Saturday, April 14, 2018

Nguyễn Bỉnh Khiêm (; 1491 – 1585)

Nguyễn Bỉnh Khiêm (; 1491 – 1585) was a Vietnamese administrator, educator, poet, sage and later a saint of the Cao Dai religion. He is referred to by several names: tên huý Nguyễn Văn Đạt, Hanh Phủ (亨甫), Bạch Vân cư sĩ (白雲居士, White Cloud Hermit) and Trạng Trình.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (chữ Hán: 阮秉謙; 14911585), tên huý là Nguyễn Văn Đạt (阮文達), tên tựHanh Phủ (亨甫), hiệu là Bạch Vân am cư sĩ (白雲庵居士), được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử (雪江夫子), là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16.
Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam-Bắc triều (Lê-Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam.
Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535) và làm quan dưới triều Mạc, ông được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công (程國公) mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Đạo Cao Đài sau này đã phong thánh cho ông và suy tôn ông là Thanh Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn chân nhân. Người đời coi ông là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam đồng thời lưu truyền nhiều câu sấm ký được cho là bắt nguồn từ ông và gọi chung là Sấm Trạng Trình.
Xét một cách toàn diện lịch sử Việt Nam thế kỷ 16, nhiều người đã gọi Nguyễn Bỉnh Khiêm là "cây đại thụ văn hóa dân tộc", hay nói theo cách khác, ông đã được xem là đại diện tiêu biểu nhất của lịch sử phát triển văn hóa Việt Nam trong thế kỷ nhiều biến động lớn này. Cùng với một nhân vật nổi danh khác của xứ Hải ĐôngNguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là một trong số những tác gia văn học thực sự lớn đầu tiên của Việt Nam.


Nguyễn Trãi
Đó là những người mà tác phẩm của họ có sự dồi dào về số lượng, phong phú về thể tài và có ảnh hưởng quan trọng đến tiến trình phát triển của một nền văn học, đặc biệt là trong văn học viết. Một yếu tố quan trọng nữa ở các tác gia này là phần lớn tác phẩm của họ vẫn còn được lưu truyền qua nhiều biến động của lịch sử để hậu thế ngày nay có thể nghiên cứu và đánh giá một cách tương đối toàn diện về sự nghiệp văn chương của họ. Nguyễn Bỉnh Khiêm được nhiều nhà nghiên cứu văn học Việt Nam đánh giá là người xứng đáng kế thừa và phát triển ngôn ngữ thi ca dân tộc kể từ sau thời Nguyễn Trãi, góp phần giúp nó đạt đến mức độ hoàn thiện cao dưới thời Nguyễn Du.


Tượng đài Nguyễn Du
Hai tập thơ của ông là Bạch Vân am thi tập (chữ Hán) và Bạch Vân quốc ngữ thi tập (chữ Nôm) được coi là thành tựu lớn của thơ văn trung đại Việt Nam, mở đầu cho một dòng thơ ca "chạm chân vào hiện thực", đã quan tâm mô tả xã hội dưới góc nhìn đời tư và đời thường, là một cống hiến lớn của văn học thời Mạc đối với tiến trình phát triển và hoàn thiện của thơ văn dân tộc. Xét về nhiều mặt, có thể xem ông là người đi khai phá có công khơi mở nhiều hướng phát triển mới cho thơ ca Việt Nam, trong đó có những dòng thơ mang đậm tính tuyên truyền đạo lý - suy tưởng triết lý - cảm hứng thế sự (tiệm cận với hiện thực đa diện của xã hội đương thời) sẽ có điều kiện phát triển mạnh ở các thế kỷ sau ông như lịch sử thơ văn Việt Nam đã ghi nhận.
Ngoại trừ quãng thời gian dưới 10 năm thời thơ ấu có thể xem là bình yên cuối triều Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống gần trọn thế kỷ 16, một thế kỷ nhiều biến chuyển mang tầm ảnh hưởng chưa từng có trước đó trong lịch sử dân tộc, mà ông vừa là nhân chứng vừa là nhân tố quan trọng tạo nên chúng.
Tượng đồng Lê Thánh Tông ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội)
Là một người xuất thân từ tầng lớp trí thức quan lại nhưng cả cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa bao giờ coi việc làm quan là lý tưởng cao nhất của sự nghiệp, cũng như là một nhà nhân đạo chủ nghĩa ông luôn đề cao tư tưởng thân dân trong sách lược trị nước.
Ông cũng được sử sách và người đời thừa nhận rộng rãi với tư cách là một nhà dự báo, hoạch định chiến lược kỳ tài, với tầm nhìn địa chính trị đi trước thời đại nhiều thế kỷ. Những lời cố vấn nổi tiếng của ông dành cho các tập đoàn quyền lực phong kiến Mạc, -Trịnh, Nguyễn (nói theo lời của danh sĩ Nguyễn Thiếpphiến ngữ toàn tam tính) đã có ảnh hưởng to lớn, mang tính bước ngoặt đối với tiến trình của lịch sử dân tộc và từ đó tác động lớn tới quan hệ địa chính trị của cả khu vực Đông Nam Á trở về sau. Theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu, Nguyễn Bỉnh Khiêm có khả năng là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có một tầm nhìn chiến lược thấu suốt về chủ quyền của đất nước trên biển Đông ngay từ thế kỷ 16. Ông cũng có thể là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ Việt Nam – với tư cách là quốc hiệu của dân tộc – một cách có ý thức nhất thông qua di sản thơ văn của ông còn lưu lại đến ngày nay.

Tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm tại Văn miếu Trấn Biên (Đồng Nai)

Sinh: 1491 làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng)
Mất: 1585 (95 tuổi) làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng)
Bút danh: Trình Quốc Công, Bạch Vân
Công việc: Chính khách, nhà thơ, nhà sư phạm, nhà dự báo chiến lược, nhà hoạt động từ thiện
Quốc gia: Việt Nam
Dân tộc: Kinh
Quốc tịch: Việt Nam
Học vấn: Trạng nguyên Đại Việt (1535)
Giai đoạn sáng tác: Văn học thời Mạc (Văn học trung đại Việt Nam)
Vợ/chồng: 3 vợ
Con cái: 12 con (7 con trai)
Thân nhân: Nguyễn Văn Định (cha), Nhữ Thị Thục (mẹ), Nhữ Văn Lan (ông ngoại), Dương Đức Nhan (cha vợ)

Tiểu sử
Sử liệu Đại Việt thuộc địa phận nhà Mạc cai quản ở thế kỷ 16 do các sử thần triều Mạc biên soạn hầu như thất lạc và không được lưu truyền. Cũng có thể do thời gian cầm quyền ngắn mới có 65 năm ở Thăng Long nên nhà Mạc chưa chú trọng viết sử của triều đại mình. Khi nhà Lê-Trịnh đánh bại nhà Mạc vào năm 1592, thì sử thần nhà Lê Trung Hưng cũng là những người biên soạn hầu hết những dữ liệu lịch sử về thời Mạc như chúng ta biết ngày nay. Các sách chính sử Việt Nam do những sử thần của nhà Lê-Trịnh (bao gồm cả Phạm Công TrứLê Quý Đôn) biên soạn trong các thế kỷ 17 và thế kỷ 18 (như Đại Việt sử ký toàn thư bản bổ sung, Đại Việt thông sử) không ghi chép đầy đủ và rõ ràng về Nguyễn Bỉnh Khiêm, chủ yếu chép 2 sự kiện khi Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ Trạng nguyên và lúc ông xin về quê.



Tượng Lê Quý Đôn tại trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn, Thành phố Hồ Chí Minh
Người đầu tiên có những nghiên cứu và biên soạn tương đối chi tiết về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm là Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân trong bản Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký viết năm 1743.
Bên cạnh bản phả ký của Vũ Khâm Lân, có 2 nguồn thông tin quan trọng về Nguyễn Bỉnh Khiêm được giới nghiên cứu ngày nay (bao gồm nhà nghiên cứu văn hóa Vũ Khiêu) đánh giá cao về độ tin cậy là nguồn thơ văn (chữ Hán và chữ Nôm) của chính ông và nguồn thông tin lịch sử từ các bản văn bia thời Mạc còn được lưu giữ gần như nguyên vẹn xung quanh vùng Tiên Lãng (Hải Phòng), Vĩnh Bảo (Hải Phòng) và Quỳnh Phụ (Thái Bình). Vào năm 2000, đoàn cán bộ của Viện nghiên cứu Hán Nôm tiến hành sưu tầm tư liệu Hán Nôm tại huyện Quỳnh Phụ thuộc tỉnh Thái Bình đã phát hiện 2 tấm bia (có tên Diên Thọ kiều bi kýTu tạo thạch Phật bi ký) thời Mạc do chính Nguyễn Bỉnh Khiêm biên soạn và chứa nhiều thông tin lịch sử rất có giá trị về cuộc đời thực của ông. Chẳng hạn, qua 2 tấm văn bia được phát hiện ở huyện Quỳnh Phụ (Thái Bình), các nhà nghiên cứu có thể xác nhận một sự thật lịch sử là Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được vua Mạc phong tước Trình Quốc công (程國公) từ trước năm 1568, tức là sớm hơn 17 năm trước khi ông qua đời.

Gia thế và những năm thơ ấu

Nguyễn Bỉnh Khiêm nguyên có tên khai sinh là Nguyễn Văn Đạt, sinh ngày 6 tháng 4 năm Tân Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 22 dưới triều Lê Thánh Tông (13 tháng 5 1491), ở thời kỳ được coi là thịnh trị nhất của nhà Lê sơ. Ông sinh tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Cha của ông là giám sinh Nguyễn Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên, nổi tiếng hay chữ nhưng chưa hiển đạt trong đường khoa cử. Mẹ của ông là bà Nhữ Thị Thục, con gái út của quan Tiến sĩ Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan triều Lê Thánh Tông, bà là người phụ nữ có bản lĩnh khác thường, học rộng biết nhiều lại giỏi tướng số, nên muốn chọn một người chồng tài giỏi để sinh ra người con có thể làm nên đế nghiệp sau này, nhưng kén chọn mãi đến khi luống tuổi bà nghe lời cha mới lấy ông Nguyễn Văn Định (người huyện Vĩnh Lại) là người có tướng sinh quý tử.
Quê ngoại của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng). Nội ngoại đôi bên thuộc hai phủ nhưng bên này bên ấy nhìn rõ cây đa đầu làng, chỉ qua con sông Hàn (Tuyết Giang) nối đôi bờ.
Nguyễn Bỉnh Khiêm được giáo dục từ nhỏ trong một gia đình nội ngoại đều có học vấn uyên thâm. Hầu hết những nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều ghi nhận ảnh hưởng lớn của bên họ ngoại trong việc hình thành nhân cách cũng như tài năng của ông. Trong gia phả của họ Nguyễn (thuộc nhánh hậu duệ người con trai thứ 7 của Nguyễn Bỉnh Khiêm) ở thôn An Tử Hạ còn ghi lại: "Phu nhân hồi An Tử Hạ, ỷ phụ thân giáo dưỡng Đạt nhi tam tuế", qua đó cho thấy người mẹ Nhữ Thị Thục và ông ngoại Nhữ Văn Lan có công lớn giáo dưỡng Nguyễn Văn Đạt khi còn nhỏ.

Thời niên thiếu và những năm biến loạn cuối đời Lê sơ

Đến tuổi trưởng thành, nghe tiếng Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều (thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày nay) nổi danh trong giới sĩ phu đương thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cất công vào tận xứ Thanh để tầm sư học đạo. Lương Đắc Bằng từng là một đại thần giữ chức Thượng thư dưới triều Lê sơ nhưng sau khi những kế sách nhằm ổn định triều chính do ông đưa ra không được vua Lê cho thi hành, Lương Đắc Bằng đã cáo quan về quê sống đời dạy học (1509). Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn sáng dạ, thông minh lại chăm chỉ học hành nên chẳng bao lâu đã trở thành học trò xuất sắc nhất của người thầy họ Lương. Bởi vậy mà trước khi qua đời, Bảng nhãn Lương Đắc Bằng đã trao lại cho Nguyễn Bỉnh Khiêm bộ sách quý về Dịch học (Chu Dịch) là Thái Ất thần kinh đồng thời ủy thác người con trai Lương Hữu Khánh của mình cho Nguyễn Bỉnh Khiêm dạy dỗ.

Thi cử và làm quan dưới triều Mạc

Lớn lên trong thời đại loạn (giai đoạn triều Lê sơ rơi vào khủng hoảng, suy tàn), không muốn đi lại vết xe cũ của người thầy Lương Đắc Bằng nên từ khi trưởng thành cho đến khi ra ứng thí (1535), suốt hơn 20 năm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã bỏ qua tới 9 kỳ đại khoa (trong đó có 6 khoa thi dưới triều Lê sơ). Ngay cả khi nhà Mạc lên thay nhà Lê sơ (1527), xã hội dần đi vào ổn định nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không vội vã ra ứng thí (ông không tham dự 2 khoa thi đầu tiên dưới triều Mạc).


Lãnh thổ nằm trong tầm kiểm soát của nhà Mạc (lục) và nhà Lê trung hưng (lam, khoảng năm 1590)
Tới năm Đại Chính thứ sáu (1535) đời Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh) thịnh trị vương đạo nhất triều Mạc, ông mới quyết định đi thi và đậu ngay Trạng nguyên.
Năm ấy ông đã 45 tuổi. Ngay sau khi đỗ đạt, ông được bổ nhiệm làm Đông Các hiệu thư (chuyên việc soạn thảo, sửa chữa các văn thư của triều đình) rồi sau được cử giữ nhiều chức vụ khác nhau như Tả thị lang bộ Hình, Tả thị lang bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ. Nhưng sự qua đời đột ngột của Mạc Thái Tông vào năm Đại Chính thứ 11 khi mới 41 tuổi (1540) đã kết thúc giai đoạn được coi là thịnh trị nhất dưới triều Mạc đồng thời Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng mất đi một chỗ dựa vững chắc cho việc thực hiện những hoài bão trị quốc của mình.

Nhân lúc triều chính nhiễu nhương chia bè kết phái do Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) còn ít tuổi lên thay vua cha nhưng chưa đủ năng lực điều hành chính sự, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dâng sớ trị tội 18 lộng thần (trong đó có cả con rể của ông là Phạm Dao làm Trấn thủ Sơn Nam) nhưng không được vua chấp thuận.

Bởi vậy, năm 1542 ông xin về quê trí sĩ sau 8 năm làm quan tại triều đình.
Sau hai năm về trí sĩ, tới năm Giáp Thìn (1544), vua Mạc lại cho người về phong tước Trình Tuyền Hầu cho ông, rồi sau lại thăng ông lên chức Thượng thư bộ Lại, Thái phó, tước Trình Quốc Công. Do vậy mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Một số nhà nghiên cứu tiểu sử Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng nguồn gốc của tên gọi Trình Tuyền (gắn với tước hiệu Trình Tuyền Hầu và Trình Quốc Công của ông) là bắt nguồn từ tên địa danh của làng Trung Am từ trước chứ không phải là bắt nguồn từ họ tên người theo ý hiểu rằng "Nguyễn Bỉnh Khiêm là người hiểu rõ suối nguồn Lý học của họ Trình (tức Trình DiTrình Hạo) đời Tống bên Trung Quốc".
Gần hai chục năm từ năm 53 tuổi tới 73 tuổi, Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy không ở hẳn kinh đô nhưng vẫn cáng đáng nhiều việc triều chính, lúc bàn quốc sự, lúc theo xa giá nhà vua đi dẹp loạn, vua Mạc tôn kính ông như bậc quân sư. Những việc trọng đại nhà vua thường sai sứ giả về hỏi (trong đó có lời khuyên nổi tiếng đã đi vào sử sách: Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thế (Đất Cao Bằng tuy nhỏ nhưng dựa vào đó có thể kéo dài được vài đời)), có khi lại đón ông lên kinh để bàn việc, xong rồi ông lại trở về làng Trung Am. Ngoài 73 tuổi, ông mới chính thức treo ấn từ quan, về quy ẩn nơi quê nhà.

Trạng nguyên, Tô Khê hầu Giáp Hải một người bạn lâu niên với Nguyễn Bỉnh Khiêm đã làm thơ ca ngợi tài đức cũng như công lao của ông đối với triều Mạc, trong đó có những câu như "Lực phù nhật cốc trụ kình thiên" (năng lực phò vua như cột chống đỡ trời) hay "Tứ triều huân nghiệp nhân trung kiệt" (một tay anh kiệt huân nghiệp trải bốn triều vua).
Trong những năm trí sĩ cũng như thời gian quy ẩn tại quê nhà, ông đã cho dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, làm cầu Nghinh Phong, Trường Xuân cho dân qua lại thuận tiện và mở trường dạy học cạnh sông Tuyết (còn có tên là sông Hàn). Vì vậy mà về sau các môn sinh tôn ông là "Tuyết Giang phu tử". Học trò của ông có nhiều người hiển đạt sau này như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Trương Thời Cử, Đinh Thời Trung, Hàn Giang cư sĩ Nguyễn Văn Chính (con trai cả của ông).

Những năm cuối đời

Ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu, niên hiệu Đoan Thái nguyên niên (1585), ông tạ thế tại quê nhà ở tuổi 95, đây là tuổi thọ hiếm có đương thời. Trước khi qua đời, ông còn dâng sớ lên vua Mạc: "... Thần tính độ số thấy vận nước nhà đã suy, vận nhà Lê đến hồi tái tạo, ý trời đã định, sức người khó theo. Song nhân giả có thể hồi thiên ý, xin nhà vua hết lòng tu nhân phát chính, lấy dân làm gốc, lấy nước làm trọng, trong sửa sang văn trị, ngoài chuyên cần võ công, may ra giữ được cơ nghiệp tổ tiên, thì thần chết cũng được thỏa lòng". Bấy giờ vua Mạc Mậu Hợp cử Phụ chính đại thần Ứng vương Mạc Đôn Nhượng cùng văn võ bá quan về lễ tang để tỏ sự trọng thị. Việc vua Mạc cử người được vua coi như cha về dự lễ tang đã nói lên sự trân trọng rất lớn của triều Mạc với Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Triều đình lại sai cấp ruộng tự điền trăm mẫu, đồng thời cấp ba nghìn quan tiền để lập đền thờ ông tại quê nhà, đích thân vua đề chữ lên biển gắn trước đền thờ là "Mạc Triều Trạng nguyên Tể Tướng Từ".

Gia đình và hậu duệ
Theo bản Phả ký (Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký) do Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân soạn năm 1743, Nguyễn Bỉnh Khiêm có cả thảy ba người vợ và 12 người con, trong đó có bảy người con trai. Cũng giống như cha, hầu hết các con trai của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều theo phò tá nhà Mạc. Bởi vậy sau khi nhà Mạc bị thất thủ dưới tay nhà Lê-Trịnh (1592), con cháu ông đều phải thay tên đổi họ, li tán thập phương.
Một chi họ do người con trai cả của ông là Hàn Giang hầu Nguyễn Văn Chính đứng đầu đã di cư về vùng Trường Yên thuộc đất Hoa Lư, Ninh Bình ngày nay và đổi từ họ Nguyễn sang họ Giang nhằm tránh sự trả thù của nhà Lê-Trịnh.
Lúc sinh thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cử người con trai thứ 7 (con trai út) dẫn người cháu đội bát hương sang sinh cơ lập nghiệp ở làng An Tử Hạ, xã Kiến Thiết bên quê ngoại để trông coi phần mộ và thờ phụng ông bà ngoại Nhữ Văn Lan cùng mẹ Nhữ Thị Thục rồi về sau tạo thành một chi họ Nguyễn hậu duệ của Trạng Trình trên đất Tiên Lãng ngày nay.
Trong suốt thời kỳ dài cho tới nay, việc xác định địa điểm an táng thật của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một vấn đề được nhiều thế hệ con cháu ông và các nhà nghiên cứu huyền học - tâm linh (dịch lý, phong thủy, ngoại cảm...) tại Việt Nam quan tâm, đặc biệt kể từ sau khi đền thờ Trạng Trình được tôn tạo và mở rộng thành quần thể di tích lịch sử - văn hoá vào năm 2000. Tuy nhiên cho đến thời điểm khu di tích được Chính phủ xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt vào đầu năm 2016, vẫn chưa có công bố chính thức của các cơ quan có thẩm quyền trước các phương tiện truyền thông. Không ít nhà nghiên cứu về Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng việc đi tìm mộ thật của ông sẽ mãi là một bí ẩn cũng như nhiều bí ẩn hay những thắc mắc chưa được giải đáp xung quanh cuộc đời và sự nghiệp của một trong những con người có ảnh hưởng nhất của lịch sử trung đại Việt Nam.

Tác phẩm

Thể loại sáng tác

Thơ chữ Hán

Bài chi tiết: Bạch Vân am thi tập
Về thơ chữ Hán, ông có Bạch Vân am thi tập, theo ông cho biết là có khoảng một nghìn bài, nay còn lại khoảng 800 bài. Trong lời đề tựa cho tập thơ chữ Hán của mình, ông đã viết: "... Tuy nhiên cái bệnh yêu thơ lâu ngày tích lại chưa chữa được khỏi vậy. Mỗi khi được thư thả lại dậy hứng mà ngâm vịnh, hoặc là ca tụng cảnh đẹp đẽ của sơn thủy, hoặc là tô vẽ nét thanh tú của hoa trúc, hoặc là tức cảnh mà ngụ ý, hoặc là tức sự mà tự thuật, thảy thảy đều ghi lại thành thơ nói về chí, được tất cả nghìn bài, biên tập thành sách, tự đặt tên là Tập thơ am Bạch Vân" (Bạch Vân am thi tập tiền tự).

Thơ chữ Nôm

Về thơ chữ Nôm, ông có Bạch Vân quốc ngữ thi tập (còn gọi là Trình quốc công Bạch Vân quốc ngữ thi tập), chính ông ghi rõ sáng tác từ khi về nghỉ ở quê nhà, nhưng không cho biết có bao nhiêu bài, hiện còn lại khoảng 180 bài. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm làm theo thể Đường luật và Đường luật xen lục ngôn nhưng ông thường không đặt tiêu đề cụ thể cho từng bài mà việc đó được thực hiện bởi những nhà biên soạn sau này. Theo Phả ký (Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký) của Vũ Khâm Lân, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có bài phú bằng quốc âm nhưng nay đã bị thất lạc.

Các thể loại khác

Ngoài di sản văn học với hơn 800 bài thơ (cả chữ Hánchữ Nôm) còn lưu lại đến ngày nay, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng để lại nhiều bài văn bia (bi ký) nổi tiếng như Trung Tân quán bi ký, Thạch khánh ký, Tam giáo tượng bi minh... Hầu hết bia đá ông cho khắc lúc sinh thời đã bị thất lạc hay hư hại qua hàng thế kỷ nhưng nhiều bài văn bia nhờ được người đương thời chép lại mà còn lưu đến hôm nay. Một số văn bia do Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn và cho khắc đá đã được tìm thấy vào năm 2000 tại huyện Quỳnh Phụ của tỉnh Thái Bình (nằm giáp với huyện Vĩnh Bảo của Hải Phòng qua sông Hóa).
Trong dân gian còn lưu hành nhiều câu sấm Trạng. Các tập sấm ký Nôm thường mang tên Trạng Trình (Sấm Trạng Trình) và phần lớn viết theo thể lục bát như Trình quốc công sấm ký, Trình tiên sinh quốc ngữ. Sấm Trạng Trình là một hiện tượng văn học cần phải được tìm hiểu và xác minh thêm.

Giá trị tư tưởng và nghệ thuật

Bài quá dài -> phải cắt bớt

Di ngôn, bút tích
  • Ôi, nói tâm là nói về cái chỗ mà chí đạt tới vậy, mà thơ lại là để nói chí. Có kẻ chí để ở đạo đức, có kẻ chí để ở công danh, có kẻ chí để ở sự nhàn dật. Tôi lúc nhỏ chịu sự dạy dỗ của gia đình, lớn lên bước vào giới sĩ phu, lúc về già chí thích nhàn dật, lấy cảnh núi non sông nước làm vui, rất là vụng về trong nghề thơ. Tuy nhiên, cái bệnh yêu thơ lâu ngày tích lại chưa chữa được khỏi vậy, mỗi khi được thư thả lại dậy hứng mà ngâm vinh, hoặc là ca tụng cảnh đẹp đẽ của sơn thủy hoặc là tô vẽ nét thanh tú của hoa trúc, hoặc là tức cảnh mà ngụ ý hoặc là tức sự mà tự thuật, thảy thảy đều ghi lại thành thơ nói về chí, được cả thảy một nghìn bài, biên tập thành sách, tự đặt tên là Tập thơ am Bạch Vân. (Bạch Vân am thi tập tự)
Bài quá dài -> phải cắt bớt

Tiên tri và sấm ký
Khi theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, ông được truyền cho quyển Thái Ất thần kinh từ đó ông tinh thông về lý học, tướng số... Sau này, dù Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn làm quan nhưng vua Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) vẫn phong cho ông tước Trình Tuyền hầu vào năm Giáp Thìn (1544), ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn ngành lý học, giống như Trình Y Xuyên, Trình Minh Đạo bên Trung Hoa.
Sau đó được thăng chức Thượng thư bộ Lại tước hiệu Trình Quốc công. Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra đến 500 năm sau, được dân gian truyền tụng và suy tôn là "nhà tiên tri" số một của Việt Nam.
Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm, còn gọi là "Sấm Trạng Trình" là những lời tiên tri của Nguyễn Bỉnh Khiêm về các biến cố chính của dân tộc Việt trong khoảng 500 năm (từ năm 1509 đến khoảng năm 2019). Đây là những dự báo thiên tài, hợp lý, tùy thời, tự cường, hướng thiện và lạc quan theo lẽ tự nhiên "thuận thời thì an nhàn, trái thời thì vất vả". "Trạng Trình đã nắm được huyền cơ của tạo hóa" (lời Nguyễn Thiếp – danh sĩ thời Lê mạt). "An Nam lý học hữu Trình Tuyền" (lời Chu Xán- sứ giả của triều Thanh). Sấm ký, giai thoại và giải đoán chứa đựng nhiều thú vị về một trí tuệ bậc Thầy kỳ tài muôn thuở, nặng lòng yêu nước thương dân và sâu sắc hiếm thấy.
Bài quá dài -> phải cắt bớt

Ảnh hưởng và di sản

Những đóng góp trong tiến trình phát triển của ngôn ngữ văn chương và lịch sử tư tưởng Việt Nam

Là một trung thần của nhà Mạc, triều đại đối địch hoàn toàn với quyền lợi của các dòng họ thế lực Lê-Trịnh-Nguyễn (vốn cùng phát tích từ xứ Thanh) của nhà Lê trung hưng và cả nhà Nguyễn về sau, bởi vậy sau khi nhà Mạc thất thủ (1592), sự nghiệp cũng như di sản văn hóa của Nguyễn Bỉnh Khiêm không tránh được cái nhìn thiên kiến của đại bộ phận những sử gia, học giả dưới thời cai trị của các họ Lê-Trịnh rồi họ Nguyễn trong nhiều thế kỷ.

Bài quá dài -> phải cắt bớt

Sách lược phân vùng ảnh hưởng địa chính trị


Thác Bản Giốc vào mùa mưa nhìn từ Cao Bằng, Việt Nam. Cao Bằng, như đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu phong thuỷ, được coi là “đất ẩn long”. Thời kỳ trấn giữ của con cháu nhà Mạc trên đất Cao Bằng (1592-1677), theo kế sách của Nguyễn Bỉnh Khiêm trước khi mất, đã góp phần lớn thu hẹp bớt khoảng cách phát triển về nhiều mặt giữa vùng núi phía bắc thưa thớt dân cư và các khu vực khác của Việt Nam.


Dãy núi Hoành Sơn, nhìn từ Hà Tĩnh. Đèo Ngang nằm trên dãy Hoành Sơn, một nhánh tách ra từ dãy Trường Sơn chạy ngang ra biển Đông.
Bản đồ Đàng Trong  Đàng Ngoài (1757). Chỉ trong khoảng 2 thế kỷ kể từ thời Nguyễn Hoàng (1558), Đàng Trong đã gần như hình thành một quốc gia riêng biệt, kiểm soát gần 3/5 lãnh thổ Việt Nam ngày nay, xây dựng một cấu trúc kinh tế - xã hội năng động hơn hẳn Đàng Ngoài do nhà Lê-Trịnh cai trị, và hình thành một loạt các trung tâm đô thị mới, bao gồm phủ Gia Định (tiền thân của đô thị Sài Gòn ngày nay).

Nguyễn Bỉnh Khiêm được sử sách và người đời thừa nhận rộng rãi với tư cách là một nhà dự báo, hoạch định chiến lược kỳ tài, với tầm nhìn địa chính trị đi trước thời đại nhiều thế kỷ. Những lời cố vấn nổi tiếng của ông dành cho các dòng họ Mạc, Trịnh, Nguyễn (nói theo lời của danh sĩ Nguyễn Thiếpphiến ngữ toàn tam tính) đã có ảnh hưởng to lớn, mang tính bước ngoặt đối với cỗ xe tiến trình của lịch sử Việt Nam (trong đó bao gồm quan hệ Việt Nam – Trung Quốc) và từ đó tác động lớn tới quan hệ địa chính trị của cả khu vực Đông Nam Á từ thời kỳ trung đại (thế kỷ 16) trở về sau.

Bài quá dài -> phải cắt bớt

Giai đoạn cai trị của họ Nguyễn ở Đàng Trong kể từ thời Nguyễn Hoàng (1558) cho tới thời Minh Mạng (1820-1841) cũng đưa tới một hệ quả lịch sử mang tính bước ngoặt là nó đã thay đổi căn bản nhận thức của người Việt về tầm quan trọng của chủ quyền biển đảo đối với an ninh quốc phòng cũng như lợi ích kinh tế lâu dài của dân tộc. Nó cho thấy một tầm nhìn chiến lược rõ ràng của những nhà cai trị họ Nguyễn (bao gồm các đời chúa Nguyễnvua nhà Nguyễn) thông qua những động thái cụ thể thể hiện ý thức xác lập và thực thi chủ quyền lịch sử của người Việt đối với hai quần đảo Hoàng SaTrường Sa trước khi có sự tranh chấp chủ quyền từ những thế lực khác.

Tầm nhìn chiến lược về biển Đông



Lịch sử đã không ít lần có cơ hội kiểm chứng những dự báo chiến lược với tầm nhìn địa chính trị vượt trước thời đại nhiều thế kỷ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hai câu thơ “Vạn lý Đông minh quy bả ác / Ức niên Nam cực điện long bình”[61] trong bài “Cự ngao đới sơn” (Bạch Vân am thi tập) ở thế kỷ 16 của ông có thể xem là lời đúc kết hàm súc nhất về tầm quan trọng chiến lược của quan hệ địa chính trị trên biển Đông (còn được gọi bằng tên quốc tế là biển Hoa Nam hay biển Nam Trung Hoa) đối với an ninh quốc phòng (chủ quyền biển đảo) của Việt Nam và cả khu vực Đông Nam Á ngày nay.
Bài thơ “Cự ngao đới sơn” nằm trong tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập được Nguyễn Bỉnh Khiêm viết cách đây gần 500 năm, được GS. Đinh Gia Khánh dịch thơ đã lâu, song gần đây, bài thơ được nhiều người quan tâm nghiên cứu.[22] Đặc biệt từ khi chính quyền Trung Quốc bộc lộ rõ tham vọng xâm lấn, thuộc địa hoá biển Đông, chiếm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, vốn là một thực tế lịch sử được sử liệu các triều đại Trung Quốc, Việt Nam và nguồn tư liệu phong phú về hàng hải của nhiều quốc gia phương Tây thừa nhận.
------------------
Bạch Vân am thi tập
Bài quá dài -> phải cắt bớt

Kết tinh Tam giáo Nho-Lão-Phật trong nhân cách và tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nếu Nguyễn Trãi có nhiều lần đọc "Pháp Bảo đàn kinh" (tác giả từng viết "Môn Thiền nhất phái Tào Khê thủy", "Vô thụ phi đài ngữ nhược tâm" – "Du Nam Hoa tự"); Nguyễn Du sau này đã viết "Ngã độc Kim Cương thiên biến kinh" (Tụng đọc "Kinh Kim Cương" hơn nghìn vạn lần) ("Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài") thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có bài "Độc Phật kinh hữu cảm". Ông đã chịu ảnh hưởng Phật giáo khá nhiều trong cuộc đời và sáng tác.

Bài quá dài -> phải cắt bớt

Nguồn gốc tên gọi Việt Nam

Cho đến trước thế kỷ 19 (trước khi nhà Nguyễn được thành lập), trong số các tác gia thời trung đại của Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là người có mối liên hệ mật thiết nhất với hai chữ Việt Nam thông qua các trước tác của ông hoặc có liên quan trực tiếp với ông. Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải (Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng con người thuộc Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam khẳng định điều này. Dù chưa có những bằng chứng chắc chắn để khẳng định Nguyễn Bỉnh Khiêm có phải là người đầu tiên sử dụng danh xưng Việt Nam với tư cách là quốc hiệu của dân tộc hay không nhưng nhiều nhà nghiên cứu hiện nay cũng đồng quan điểm với ông Nguyễn Phúc Giác Hải khi cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể là người đầu tiên sử dụng danh xưng Việt Nam một cách có ý thức nhất để gọi tên của đất nước.
Trong các tác phẩm liên quan đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, có ít nhất bốn lần danh xưng Việt Nam đã được sử dụng một cách có chủ ý. Điều này cũng góp phần bác bỏ quan điểm cho rằng hai chữ Việt Nam chỉ được Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng một cách ngẫu nhiên hay tùy hứng mà thôi. Trong kho lưu trữ của Viện Nghiên cứu Hán-Nôm hiện còn lưu giữ nhiều tài liệu cổ (chép tay) về Nguyễn Bỉnh Khiêm có sử dụng danh xưng Việt Nam như một quốc hiệu tiền định. Ngay trong phần đầu của tập Sấm ký có tựa đề Trình tiên sinh quốc ngữ, tên gọi Việt Nam đã được nhắc đến: "Việt Nam khởi tổ xây nền". Danh xưng Việt Nam còn được sử dụng một lần nữa trong bài thơ chữ Hán của ông có tựa đề Việt Nam sơn hà hải động thưởng vịnh (Vịnh về non sông đất nước Việt Nam). Ngoài ra còn có hai bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi hai người bạn thân đồng thời là hai Trạng nguyên của triều Mạc, cho thấy tên gọi Việt Nam được dùng như một sự chủ ý. Bài thứ nhất gửi Trạng nguyên, Thư Quốc công Nguyễn Thiến, hai câu cuối Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: Tiền trình vĩ đại quân tu ký / Thùy thị phương danh trọng Việt Nam (Tiền đề rộng lớn ông nên ghi nhớ, Ai sẽ là kẻ có tiếng thơm được coi trọng ở Việt Nam?). Bài thứ hai gửi Trạng nguyên, Tô Khê hầu Giáp Hải, hai câu cuối Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng viết: Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang tại / Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam (Cùng ngửa trông ngôi sao sáng trên bầu trời, Trước sau soi ánh sáng rực rỡ vào nước Việt Nam). Các bài thơ trên còn được chép trong tập thơ chữ Hán của ông là Bạch Vân am thi tập.

Nguyễn Bỉnh Khiêm với tư cách một nhà hoạt động từ thiện
Bài quá dài -> phải cắt bớt

Đánh giá về Nguyễn Bỉnh Khiêm qua các thời đại
Bài quá dài -> phải cắt bớt

Trạng nguyên Giáp Hải, một công thần bậc nhất triều Mạc, đã viết thơ ca ngợi tài lý học của Nguyễn Bỉnh Khiêm và tên tuổi của ông trong giới Nho gia đương thời cũng như công lao của ông đối với triều Mạc, trong đó có những câu sau:
Bản phiên âm Hán-Việt:
Chu Liêm Khê hậu hữu Y Xuyên,
Lý học vu kim hữu chính truyền.
Danh quán Nho gia lôi phấn địa,
Lực phù nhật cốc trụ kình thiên.
Tứ triều huân nghiệp nhân trung kiệt,
Cửu lão quang nghi thế thượng tiên.
Ký thủ huyền xa vinh lý hậu,
Thanh phong thác hứng nhập ngâm biên.
Bản dịch nghĩa:
Sau Liêm Khê lại có Y Xuyên,
Lý học ngày nay, ông đích thực là bậc chính truyền.
Tiếng tăm ông lừng lẫy làng nho như sấm rền mặt đất,
Năng lực của ông phò vua như cột chống đỡ trời.
Huân nghiệp trải bốn triều, ông là tài năng kiệt xuất giữa cõi người,
Dung nghi rực rỡ của tuổi chín mươi, ông khác gì vị tiên nơi trần thế.
Xe đã treo về vinh xóm cũ,
Thảnh thơi gió mát hứng thơ nhàn.
Bản dịch thơ:
Sau Liêm Khê lại có Y Xuyên,
Lý học ngày nay bậc chính truyền.
Long bảng đứng đầu tên sấm dậy,
Chống trời cột vững sức cường kiên.
Bốn triều nghiệp lớn tay anh kiệt,
Chín lão dung nghi, dáng khách tiên.
Xe đã treo về, vinh xóm cũ,
Thảnh thơi gió mát, hứng thơ nhàn.
Bài quá dài -> phải cắt bớt

Những quan điểm phê bình

Khi so sánh Nguyễn Bỉnh Khiêm với một nhân vật lỗi lạc khác của trấn Hải ĐôngNguyễn Trãi, các nhà nghiên cứu đều không quên so sánh những khác biệt cơ bản về thời đại sống của hai danh nhân này. Xét về nhiều mặt, thời của Nguyễn Bỉnh Khiêm phát triển và phức tạp hơn hẳn thời của Nguyễn Trãi, đặc biệt là các quan hệ xã hội và kinh tế. Thời của Nguyễn Trãi, kẻ sĩ gần như chỉ có một lựa chọn trên con đường kiến lập công danh sự nghiệp là hướng về triều đình cai trị ở Thăng Long. Cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm trong giai đoạn khủng hoảng trầm trọng của chế độ phong kiến tập quyền Việt Nam, kẻ sĩ đồng thời có vài con đường lập nghiệp khác nhau như những lựa chọn của Nguyễn Dữ, Dương Văn An, Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Đào Duy Từ... Đánh giá về Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng phụ thuộc vào cách nhìn qua những thời đại khác nhau về triều Mạc - triều đại mà ông đã tận trung cho đến cuối đời nhưng là triều đại có nhiều xung đột lịch sử gay gắt với những triều đại quyền lực phát tích từ xứ Thanh như nhà Lê sơ, nhà Lê-Trịnh, và cả nhà Nguyễn sau này. Nhìn nhận về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bên cạnh những dòng ca ngợi thường thấy về nhân cách, ảnh hưởng lịch sử, đóng góp cho văn hóa dân tộc thì người ta cũng không quên phê bình cái nhìn trong thơ văn của ông với chính thời đại ông. Tác giả Trần Khuê (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) trong “Cần hiểu đúng Nguyễn Bỉnh Khiêm và Vương triều Mạc” nhìn nhận:
Bài quá dài -> phải cắt bớt

Hình tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tôn giáo

Cao Đài Tam Thánh ký hòa ước. Từ trái sang phải: Tôn Dật Tiên, Victor Hugo và Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là danh nhân văn hóa duy nhất trong lịch sử Việt Nam cho tới nay được công nhận là một vị thánh của một tôn giáo chính thức. Ông được suy tôn là Thanh Sơn Đạo sĩ (còn được gọi là Thanh Sơn Chơn nhơn), là một trong ba vị thánh linh thiêng của Đạo Cao Đài. Bức tranh Tam Thánh ký hòa ước được lưu thờ tại Tòa Thánh Tây Ninh có vẽ chân dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm bên cạnh Victor HugoTôn Trung Sơn.

Những hiện vật lịch sử gắn liền với Nguyễn Bỉnh Khiêm được lưu giữ tới nay
Ngoài khu vực di tích và đền thờ Trình Quốc công thuộc địa phận 2 huyện Vĩnh Bảo (quê nội Nguyễn Bỉnh Khiêm) và Tiên Lãng (quê ngoại Nguyễn Bỉnh Khiêm) của TP. Hải Phòng, các nhà nghiên cứu Hán Nôm tại Việt Nam đã phát hiện một số di vật lịch sử có giá trị lớn không chỉ về Nguyễn Bỉnh Khiêm mà còn về thời Mạc nằm trong địa phận 2 huyện Thái ThụyQuỳnh Phụ (sau khi hợp nhất 2 huyện cũ là Quỳnh CôiPhụ Dực) của tỉnh Thái Bình tiếp giáp với huyện Vĩnh Bảo của TP. Hải Phòng.
Bài quá dài -> phải cắt bớt

Giai thoại
Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm có tên là Văn Đạt. Mẹ ông là Nhữ thị vốn tinh thông tướng số và có ước vọng là lấy chồng làm vua hoặc có con làm vua. Do đó trong quá trình dạy dỗ, bà đã truyền cho ông mơ ước ấy rồi.
Một hôm khi bà đi vắng, ông Định ở nhà với con và tình cờ hát:
"Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung".
Không ngờ Nguyễn Bỉnh Khiêm nhanh nhảu ứng đối lại ngay:
"Vịn tay tiên, nhè nhẹ rung".
Khi bà về đến nhà, ông rất tâm đắc kể lại chuyện ấy thì bị bà trách nuôi con mong làm vua làm chúa cớ sao lại mong làm bầy tôi (nguyệt chỉ bầy tôi).
Lại một lần khác bà dạy Nguyễn Bỉnh Khiêm câu hát
"Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con tựa ngai vàng".
Ông Định hoảng sợ vì nếu triều đình hay được sẽ mất đầu về tội khi quân nên sửa lại:
"Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con vịn ngai vàng".
Nhiều lần như vậy, bà rất bất bình nên bỏ đi. Nguyễn Bỉnh Khiêm lớn lên chỉ được ở cạnh bố.
Tương truyền sau đó bà lấy một người họ Phùng và sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Sau chính Khắc Khoan trở thành học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Bà Nhữ Thị vẫn không thoả chí vì họ Phùng không có chí làm vua.
Mãi sau này bà Nhữ tình cờ gặp một trang nam nhi làng chài đang kéo lưới mà bà tiếc nuối vì cho rằng người này có số làm vua, còn tuổi mình đã cao. Người đó chính là Mạc Đăng Dung, vị vua khai triều của nhà Mạc.

Ghi nhận

Không gian phía trước tượng đài Trạng Trình trong quần thể Khu di tích và đền thờ Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.



Một góc vườn tượng trong quần thể Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.



Bài quá dài -> phải cắt bớt

THÁI ẤT THẦN KINH - Nguyễn Bỉnh Khiêm- Nguyễn Hoàng và Trịnh Kiểm
[video] https://www.youtube.com/watch?v=ATrXIw4QhgY[/video]



No comments:

Post a Comment