại Mỹ Latinh và Đông Nam Á, Liên Xô ủng hộ các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, nhưng bị nhiều nước phương tây ủng hộ chủ nghĩa thực dân phản đối; một số nước tìm cách hạ thấp dập tắt các phong trào đòi độc lập này, với những kết quả khác nhau. Một số nước liên kết với NATO và Khối hiệp ước Warsaw, tuy thế các khối của những quốc gia không liên kết cũng xuất hiện.
Cuộc chiến tranh Lạnh có đặc điểm ở những giai đoạn khá yên tĩnh và những giai đoạn căng thẳng lên cao trong quan hệ quốc tế – cuộc Phong toả Berlin (1948–1949), Chiến tranh Triều Tiên (1950–1953), Khủng hoảng Berlin 1961, các cuộc Xung đột Ả Rập-Israel (1948-1982), các cuộc Chiến tranh Đông Dương (1945–1975), Khủng hoảng tên lửa Cuba (1962), Chiến tranh Xô viết tại Afghanistan (1979–1989), và những cuộc tập trận Able Archer 83 của NATO vào tháng 11 năm 1983. Cả hai phía đã tìm cách làm giảm các căng thẳng chính trị và tránh một cuộc tấn công quân sự trực tiếp, vốn dường như sẽ dẫn tới một sự tiêu diệt có đảm bảo từ hai phía với các loại vũ khí hạt nhân.
Trong thập niên 1980, Hoa Kỳ tăng cường sức ép ngoại giao, quân sự và kinh tế chống lại Liên Xô, vốn đang ở tình trạng trì trệ kinh tế. Sau đó, Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev đưa ra những cuộc cải cách perestroika ("tái cơ cấu" 1987) và glasnost ("mở cửa", khoảng năm 1985). Liên bang Xô viết sụp đổ năm 1991, khiến Hoa Kỳ còn lại là cường quốc quân sự có vị thế thống trị. Nhà nước kế thừa Liên Xô là Liên bang Nga vẫn có sức mạnh khoa học kỹ thuật và quân sự đáng gờm, nhưng không đủ mạnh về kinh tế như Liên Xô trước đây. Tuy nhiên, tới đầu thế kỷ XXI, một cường quốc khác là Trung Quốc ngày càng trở nên mạnh mẽ về kinh tế, khoa học, quân sự và được dự báo sẽ sớm trở thành một đối thủ mới cạnh tranh toàn diện với Mỹ. [cần dẫn nguồn]

Nguồn gốc thuật ngữ

Việc sử dụng lần đầu tiên thuật ngữ Chiến tranh Lạnh  miêu tả những căng thẳng địa chính trị thời hậu Thế chiến II giữa Liên bang Xô viết và các Đồng minh Tây Âu của họ được gán cho Bernard Baruch, một nhà tài chính và là cố vấn tổng thống Hoa Kỳ. 

Bernard Mannes Baruch (/bəˈruːx/; August 19, 1870 – June 20, 1965) was an American financier, stock investor, philanthropist, statesman, and political consultant.
Tại Nam Carolina, ngày 16 tháng 4 năm 1947, ông đã có bài phát biểu (theo nhà báo Herbert Bayard Swope) nói rằng, "Hãy để chúng ta không bị lừa gạt: chúng ta hiện ở giữa một cuộc chiến tranh lạnh." Nhà báo Walter Lippmann đã làm cho thuật ngữ được biết đến rộng rãi, với cuốn sách Cold War (1947).
Trước đó, trong cuộc chiến, George Orwell đã sử dụng thuật ngữ Chiến tranh Lạnh trong tiểu luận "You and the Atomic Bomb" (Bạn và quả bom nguyên tử) được xuất bản ngày 19 tháng 10 năm 1945, trên tờ Tribune của Anh. Suy ngẫm về một thế giới sống dưới bóng của một mối đe doạ chiến tranh hạt nhân, ông đã cảnh báo về một "nền hoà bình không có hoà bình", mà ông gọi là một cuộc "chiến tranh lạnh" thường trực, Orwell đã trực tiếp đề cập tới cuộc chiến tranh đó như là một sự đối đầu ý thức hệ giữa Liên bang Xô viết và các cường quốc phương Tây. Hơn nữa, trong tờ The Observer xuất bản ngày 10 tháng 3 năm 1946, Orwell đã viết rằng "... sau hội nghị Moskva vào tháng 12 vừa rồi, Nga đã bắt đầu thực hiện một cuộc ‘chiến tranh lạnh’ với Anh và Đế chế Anh."

Bối cảnh

Xem thêm thông tin: Lo sợ Đỏ

Quân đội Mỹ tại Vladivostok, tháng 8 năm 1918, khi Đồng Minh can thiệp vào cuộc Nội chiến Nga
Đã có một sự bất đồng trong giới sử học về điểm khởi đầu của Chiến tranh Lạnh. Trong khi hầu hết các nhà sử học coi nó bắt nguồn từ giai đoạn ngay sau Thế chiến II, những người khác cho rằng nó bắt đầu vào gần cuối Thế chiến I, dù những căng thẳng giữa Đế chế Nga, và các quốc gia châu Âu khác cùng Hoa Kỳ có từ giữa thế kỷ XIX.
Như một kết quả của cuộc Cách mạng Bolshevik năm 1917 tại Nga (tiếp đó là sự rút lui của nước này khỏi Thế chiến I), nước Nga bị cô lập khỏi quan hệ ngoại giao quốc tế. Lãnh tụ Vladimir Lenin đã nói rằng Liên bang Xô viết bị bao vây bởi một "vòng vây tư bản thù địch", và ông coi ngoại giao là một vũ khí để khiến các kẻ thù của Liên Xô bị chia rẽ, bắt đầu với việc thành lập Quốc tế Cộng sản Xô viết, kêu gọi những cuộc nổi dậy cách mạng ở nước ngoài.
Lãnh tụ sau đó Joseph Stalin, người coi Liên bang Xô viết là một "hòn đảo xã hội chủ nghĩa", đã nói rằng Liên Xô phải thấy rằng "vòng vây chủ nghĩa tư bản hiện tại sẽ bị thay thế bởi một vòng vây xã hội chủ nghĩa." Ngay từ năm 1925, Stalin đã nói rằng ông coi chính trị quốc tế là một thế giới lưỡng cực trong đó Liên bang Xô viết sẽ thu hút các quốc gia đang hướng theo chủ nghĩa xã hội và các quốc gia tư bản sẽ thu hút các quốc gia đang hướng theo chủ nghĩa tư bản, trong khi thế giới đang ở trong một giai đoạn "bình ổn tạm thời của chủ nghĩa tư bản" trước sự sụp đổ cuối cùng của nó.
Nhiều sự kiện đã làm gia tăng sự nghi ngờ và không tin tưởng lẫn nhau giữa các cường quốc phương tây và Liên Xô: sự phản đối của những người Bolsheviks với chủ nghĩa tư bản; việc Liên Xô ủng hộ cuộc tổng đình công của công nhân Anh năm 1926 dẫn tới việc ngừng quan hệ giữa hai nước; Tuyên bố năm 1927 của Stalin rằng sự cùng tồn tại hoà bình với "các quốc gia tư bản... đang trôi dần vào quá khứ"; những cáo buộc bí ẩn trong phiên xử án mẫu Shakhty về một cuộc đảo chính đã được lập kế hoạch do Pháp và Anh chỉ đạo; cuộc thanh lọc chính trị và truy tố tại Liên Xô những vụ xử án điểm Moskva gồm cả những cáo buộc gián điệp của Pháp, Anh, Nhật và Đức; cái chết của 1 triệu người tại Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina trong nạn đói tại Ukraina tháng 3 năm 1932; cuộc Đại khủng hoảng tại các nước tư bản vào giai đoạn 1929-1933; phương Tây ủng hộ Bạch vệ trong cuộc Nội chiến Nga; Hoa Kỳ từ chối công nhận Liên Xô cho tới tận năm 1933; và việc Liên Xô tham gia Hiệp ước Rapallo.[20] Những việc này làm trở ngại các quan hệ Xô-Mỹ và là một vấn đề gây lo ngại dài lâu với các lãnh đạo ở cả hai nước.[21]

Thế chiến II và thời kỳ hậu chiến (1939–47)

Hiệp ước Molotov-Ribbentrop (1939-41)

Quan hệ của Liên Xô với phương Tây càng xấu đi khi Anh - Pháp ký với Đức Quốc xã bản Hiệp ước Munich, làm ngơ cho Đức chiếm Tiệp Khắc. Liên Xô cho rằng Anh - Pháp đã cố tình làm ngơ cho Đức để mong nước này tấn công Liên Xô. Để trả đũa, một tuần trước khi Thế chiến II nổ ra, Liên bang Xô viết và Đức ký Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, trong đó thoả thuận không giao chiến và phân chia vùng ảnh hưởng tại Đông Âu giữa hai nước..cc Bắt đầu một tuần sau đó, vào tháng 9 năm 1939, Đức tấn công Ba Lan và phân chia ảnh hưởng tại phần còn lại của Đông Âu theo những thỏa thuận tại Hiệp ước..cc.cc Thực chất, bản Hiệp ước giống như một thỏa thuận "câu giờ" nhằm kéo dài thời gian hòa hoãn giữa 2 đối thủ, và cả Đức lẫn Liên Xô đều biết rằng chiến tranh giữa 2 nước sắp xảy ra.
Trong một năm rưỡi tiếp theo, họ đã tham gia vào một mối quan hệ kinh tế trên diện rộng, trao đổi với nhau các vật liệu cần thiết cho cuộc chiến tranh.cc.cc cho tới khi Đức phá vỡ Hiệp ước Molotov-Ribbentrop với Chiến dịch Barbarossa, cuộc xâm lược Liên Xô qua lãnh thổ hai quốc gia đã bị phân chia từ trước..cc

Đồng minh chống Phe Trục (1941-45)

Trong nỗ lực chiến tranh chung của mình, bắt đầu từ năm 1941, người Liên Xô nghi ngờ rằng người Anh và người Mỹ đã âm mưu để người Liên Xô phải chịu gánh nặng chiến đấu chống Phát xít Đức. Theo quan điểm này, các Đồng minh phương Tây đã cố tình trì hoãn việc mở một mặt trận chống Phát xít thứ hai nhằm chỉ tham chiến ở thời điểm cuối cùng và đặt ra những quy định cho hoà bình..cc Vì thế, những nhận thức của Liên Xô về phương Tây đã để lại một sự căng thẳng ngầm và thù địch mạnh giữa các cường quốc Đồng Minh..cc

Hậu chiến và những mâu thuẫn ban đầu

Hội nghị Yalta
Hội nghị Yalta, diễn ra từ ngày 4 đến ngày 11 tháng 2 năm 1945, là cuộc gặp giữa tổng thống Mỹ Franklin D. Rooseveltthủ tướng Anh Winston Churchill và Chủ tịch Liên Xô Iosif Vissarionovich Stalin ở Yalta (thuộc bán đảo Krym, Liên Xô). Nội dung của cuộc họp để bàn về tương lai hậu chiến của Đức và Ba Lan, cũng như việc tham chiến của Liên Xô ở mặt trận Thái Bình Dương.
Bộ ba Anh - Mỹ - Liên Xô đồng ý chia nước Đức dưới sự kiểm soát của Anh, Mỹ, Pháp và Liên Xô. Sau này ba phần của Anh, Mỹ, Pháp được nhập lại thành Tây Đức và phần của Liên Xô được gọi là Đông Đức. Stalin yêu cầu Đức bồi thường 20 tỷ đô la tiền chiến phí, nhưng bị bác bỏ tại hội nghị.

Ba nhà lãnh đạo phe Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai
Lúc này, dù sao chiến tranh vẫn diễn ra ở mặt trận Thái Bình Dương (chủ yếu giữa quân Mỹ và phát xít Nhật). Roosevelt muốn Stalin tuyên chiến với Nhật, đánh đổ phát xít Nhật. Stalin đồng ý.
Ba Lan, dưới sự giám sát của Hồng quân Liên Xô, có lẽ gặp nhiều khó khăn nhất. Trong hội nghị, Stalin bác bỏ thỉnh cầu mang chính quyền Ba Lan về trạng thái trước thế chiến. Theo Stalin, Liên Xô sẽ cung cấp an ninh cần thiết cho Ba Lan. Ông đồng ý cho Ba Lan bầu cử tự do dựa trên nền tảng chính quyền cộng sản chủ nghĩa.
Sự thành lập của Liên Hiệp Quốc
Cũng tại hội nghị Yalta, bộ ba đồng ý thành lập Liên Hiệp Quốc. Một tổ chức tương tự Hội Quốc Liên cũng đã được thành lập sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhưng không hiệu quả về sau - có nhiều ý kiến cho rằng lý do là ở chỗ Mỹ không tham gia. Mục đích chủ yếu của Liên Hiệp Quốc là bảo đảm an ninh thế giới.
Xem thêm: Liên Hiệp Quốc
Nhiệm kỳ của Truman
Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đột ngột qua đời vào ngày 12 tháng 4 năm 1945. Phó tổng thống Harry S. Truman lên thế. Truman là một người có quan điểm cứng rắn, nhiều lúc cực đoan chứ không mềm dẻo như tổng thống tiền nhiệm (chú ý rằng đường lối của Truman ảnh hưởng nhiều đến cách chính sách của Mỹ thời hậu chiến và trong Chiến tranh Lạnh).
Hội nghị Potsdam
Truman gặp Stalin lần đầu là ở Hội nghị Potsdam (ngoại ô của Berlin) vào tháng 7 năm 1945. Đại diện của Anh lúc này là Clement Attlee, vừa đắc cử Thủ tướng ở Anh.
Hội nghị nhấn mạnh các vấn đề được đưa ra ở Hội nghị Yalta, trong đó có các vấn đề về tương lai của Đức và Ba Lan. Stalin tiếp tục yêu cầu bồi thường thiệt hại chiến tranh. Truman nhắc lại lời hứa của Stalin về bầu cử tự do tại Ba Lan.
Ở hội nghị, Truman cũng tuyên bố bom nguyên tử đã được thử nghiệm ở New Mexico, Stalin - mặc dù đã biết điều này thông qua các gián điệp ở Mỹ - gật đầu.
Bom nguyên tử có ý nghĩa lớn đối với Chiến tranh Lạnh, trong đó là sự chạy đua công nghệ nguyên tử giữa Mỹ và Liên Xô. Bom nguyên tử cũng được dùng đầu tiên trong chiến tranh ở Nhật theo yêu cầu của Truman.
Quan điểm của Liên Xô
Sau khi mất gần 22 triệu người trong cuộc chiến, Liên Xô muốn thành lập các quốc gia đồng minh xung quanh họ vì vấn đề an ninh.
Ngoài ra, một trong những mục tiêu của xây dựng chủ nghĩa cộng sản là truyền bá tư tưởng cộng sản ra khắp thế giới, loại bỏ chủ nghĩa tư bản, và nhiệm vụ của đảng cộng sản là thúc đẩy sự lan truyền đó.
Stalin bác bỏ những sự hợp tác với Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Vì nếu làm ngược lại, vô hình trung ông đang đóng góp vào sự lớn mạnh của chủ nghĩa tư bản. Stalin ủng hộ sự mở rộng của chủ nghĩa cộng sản ở Tây Âu và châu Á sau này.

Liên bang Xô Viết và sự lớn mạnh của chủ nghĩa cộng sản

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Hồng quân Liên Xô giúp các nước Đông Âu thoát khỏi quân phát xít, đồng thời chính quyền theo đường lối cộng sản chủ nghĩa cũng được thiết lập tại các nước này.
Albania và Bulgaria
Ở Albania, những người ủng hộ chủ nghĩa cộng sản bị loại trừ vào những năm chiến tranh, sau này được Stalin thiết lập lại. Khi bầu cử diễn ra các năm sau đó, những nhà lãnh đạo chống cộng bị thất bại.
Ở Bulgaria, chính phủ cộng sản chủ nghĩa được thiết lập từ năm 1944 đến 1948.
Tiệp Khắc
Tiệp Khắc có truyền thống chống lại chủ nghĩa cộng sản từ trước thế chiến, nhưng việc bị Anh - Pháp bán đứng khiến người Tiệp Khắc quay sang ủng hộ Liên Xô. Trong cuộc bầu cử tự do năm 1946, các nhà lãnh đạo đảng cộng sản giành được 40% tổng số phiếu, đủ để thành lập chính phủ mới. Sau này các đảng viên lên thay thế nhiều vị trí trong bộ Công an, cùng với sự hỗ trợ của Liên Xô, họ tổ chức các cuộc mít-tinh, đình công v.v. Đến năm 1948, Tiệp Khắc trở thành một nước có chính phủ cộng sản chủ nghĩa.
Hungary và Romania
Cuối năm 1945, tại Hungary các người cộng sản thất bại trong cuộc bầu cử, các lực lượng Xô Viết vẫn được giữ lại. Họ yêu cầu đưa đảng cộng sản lên nắm bộ Công an. Việc bắt giữ những phần tử chống cộng có thể đã giúp các người cộng sản lên nắm chính quyền vào cuộc tái bầu cử năm 1947.
Hồng quân Liên Xô cũng được lưu lại ở România. Năm 1945, vua của Romania bị buộc phải phong quyền thủ tướng cho một người cộng sản, hai năm sau nhà vua bị buộc phải thoái vị. Chế độ quân chủ của Romania chấm dứt
Tây Đức
Các nhà lãnh đạo Đồng Minh muốn giúp Đức xây dựng lại đất nước. Tuy nhiên Stalin cho rằng đây chỉ là chiêu bài để Anh - Pháp - Mỹ tái vũ trang nước Đức, nhằm tạo thành xung kích cho việc tấn công Liên Xô sau này. Stalin ủng hộ việc thiết lập chính quyền toàn quyền ở Tây Đức để nước Đức không thể là mối hiểm họa nữa.
Phần Lan và Nam Tư
Phần Lan được giữ độc lập với Liên Xô và ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản. 1948, Phần Lan ký hiệp ước với Liên Xô, cam kết không gia nhập bất kỳ liên minh quân sự nào để chống Liên Xô.
Nam Tư cũng tương đối độc lập khỏi sự ảnh hưởng của Liên Xô. Tuy nhiên quốc gia này dưới sự lãnh đạo của một nhà toàn quyền với tên Josip Broz, hay còn được biết đến như là Tito. 1948, Stalin muốn lật đổ Tito nhưng thất bại và chấp nhận sự lãnh đạo của Tito.

Bức màn Sắt

Trong một bài diễn văn vào tháng 2 năm 1946. Stalin khẳng định sự thành công của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản sẽ bị sụp đổ. Mặc dù sẽ phải trải qua nhiều năm trước khi có đủ lực lượng vũ trang để đối đầu với Mỹ, Liên Xô vẫn thúc đẩy sự mở rộng của chủ nghĩa cộng sản bằng cách ủng hộ các phong trào cánh tả, các phong trào đấu tranh của công nhân ở các nước Tây Âu.
Một tháng sau, để đáp trả, Winston Churchill (lúc này không còn là thủ tướng, nhưng vẫn là một nhân vật có tiếng nói mạnh mẽ trong chính trị Anh) đưa ra ý kiến phản bác lại Stalin, và sự thành lập "Bức màn Sắt" là một biểu tượng cho sự chia cắt giữa hai hệ tư tưởng đối nghịch nhau ở châu Âu lúc này. Churchill cũng kêu gọi Mỹ tiếp tục ngăn chặn Stalin lôi kéo các nước vào bên kia của điều mà ông gọi là bức màn, nơi chủ nghĩa cộng sản đang ngự trị.

Chính sách chống Cộng của Mỹ, bắt đầu Chiến tranh Lạnh

Sau một bài phân tích của George Kennan, một nhà chính trị Mỹ ở Moskva, nội dung chủ yếu là chủ nghĩa cộng sản không thể bị đánh đổ một cách nhanh chóng, Mỹ thừa nhận việc các nước Đông Âu sẽ thuộc về tầm ảnh hưởng của Liên Xô. Nhưng đồng thời, Mỹ cũng thúc giục những hành động nhằm loại bỏ chủ nghĩa cộng sản khỏi Tây Âu, kể cả ở Liên Xô.
Ngày 12 tháng 3 năm 1947 Tổng thống Harry S. Truman đã tuyên bố Mỹ sẽ tích cực hỗ trợ việc chống lại các phong trào cộng sản chủ nghĩa, đây là chính sách chính thức của ngoại giao Hoa Kỳ được gọi là Học thuyết Truman.
Dựa vào học thuyết Truman, Hoa Kỳ đã đem quân tấn công vào hàng loạt các quốc gia khác trên thế giới: ủng hộ phe bảo hoàng trong nội chiến Hy Lạp, tấn công Bắc Triều Tiên trong chiến tranh Triều Tiên, ủng hộ thực dân Pháp trong chiến tranh Đông Dương, và cho quân viễn chinh tham chiến trong chiến tranh Việt Nam.
Để thi hành chính sách chống lại các phong trào cộng sản chủ nghĩa, Hoa Kỳ sẵn sàng hợp tác với các chính quyền độc tài quân phiệt, miễn là chính quyền đó có tư tưởng chống Cộng. Từ năm 1951, Mỹ đã coi chính quyền phát xít Tây Ban Nha là một trong số các đồng minh vì chính sách chống cộng quyết liệt của chính quyền này (dù ngoài mặt Mỹ luôn lên án chủ nghĩa phát xít). Trong vòng một thập kỷ tiếp đó, một số lớn viện trợ được chuyển cho Tây Ban Nha[30] Mỹ cũng như viện trợ chiến phí cho thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm Việt Nam, thực dân Hà Lan quay trở lại xâm chiếm Indonesia. Tới năm 1954, 80% chiến phí của quân Pháp ở Việt Nam là do Mỹ chi trả.
Chính sách Truman về mặt kinh tế không chỉ được thực hiện ở châu Âu.[31] Trong trường hợp Trung Quốc, cho dù có sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, chế độ độc tài quân phiệt tham ô và chống cải tổ của Tưởng Giới Thạch cũng không thể đối đầu lại quân đội của Đảng cộng sản Trung Quốc.[32]
Nhà lý luận chính trị, giáo sư Noam Chomsky lập luận rằng các phong trào cộng sản và xã hội chủ nghĩa trở thành phổ biến ở các nước nghèo bởi vì họ đã mang đến những cải thiện về sự bình đẳng, phúc lợi xã hội và kinh tế quốc gia tại những nước họ lên nắm quyền. Điều này khiến chính phủ Mỹ lo ngại với lập luận "Nếu tại một đất nước nhỏ bé và nghèo nàn như Grenada, phong trào cộng sản có thể thành công trong việc mang về một cuộc sống tốt hơn cho người dân, một số nước khác sẽ tự hỏi: Tại sao chúng ta lại không thể?" Nếu không dập tắt ngay các phong trào này, thì các nước khác cũng sẽ học theo và nổi dậy chống lại Mỹ, khi đó quyền lực của nước Mỹ trên thế giới sẽ suy yếu nghiêm trọng. Do đó, Mỹ đã có rất nhiều nỗ lực để đàn áp các "phong trào cách mạng nhân dân" ở ChileViệt NamNicaraguaIranCubaLàoGrenadaEl SalvadorGuatemala... Chomsky đề cập đến điều này như là "mối đe dọa của một ví dụ tốt."[33]
Trường hợp của Tây Ban Nha, Việt Nam, Trung Quốc và chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở các nước châu Mỹ Latin đã cho thấy, để ngăn chặn các phong trào cộng sản chủ nghĩa, Hoa Kỳ đã sẵn sàng ủng hộ các chế độ thực dânđộc tài hoặc quân phiệt.

Chiến tranh Lạnh được "hâm nóng lên"

Hai quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima và Nagasaki là một sự kiện rất quan trọng trong Chiến tranh thế giới thứ hai và trong Chiến tranh Lạnh. Quan trọng ở chỗ nó mở ra một thời kỳ nguyên tử với sự xuất hiện của vũ khí tàn phá lớn. Nó cũng mở ra cuộc chạy đua về công nghệ nguyên tử gay gắt giữa Mỹ và Liên Xô.

Kế hoạch Marshall

Sở dĩ Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra cũng là do những kết quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất, là nghèo đói và thiếu ổn định về kinh tế ở các nước châu Âu. Để không tái diễn hiện trạng này, George C. Marshall phác thảo bản Kế hoạch Marshall, ủng hộ sự thành lập các chương trình phục hồi kinh tế cho châu Âu bằng cách tăng cường nền thương mại tự do ở châu Âu sẽ giúp khắc phục các khó khăn, mở thị trường ra khắp thế giới.
Trong bài diễn văn ở Đại học Harvard vào tháng 6 năm 1947, Marshall phát biểu: "Đây là một điều logic khi nước Mỹ nên làm bất cứ điều gì nó có thể để giúp đỡ nền kinh tế thế giới, đem lại trạng thái lành mạnh cho nó. Chính sách của chúng ta không chống lại một đất nước hay một chính sách nào khác. Chính sách của chúng ta chống lại nghèo đói, suy sụp, và hỗn loạn..."
Cùng với Chính sách Truman, Kế hoạch Marshall nhấn mạnh sự tự do trong kinh tế và sự viện trợ của Mỹ sẽ khắc phục các khó khăn lúc bấy giờ.
Kế hoạch Marshall thực chất là để phục vụ cho các kế hoạch chính trị của Mỹ nhằm ràng buộc, kiểm soát các nước Tây Âu và chống lại Liên Xô, cũng như để tạo thuận lợi cho việc kinh doanh của các Tập đoàn xuyên quốc gia Mỹ tại Tây Âu. Để phục vụ mục đích này, Mỹ đã viện trợ kinh tế cho cả chính quyền phát xít Tây Ban Nha, cũng như viện trợ chiến phí cho thực dân Pháp, thực dân Hà Lan quay trở lại xâm chiếm Đông Nam Á. Tuy vậy, nó cũng tạo lợi ích cho kinh tế các nước Tây Âu, giúp các nước này hồi phục kinh tế.

Viện trợ cho Tây Berlin

Hiểu rằng Stalin sẽ không đồng ý việc thống nhất nước Đức, ba nước Anh-Pháp-Mỹ quyết định nhập ba vùng phụ thuộc vào, thành lập Cộng hòa Liên bang Đức (không phải Cộng hòa Liên bang Đức ngày nay), hay còn gọi là Tây Đức. Liên Xô thành lập Cộng hòa Dân chủ Đức, hay Đông Đức, dười sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Đức. Thủ đô của Đức – Berlin - tuy nằm trong lãnh thổ Đông Đức, bị chia cắt thành hai: Đông Berlin là thủ đô của Đông Đức và Tây Berlin là thủ đô của Tây Đức. Tại 2 vùng có chế độ kinh tế khác hẳn nhau: ở Tây Đức lương công nhân cao hơn, nhưng ở Đông Đức thì lại được miễn phí y tế, giáo dục. Kết quả là nhiều người Đông Đức ban ngày chạy sang Tây Đức làm việc, đến tối lại quay về nhà ở Đông Đức. Hàng trăm ngàn người từ các nước Đông Âu sang Đông Berlin, rồi lần sang Tây Berlin và từ đó đi máy bay sang các nước như Mỹ, Canada hoặc Tây Âu.

Căn cứ không quân Rhein-Maincủa Mỹ giúp bảo tu các máy bay trong chiến dịch viện trợ Tây Đức
Stalin quyết định đóng cửa con đường này và đóng các con đường giao thông vào Tây Berlin. Cuộc bủa vây này gây ra sự thiếu hụt lương thực và đồ tiêu dùng cho 2,5 triệu người ở Tây Berlin.
Truman không muốn đe dọa vũ trang để mở lại các mối giao thông vào Tây Berlin mà ông cũng không muốn Tây Berlin rơi vào tay của Liên Xô. Cho nên Truman quyết định các chiến dịch viện trợ cho Tây Berlin bằng cách thả hàng viện trợ xuống từ trên không. Trong vòng 15 tháng, quân đội Anh và Mỹ cung cấp 200.000 chuyến bay cung cấp lương thực, nhiên liệu. Mỗi ngày 13.000 tấn hàng hóa được viện trợ cho Tây Berlin.
Tháng 5 năm 1949, Stalin tháo bỏ lệnh phong tỏa Tây Berlin. Chiến dịch viện trợ của Anh-Mỹ ngừng vào tháng 9 cùng năm.

Sự hình thành các khối liên hiệp

Liên Hiệp Quốc là một ủy ban tín nhiệm trong việc giúp đỡ phục hồi kinh tế các nước trên thế giới. Tuy nhiên, Liên Xô cũng là một thành viên, nhiều chính sách đưa ra bị Liên Xô bác bỏ vì tin rằng nó là con bài cho sự bành trướng của Tư bản Phương tây. 1946Louis St. Laurent, bộ trưởng bộ ngoại giao Canada đưa ra ý tưởng thành lập một "liên minh chuộng hòa bình" để giúp châu Âu chống lại những sự chi phối của Liên Xô. Các nhà lãnh đạo Mỹ tỏ ra quan tâm đến ý tưởng trên, mặc dù có người không đồng tình, cho rằng việc thành lập một ủy ban như vậy có thể dẫn đến chiến tranh. [Một trong những nguyên nhân mà hai cuộc chiến tranh thế giới xảy ra trên một mức độ liên quan tới nhiều quốc gia trên thế giới là sự thành lập các "khối" đối lập nhau. Tấn công vào một nước trong khối đồng nghĩa với tấn công toàn khối.]
Tháng 4 năm 1949, Canada, Mỹ tham gia với Bỉ, Anh, Đan Mạch, Pháp, IcelandÝLuxembourgHà LanNa UyBồ Đào Nha thành lập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (North Atlantic Treaty Organization hay NATO).
Sự thành lập liên minh NATO có ý nghĩa lớn trong lịch sử Mỹ, chấm dứt chính sách cô lập của Mỹ đối với các vấn đề châu Âu. [Mỹ không có ý định can thiệp vũ trang vào hai cuộc chiến tranh thế giới cho tới khi có các đụng độ trên Đại Tây Dương giữa tàu dân sự Mỹ và tàu ngầm Đức, hiệp định Đức và México trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và vụ tấn công Trân Châu Cảng trong Chiến tranh thế giới thứ hai.] Tuy nhiên, việc NATO ra đời khiến Liên Xô rất bất an, bởi việc Mỹ thành lập một liên minh quân sự gồm nhiều nước ngay sát Liên Xô là một mối đe dọa an ninh rất lớn với nước này. Quyền chi phối NATO thuộc về Mỹ, và nếu Mỹ huy động quân đội các nước NATO để phát động tấn công Liên Xô, thì Liên Xô sẽ bị bao vây và phải chống đỡ với rất nhiều kẻ thù cùng một lúc.
Để đáp trả việc NATO ra đời, Liên Xô thành lập khối Hiệp ước Warszawa (Организация Варшавского договора) gồm Liên Xô và các nước đồng minh trong phe xã hội chủ nghĩa ở châu Âu (Albania, Ba Lan, Hungary, Bulgaria, Cộng hoà dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Romania).

Sự đối đầu giữa NATO và Khối Warszawa
Sự ra đời của NATO và khối Hiệp ước Warszawa đã đánh dấu sự xác lập của cục diện 2 cực, 2 phe. "Chiến tranh lạnh" đã bao trùm toàn thế giới.

Sự lớn mạnh của chủ nghĩa cộng sản

Liên Xô và vũ khí hạt nhân
Năm 1949, Liên Xô thành công trong việc chế tạo vũ khí hạt nhân, xóa bỏ thế độc quyền về công nghệ hạt nhân của Hoa Kỳ. Để lấy lại ưu thế, Truman phê chuẩn việc nghiên cứu bom hạt nhân tại Hoa Kỳ.
Cũng vào thời điểm này, Truman thành lập Ủy ban An ninh Liên bang (Federal Civil Defense Administration) nhằm thành lập các phương tiện truyền thông cho nhân dân về việc đối phó với chiến tranh hạt nhân (thành lập hầm chống bom v.v.) nhưng thực tế không hiệu quả.
Đảng cộng sản Trung Quốc chiến thắng
Sau khi chống lại Phát xít Nhật, uy tín của nhà lãnh đạo Đảng cộng sản Mao Trạch Đông lên cao. Mỹ giúp đỡ Tưởng Giới Thạch chống lại Mao Trạch Đông. Nhưng về sau Mỹ chấm dứt viện trợ vì cho rằng sự nắm quyền của Mao Trạch Đông là không thể tránh khỏi.

Chiến tranh Lạnh và tác động trong lòng nước Mỹ

Vảo khoảng thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới, số lượng người Mỹ tham gia vào đảng cộng sản tăng lên, chủ yếu là do suy nghĩ rằng cuộc khủng hoảng trên là điểm yếu, là dấu hiệu sụp đổ của chủ nghĩa tư bản. Một lần nữa, "Nỗi sợ Đỏ" (Red Scare) – sợ những tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản - tồn tại trên đất Mỹ. Mối lo sợ những người cộng sản trong chính quyền Mỹ lên cao, điều này dẫn đến những cuộc đàn áp chống cộng mang tính chất cực đoan, vi phạm hiến pháp và trái với tư tưởng Mỹ từ khi lập quốc.
Về đối nội, tại Mỹ đầu thập niên 1950, các thế lực chống cộng cực đoan nắm quyền, McCarthy và J. Edgar Hoover thực hiện các chiến dịch chống cộng gồm theo dõi, phân biệt đối xử, sa thải, khởi tố và bắt giam nhiều người bị xem là đảng viên cộng sản hoặc ủng hộ chủ nghĩa cộng sản[34][35][36]. Một bộ phận trong số những nạn nhân bị mất việc, bị bắt giam hoặc bị điều tra quả thật có quan hệ trong hiện tại hoặc trong quá khứ với Đảng Cộng sản Hoa Kỳ. Nhưng đại bộ phận còn lại có rất ít khả năng gây nguy hại cho nhà nước và sự liên quan của họ với người cộng sản là rất mờ nhạt[37]. Chính phủ Mỹ đẩy mạnh tuyên truyền để công chúng nghĩ rằng những người cộng sản là mối đe dọa đối với an ninh quốc gia.[38]
Truman thành lập những chương trình chống các gián điệp của Liên Xô thâm nhập vào chính quyền của Mỹ... các chương trình này điều tra hàng triệu nhân viên chính phủ, trong đó khoảng vài trăm người bị buộc từ chức.
Quốc hội Mỹ cũng có tổ chức riêng để bảo vệ an ninh quốc gia. HUAC (House Un-American Activities Committee - Ủy ban Hạ viện Kiểm Tra Hành Động Bất Hợp Hoa Kỳ) được thành lập năm 1938, giúp điều tra các phần tử không trung thành. Đặc biệt là Hollywood vì Hollywood được cho là có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng của nhân dân.
Chính sách McCarren-Walter: Cùng với Truman và Quốc hội Mỹ, thượng nghị sĩ Pat MacCarren đóng góp công cuộc chống cộng sản ở Mỹ. Tuy nhiên, theo ý kiến của ông, đa phần các phần tử không trung thành là thành phần nhập cư từ các vùng mà chủ nghĩa cộng sản đang thống trị.
Xem thêm: Gián điệp Ethel và Julius Rosenberg

Thập niên 1950

Mỹ Latin

Nếu như mục tiêu của Mỹ trong những năm đầu của Chiến tranh Lạnh là ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản, giai đoạn này Mỹ chủ động hơn với việc "đẩy lùi" chủ nghĩa đó. Tuy nhiên, tổng thống lúc bấy giờ, Dwight D. Eisenhower, muốn tránh các đụng chạm với Liên Xô.
Mỹ đã thiết lập các chế độ ủng hộ mình bằng can thiệp quân sự, tài trợ cho phe đối lập hoặc hỗ trợ đảo chính (Mỹ có nhiều đầu tư trục lợi vào kinh tế của các nước Nam Mỹ).
1954CIA cho rằng những nhà lãnh đạo của Guatemela ủng hộ chủ nghĩa xã hội, và sau đó Mỹ đã lật đổ chính quyền ở đây.

Châu Á

Trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ haibán đảo Triều Tiên chịu sự cai trị của Phát xít Nhật, sau được Liên Xô và Mỹ giải phóng. Tuy nhiên, đất nước Triều Tiên không được thống nhất mà bị chia ra làm hai phần, Bắc Triều Tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng lao động Triều Tiên, trong khi Nam Triều Tiên theo đường lối tư bản, lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới.
Eisenhower lên nhậm chức sau khi kết thúc Chiến tranh Triều Tiên. Mỹ viện trợ Pháp trong việc tái xâm chiếm các thuộc địa của họ ở Đông Dương, trong đó có Việt Nam. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kháng chiến quyết liệt và cuối cùng đã đánh bại Pháp. Sau khi Pháp thất bại, Hoa Kỳ nhảy vào thế chân, lập nên chế độ Việt Nam Cộng Hòa để chia cắt Việt Nam. Liên XôTrung Quốc và các nước XHCN viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại miền Bắc và Mặt Trận Dân tộc Giải Phóng tại miền Nam để tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ, thống nhất đất nước.

Trung Đông

Mỹ cũng thực hiện những kế hoạch tại các nước Ả Rập với nguồn dầu hỏa trù phú để các nước này không ủng hộ Liên Xô (năm 1952, cố gắng thiết lập lại chính quyền thân Mỹ).
1957, Eisenhower tuyên bố Chính sách Eisenhower, trong đó nói lên rằng Mỹ sẽ dùng vũ trang để bảo vệ nền tự chủ của một quốc gia hay một nhóm quốc gia ở Trung Đông trước sự đe dọa của các thái độ thù nghịch.
Trong giai đoạn 1948-1982, Mỹ viện trợ tích cực cho Israel tiến hành các cuộc chiến tranh với các nước Ả rập. Israel đã chiếm đóng toàn bộ nước láng giềng Palestine, có những giai đoạn còn chiếm đóng một phần lãnh thổ Ai Cập và Syria.

Cuộc chạy đua giữa Mỹ và Liên Xô


Tên lửa Minuteman 3
Vào giai đoạn này, cuộc chay đua vũ trang giữa Mỹ và Liên Xô trở nên gay gắt và quyết liệt hơn.

Vũ khí hạt nhân

Đáng đề cập ở đây là sự thành công trong việc điều chế bom nhiệt hạch - hay còn gọi là bom H (với sức công phá có thể đạt gấp 1000 lần bom nguyên tử) của Liên Xô, chưa đầy 1 năm sau khi Mỹ cho nổ thử quả bom H đầu tiên. Trong khoảng 1954-1958, 19 quả bom H được Mỹ thử nghiệm. Đây là sự đe dọa tàn phá toàn cầu bởi vũ khí hạt nhân.

Tên lửa liên lục địa

Nói chung, Mỹ thua Liên Xô ở công nghệ tên lửa. Liên Xô hoàn thành tên lửa liên lục địa (thường chứa đầu đạn hạt nhân) đe dọa an ninh quốc phòng Mỹ. Lúc này nếu Mỹ muốn thâm nhập lãnh thổ của Liên Xô, các máy bay phải vượt qua hàng phòng thủ của Xô Viết với các tên lửa đất đối không. Vào tháng 5 năm 1960, Liên Xô hạ một chiếc máy bay U-2 (máy bay thám thính) của Mỹ trên bầu trời Xô Viết.

Công nghệ vũ trụ

Năm 1957, Xô Viết cho phóng vệ tinh nhân tạo Sputnik. Mỹ e sợ tiếp theo họ có thể cải tiến Sputnik thành những công cụ giúp tấn công nước Mỹ từ trên không.
Ở Mỹ, song song với việc đầu tư vào công nghệ không gian như phát triển vệ tinh v.v. Mỹ cũng có những kế hoạch bí mật phát triển các khinh khí cầu gián điệp, đĩa bay (Kế hoạch Mogul...)
Vào tháng 12 năm 1968, Hoa Kỳ dẫn đầu trong cuộc đua lên mặt trăng khi James Lovell, Frank Borman và Bill Anders bay vòng quanh Mặt Trăng. Họ trở thành những người đầu tiên ăn mừng Giáng sinh trong không gian và vài ngày sau đó hạ cánh an toàn. Người Mỹ Neil Armstrong trở thành người đầu tiên bước trên bề mặt của Mặt Trăng vào 21 tháng 7 năm 1969.

Chiến tranh Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh lạnh

Nguyên nhân cuộc chiến tranh tại Việt Nam một phần là bắt nguồn từ cuộc Chiến tranh Lạnh, tuy nhiên điều này không được thể hiện rõ ràng vì nó còn thể hiện là một cuộc chiến nhằm giành độc lập cho đất nước và giải phóng dân tộc. Tinh thần độc lập dân tộc là yếu tố cơ bản giúp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chiến thắng chứ không phải nhờ ưu thế tư tưởng hay quân sự. Bản thân Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là một tổ chức đoàn kết rộng rãi, không chỉ những người cộng sản mà còn cả những thành phần dân tộc chủ nghĩa chống lại sự hiện diện của ngoại bang là Hoa Kỳ. Trung Quốc, đồng minh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã từng đề nghị đem quân sang trực tiếp chiến đấu như ở Triều Tiên, song các lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã từ chối với lý do "nợ tiền của thì sẽ trả được chứ nợ xương máu thì không thể trả được",[cần dẫn nguồn] hàm ý nếu cho phép Trung Quốc tham chiến, một quân đội ngoại bang giống Hoa Kỳ, sẽ làm mất đi tính chất giải phóng dân tộc của cuộc chiến.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong giai đoạn 1955-1964 đã có bước phát triển nhanh, nhưng về cơ bản vẫn là một quốc gia lạc hậu hơn so với quốc gia cùng phe, trong khi đó các lãnh thổ mà Mỹ kiểm soát ở miền Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Trong thập niên 1950, nền kinh tế ở miền Nam có đạt được một số thành tựu ban đầu, song nói chung vẫn lạc hậu so với các nước tư bản phương Tây, vẫn phải phụ thuộc đáng kể vào viện trợ của Mỹ.
Cuộc chiến ở Việt Nam trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh được cả hai cường quốc lúc bấy giờ là Liên Xô và Hoa Kỳ đưa ra những nhận định khác nhau. Hoa Kỳ cho rằng sự tham chiến của quân đội Mỹ, viện trợ chiến phí cho thực dân Pháp và sau đó là Việt Nam Cộng hòa là để ngăn chặn sự mở rộng của chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam nói riêng cũng như tại châu Á nói chung theo thuyết Domino của Hoa Kỳ. Đó cũng chính là lý do quân đội Mỹ can thiệp ngày càng sâu vào chiến tranh tại Việt Nam cũng như trực tiếp đưa quân đội tham chiến trên chiến trường. Liên Xô thì cho rằng việc họ làm là muốn giúp nhân dân Việt Nam nói riêng (cũng như các nước thế giới thứ ba nói chung) giành độc lập và chống lại chủ nghĩa thực dân mới của tư bản phương Tây, điều mà họ đã làm trong suốt Chiến tranh Đông Dương trước đó. Liên Xô đã ra sức giúp đỡ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vũ khí, cố vấn huấn luyện... nhằm ủng hộ công cuộc đấu tranh giành độc lập đất nước của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau này, Robert S. McNamara, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, một trong những người góp phần hoạch định chính sách Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam đã thừa nhận rằng: "Chúng tôi đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp. Chúng tôi đã mắc nợ các thế hệ tương lai trong việc giải thích tại sao lại sai lầm như vậy". Và, Mc.Namara cho nguyên nhân sai lầm đó là vì Mỹ đã "hoàn toàn đánh giá thấp khía cạnh dân tộc chủ nghĩa trong phong trào của Hồ Chí Minh."[39] Sử gia Jonathan Neale thì cho rằng chính sách chống Cộng của chính phủ Mỹ chỉ là để phục vụ cho quyền lợi của những tập đoàn tư bản Mỹ, nhằm giúp các tập đoàn này kiểm soát tài nguyên tại khu vực Đông Nam Á[40]
Như vậy có thể nói tính chất của Chiến tranh Việt Nam là đa diện. Đối với đại đa số người Việt Nam, mục tiêu của cuộc chiến là nhằm giành độc lập dân tộc trước sự can thiệp và chia cắt đất nước đến từ Hoa Kỳ. Còn với Hoa Kỳ, đó là tuyến đầu để họ thực hiện tham vọng kiểm soát vùng Đông Nam Á trong thời kỳ từ năm 1955 đến 1975.

Chấm dứt Chiến tranh Lạnh (1985–1991)

Mikhail Gorbachev và Ronald Reagan ký Hiệp ước các Lực lượng Hạt nhân Tầm trung tại Nhà Trắng, 1987

Những cuộc cải tổ của Gorbachev

Xem thêm thông tin: Mikhail Gorbachevperestroika, và glasnost
Tới khi Mikhail Gorbachev là người khá trẻ lên làm Tổng bí thư năm 1985, nền kinh tế Liên Xô đang ở trong tình trạng trì trệ và phải đối mặt với sự giảm sút mạnh từ nguồn thu ngoại tệ nước ngoài vì sự sụt giá dầu mỏ trong thập niên 1980.[41] Những vấn đề này khiến Gorbachev đầu tư vào các biện pháp nhằm khôi phục đất nước đang trì trệ.[41]
Một sự khỏi đầu không hiệu quả đã dẫn tới kết luận rằng những thay đổi cơ cấu mạnh hơn là cần thiết và vào tháng 6 năm 1987 Gorbachev thông báo một kế hoạch cải cách kinh tế được gọi là perestroika, hay tái cơ cấu.[42] Perestroika giảm bớt hệ thống sản xuất theo hạn ngạch, cho phép sự sở hữu tư nhân với các doanh nghiệp và mở đường cho đầu tư nước ngoài. Các biện pháp đó có mục đích tái định hướng các nguồn tài nguyên quốc gia từ những cam kết quân sự đắt giá thời Chiến tranh Lạnh sang những khu vực công cộng có hiệu quả lớn hơn.[42]
Dù có thái độ hoài nghi ban đầu ở phương Tây, nhà lãnh đạo mới của Liên Xô đã chứng minh sự kiên quyết đảo ngược điều kiện kinh tế đang xấu đi của Liên Xô thay vì tiếp tục cuộc chạy đua vũ trang với phương Tây.[43] Một phần là một cách để chống sự đối lập bên trong với những cuộc cải cách của mình, Gorbachev đồng thời đưa ra glasnost, hay mở cửa, tăng cường tự do cho báo chí và sự minh bạch hoá các định chế nhà nước.[44]Glasnost có mục đích làm giảm tham nhũng ở trên thượng tầng Đảng Cộng sản và giảm bớt sự lạm dụng quyền lực bên trong Uỷ ban Trung ương.[45] Glasnost cũng cho phép sự tăng cường tiếp xúc giữa các công dân Liên Xô và thế giới phương Tây, đặc biệt với Hoa Kỳ, góp phần vào việc đẩy nhanh sự giảm căng thẳng giữa hai nước.[46]

Sự tan băng trong mối quan hệ

Trước những nhượng bộ về quân sự và chính trị của Kremlin, Reagan đồng ý tại lập các cuộc đàm phán về các vấn đề kinh tế và giảm mức độ chạy đua vũ trang.[47] Cuộc đàm phán đầu tiên được tổ chức vào tháng 11 năm 1985 tại Geneva, Thuỵ Sĩ.[47] Ở một cuộc gặp, hai nhà lãnh đạo, chỉ với một người phiên dịch tháp tùng, đã ồng ý về nguyên tắc giảm bớt 50% kho vũ khí hạt nhân của mỗi nước.[48]
Một Hội nghị thượng đỉnh Reykjavík thứ hai được tổ chức tại Iceland. Những cuộc đàm phán diễn ra tốt đẹp cho tới khi sự tập trung chuyển sang đề xuất của Reagan về Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược, mà Gorbachev muốn bị loại bỏ: Reagan đã từ chối.[49] Những cuộc đàm phán thất bại, nhưng một cuộc họp thượng đỉnh thứ ba năm 1987 đã dẫn tới một bước đột phá với việc ký kết Hiệp ước các Lực lượng Hạt nhân Tầm trung (INF). Hiệp ước INF loại bỏ mọi loại vũ khí hạt nhân, được phóng từ tên lửa đạn đạo mặt đất và tên lửa hành trình với tầm bắn trong khoảng 500 tới 5,500 kilômét (300 tới 3,400 dặm) và cơ sở hạ tầng phục vụ nó.[50]
Căng thẳng Đông-Tây nhanh chóng giảm xuống từ giữa cho tới cuối thập niên 1980, ở mức thấp nhất tại cuộc họp thượng đỉnh cuối cùng tại Moskva năm 1989, khi Gorbachev và George H. W. Bush ký hiệp ước kiểm soát vũ khí START I.[51] Trong năm tiếp sau mọi điều trở nên rõ ràng với người Liên Xô rằng các khoản trợ cấp dầu mỏ và khí đốt, cùng với chi phí cho việc duy trì một quân đội to lớn, là cái phễu khổng lồ làm thất thoát đi các nguồn tài nguyên kinh tế.[52] Ngoài ra, ưu thế an ninh của một vùng đệm đã được công nhận là không thích hợp và người Liên Xô chính thức tuyên bố rằng họ không còn can thiệp vào công việc của các quốc gia đồng minh ở Đông Âu nữa.[53]
Năm 1989, các lực lượng Liên Xô rút khỏi Afghanistan[54] và tới năm 1990 Gorbachev đồng ý với việc thống nhất nước Đức,[52] khả năng thay thế duy nhất là một kịch bản kiểu vụ Thiên An Môn.[55] Khi bức tường Berlin bị phá bỏ, ý tưởng "Ngôi nhà Chung châu Âu" của Gorbachev bắt đầu thành hình.[56]
Ngày 3 tháng 12 năm 1989, Gorbachev và người kế tục Reagan, George H. W. Bush, tuyên bố cuộc Chiến tranh Lạnh đã chấm dứt tại Hội nghị thượng đỉnh Malta;[57] một năm sau, hai đối thủ cũ là các đối tác trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh chống lại đồng minh lâu đời của Liên Xô là Iraq.[58]

Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989. Bức tường được xây vào năm 1961 để ngăn chặn người di cư trái phép từ Đông Đức sang Tây Berlin. Nó là một biểu tượng của Chiến tranh Lạnh và sụp đổ vào năm 1989 đánh dấu cho giai đoạn cuối của Chiến tranh Lạnh.

Sự dao động của hệ thống Xô viết

Tới năm 1989, hệ thống liên minh của Liên Xô đã trên bờ vực sụp đổ, và không có sự hỗ trợ quân sự của Liên Xô, các lãnh đạo đảng cộng sản tại các nhà nước thuộc Khối hiệp ước Warsaw dần mất quyền lực.[54] Ở chính bên trong Liên Xô, glasnost đã làm yếu đi các liên kết giữ chặt Liên bang Xô viết[53] và tới tháng 2 năm 1990, với sự giải tán Liên Xô đang dần hiện ra, Đảng Cộng sản đã đánh mất quyền lãnh đạo đất nước kéo dài 73 năm của mình.[59]
Cùng lúc ấy, các tuyên bố bất đồng, đòi ly khai với nhà nước trung ương được cho phép bởi glasnost và sự gia tăng "vấn đề tính chất quốc gia" dần khiến các nước cộng hoà tạo thành Liên bang Xô viết tuyên bố tự trị khỏi Moskva, với việc các quốc gia vùng Baltic rút lui hoàn toàn khỏi Liên Xô.[60] Làn sóng cách mạng năm 1989 quét qua khắp Trung và Đông Âu đã lật đổ các nhà nước cộng sản kiểu Liên Xô, như Ba Lan, Hungary, Tiệp Khắc và Bulgaria,[61] Romania là nước duy nhất thuộc Khối Đông Âu lật đổ chính quyền theo cách bạo lực và đã hành quyết vị lãnh đạo nhà nước.[62]

Giải tán Liên Xô

Thái độ thoải mái của Gorbachev với Đông Âu ban đầu không có trên lãnh thổ Liên Xô, thậm chí Bush, người cố gắng duy trì các quan hệ thân thiện, cũng lên án các vụ giết hại vào tháng 1 năm 1991 tại Latvia và Lithuania, cảnh báo riêng rằng các mối quan hệ kinh tế có thể bị đóng băng nếu tình trạng bạo lực tiếp diễn.[63] Liên bang Xô viết đã bị suy yếu thật sự sau một đảo chính thất bại và số lượng ngày càng tăng các nước cộng hoà Xô viết, đặc biệt là Nga, đã từng đe doạ ly khai khỏi Liên Xô, tuyên bố giải tán nó vào ngày 25 tháng 12 năm 1991.[64]

Di sản


Sự thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập, sự chính thức chấm dứt của Liên bang Xô viết
Được thành lập ngày 21 tháng 12 năm 1991, Cộng đồng các quốc gia độc lập được coi là thực thể kế tục của Liên Xô nhưng theo các lãnh đạo Nga mục tiêu của nó là "cho phép một cuộc hôn nhân văn minh" giữa các nước cộng hoà xô viết và liên kết chúng vào một liên minh lỏng lẻo.[65]
Sau Chiến tranh Lạnh, Nga cắt giảm mạnh chi tiêu quân sự, nhưng sự thay đổi gây tác động mạnh, bởi lĩnh vực công nghiệp quân sự trước kia sử dụng tới một phần năm lực lượng lao động Liên Xô[66] và việc giải giáp khiến hàng triệu công dân Liên Xô cũ rơi vào cảnh thất nghiệp.[66] Sau khi Nga thực hiện các cuộc cải cách kinh tế kiểu tư bản trong thập niên 1990, nó đã phải hứng chịu một cuộc khủng hoảng tài chính và một thời gian giảm phát nghiêm trọng hơn Hoa Kỳ và Đức từng phải đối mặt trong cuộc Đại giảm phát.[67] Tiêu chuẩn sống tại Nga đã sút giảm đi trong những năm thời hậu Chiến tranh Lạnh, dù nền kinh tế đã bắt đầu tăng trưởng trở lại từ năm 1999.[67]
Di sản của cuộc Chiến tranh Lạnh tiếp tục ảnh hưởng tới các vấn đề thế giới. Sau sự giải tán Liên Xô, thế giới thời hậu Chiến tranh Lạnh bị đa số mọi người coi là đơn cực, với Hoa Kỳ là siêu cường duy nhất.[68][69][70] Chiến tranh Lạnh đã định nghĩa vai trò chính trị của Hoa Kỳ trên thế giới thời hậu Thế chiến II: tới năm 1989 Hoa Kỳ có các liên minh quân sự với 50 quốc gia, và có 1.5 triệu quân đồn trú ở nước ngoài tại 117 quốc gia.[71]Chiến tranh Lạnh cũng đã định chế hoá một cam kết quốc tế với một nền công nghiệp quân sự và chi tiêu cho khoa học quân sự to lớn và thường xuyên.[71]
Chi phí quân sự của Hoa Kỳ trong những năm Chiến tranh Lạnh được ước tính là khoảng 8 nghìn tỉ USD (thời giá 2002), trong khi gần 100.000 người Mỹ thiệt mạng trong Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam.[72] Dù sự thiệt hại nhân mạng của binh sĩ Liên Xô là ít hơn Mỹ rất nhiều, phần trăm trong Tổng sản lượng kinh tế của Liên Xô chi cho cuộc chiến lớn hơn nhiều so với Mỹ.[73]
Ngoài sự thiệt mạng của những binh sĩ mặc quân phục, hàng triệu người đã chết trong các cuộc chiến tranh uỷ nhiệm của các siêu cường trên khắp thế giới, đáng kể nhất là tại Đông Nam Á.[74] Đa số các cuộc chiến tranh uỷ nhiệm và các khoản viện trợ cho các cuộc xung đột địa phương đã chấm dứt cùng với Chiến tranh Lạnh, những cuộc chiến tranh giữa các quốc gia, các cuộc chiến tranh sắc tộc, các cuộc chiến tranh cách mạng, cũng như số người tị nạn và những người phải rời bỏ nhà cửa trong các cuộc khủng hoảng đã giảm mạnh ở những năm sau cuộc Chiến tranh Lạnh.[75]
Không một huy chương chiến dịch riêng biệt nào đã được tạo ra cho cuộc Chiến tranh Lạnh, tuy nhiên, vào năm 1998, Quốc hội Hoa Kỳ đã cấp Chứng nhận Ghi công thời Chiến tranh Lạnh "cho mọi thành viên các lực lượng vũ trang và những nhân viên dân sự của chính phủ liên bang đã phục vụ trung thành và xứng đáng Hợp chúng quốc Hoa Kỳ ở bất kỳ thời điểm nào trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, được định nghĩa là từ ngày 2 tháng 9 năm 1945 tới ngày 26 tháng 12 năm 1991." [76]
Tuy nhiên, di sản của cuộc Chiến tranh Lạnh không phải luôn dễ dàng bị xoá bỏ, bởi nhiều căng thẳng kinh tế và xã hội đã bị khai thác làm lý do cho cuộc cạnh tranh thời Chiến tranh Lạnh ở nhiều nơi thuộc Thế giới thứ ba vẫn còn sâu sắc. Sự tan rã quyền quản lý nhà nước ở một số khu vực trước kia thuộc các chính phủ cộng sản chủ nghĩa đã tạo ra các cuộc xung đột dân sự và sắc tộc mới, đặc biệt là tại Nam Tư cũ. Ở Đông Âu, sự kết thúc Chiến tranh Lạnh đã dẫn tới một thời kỳ tăng trưởng kinh tế và một sự tăng trưởng mạnh chủ nghĩa tự do, trong khi ở nhiều nơi khác trên thế giới, như Afghanistan, độc lập đi liền với sự phá sản nhà nước.
Theo sử gia Geoffrey Roberts, trên bình diện thế giới, sự sụp đổ của Liên Xô khiến phương Tây không còn một đối trọng đủ mạnh mẽ, thế giới ngày nay vẫn còn xa mới có thể gọi là an toàn.[77] Theo tiến sĩ Marcus Papadopoulos, một chuyên gia về Nga, việc Liên Xô sụp đổ khiến cho sự can thiệp của Mỹ và phương Tây vào công việc nội bộ của các nước tăng mạnh, với các vi phạm luật pháp quốc tế ở mức độ chưa từng thấy. Nếu Liên Xô còn tồn tại thì những cuộc chiến tranh của phương Tây tấn công Nam TưIraqLibyaSyria... sự trỗi dậy của chủ nghĩa khủng bố và Hồi giáo cực đoan sẽ không bao giờ xảy ra[78].

Đánh giá

Ngay khi thuật ngữ "Chiến tranh Lạnh" trở nên phổ thông trong việc đề cập tới những căng thẳng thời hậu chiến giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết, việc giải thích quá trình và các nguyên nhân cuộc xung đột đã là nguồn gốc của một cuộc tranh cãi dữ dội giữa các nhà sử học, các nhà khoa học chính trị và các nhà báo.[79] Đặc biệt, các nhà sử học có sự bất đồng lớn với việc quy trách nhiệm cho ai về sự tan vỡ quan hệ Liên Xô-Hoa Kỳ sau Thế chiến II; và liệu cuộc xung đột giữa hai siêu cường là không thể tránh khỏi, hay có thể tránh được.[80] Các nhà sử học cũng không đồng ý về việc chính xác cuộc Chiến tranh Lạnh là gì, các nguồn gốc cuộc xung đột là gì, và làm sao để gỡ rối các hình mẫu hành động và phản ứng giữa hai bên.
Dù những giải thích về nguồn gốc cuộc xung đột trong các cuộc tranh luận hàn lâm là phức tạp và trái ngược, nhiều trường phái tư tưởng chính về chủ đề có thể được xác định. Các nhà sử học thường nói về ba cách tiếp cận khác nhau tới việc nghiên cứu Chiến tranh Lạnh: các tường thuật "chính thống", "xét lại", và "hậu xét lại".[71]

Những tường thuật "chính thống" ở phương Tây áp đặt trách nhiệm về cuộc Chiến tranh Lạnh cho Liên Xô và sự mở rộng của nó vào Đông Âu.[71]Các tác gia "xét lại" quy nhiều trách nhiệm về việc làm tan vỡ hoà bình thời hậu chiến cho Hoa Kỳ, viện dẫn một loạt nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm cô lập và đe doạ Liên Xô từ trước khi Thế chiến II chấm dứt.[71] Những người theo phái "hậu xét lại" xem xét các sự kiện của Chiến tranh Lạnh dưới nhiều góc độ hơn, và cố gắng cân bằng hơn trong việc xác định điều gì đã xảy ra trong Chiến tranh Lạnh.[71] Đa số việc chép sử về Chiến tranh Lạnh sử dụng hai hay thậm chí cả ba tiêu chí lớn đó.[cần dẫn nguồn]

No comments:

Post a Comment