Việt Nam Cộng hòa
Việt Nam Cộng hòa
1955–1975
Khẩu hiệu
Tổ quốc – Danh dự –
Trách nhiệm
Quốc ca
https://s20.postimg.org/z4vne7sot/Location_South_Vietnam.png
Tôn giáo Vô thần, Phật giáo, Công giáo
Tổng thống
Thượng viện Thượng viện Việt Nam Cộng Hòa
Hạ viện Hạ viện Việt Nam Cộng Hòa
Thành lập 26 tháng 10 1955
Bãi bỏ 30 tháng 4 1975
1973 173.809 km² (67.108
sq mi)
1973 (ước tính) 19.370.000
Mật độ 111,4 /km² (288,6 /sq
mi)
Việt Nam Cộng hòa (1955–1975) là một cựu chính thể được thành lập
từ Quốc gia Việt
Nam (1949–1955), với thủ đô là Sài Gòn. Trong các tài liệu nước ngoài, chính phủ
này cũng được gọi là South Vietnam (Nam Việt Nam) kể từ khi Hiệp
định Genève được
ký kết cho tới năm 1975, khi Việt Nam bị chia cắt thành hai vùng tập kết quân
sự.
Nguồn gốc của Việt Nam Cộng hòa bắt nguồn
từ quá trình phi thực dân hóa tại bán đảo Đông Dương, với một phần ba lãnh thổ
Việt Nam thuộc về Nam Kỳ, và một phần ba thuộc về Trung Kỳ. Sau Thế chiến II, phong trào Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã tuyên
bố thành lập nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, với bản
Tuyên ngôn Độc lập trích dẫn một số nội dung từ bản Tuyên ngôn độc lập của nước
Mỹ năm 1776.
Năm 1949, một nhóm chính trị gia chống cộng
lập ra chính quyền thân Pháp với Bảo Đại là Quốc trưởng lãnh
đạo.
Chân
dung Vua Bảo Đại
Việt Nam Cộng hòa thành lập ngày 26 tháng
10 năm 1955, với Ngô Đình Diệm là Tổng thống đầu
tiên, sau khi có một thời gian ngắn dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại, người sau đó bị phế truất
và phải lưu vong tại Pháp.
Chính phủ này có quan hệ
ngoại giao với Hoa Kỳ và 77 quốc gia.
Năm 1957, Việt Nam Cộng hòa đệ đơn xin gia
nhập Liên Hiệp Quốc nhưng đề nghị này
bị Liên Xô phủ quyết.
Sau khi Diệm bị ám sát trong một
cuộc đảo chính do tướng Dương Văn Minh cầm đầu năm 1963,
một loạt chính quyền quân sự được thành lập nhưng chỉ tồn tại trong một thời
gian ngắn.
Cựu
tướng Dương Văn Minh
trong vai trò Tổng thống VNCH
trong vai trò Tổng thống VNCH
Tướng Nguyễn Văn Thiệu sau đó nắm quyền
trong giai đoạn 1967-1975 với một chính quyền dân sự do người Mỹ hậu thuẫn.
Tổng
thống Việt Nam Cộng hòa
Nguyễn Văn Thiệu
Nguyễn Văn Thiệu
Sự khởi đầu của chiến tranh Việt
Nam diễn
ra vào năm 1959 với sự nổi dậy của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (Mỹ gọi là Việt
Cộng) với viện trợ trang bị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Liên Xô và các nước
trong Hiệp ước Warsaw, cùng với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Bắc Triều Tiên.
Cuộc chiến leo thang về quy mô khi các lực
lượng quân đội Hoa Kỳ trực tiếp tham gia
vào cuộc chiến năm 1965, tiếp theo là các đơn vị bộ binh Hoa Kỳ để bổ sung cho
đội ngũ cố vấn quân sự hướng dẫn các lực lượng của Quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Một chiến dịch ném bom thường xuyên ở miền
Bắc Việt Nam đã được các phi đội không quân Hoa Kỳ thực hiện từ các tàu sân bay
của Hoa Kỳ từ năm 1966 và 1967.
Chiến tranh đã đạt đến đỉnh cao trong sự kiện Tết Mậu
Thân tháng
2 năm 1968, khi có hơn 600.000 lính Mỹ và đồng minh (Úc, New Zealand, Hàn Quốc,
Thái Lan) cùng 600.000 lính Việt Nam Cộng hòa tham chiến ở miền Nam Việt Nam,
cùng với hải quân và không quân Hoa Kỳ bắn phá miền Bắc Việt Nam.
Sau một thời gian đình chiến với Hiệp định
Paris ký tháng 1 năm 1973, cuộc chiến tranh Việt Nam tiếp tục cho đến khi quân
đội của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và quân đội của Cộng
hòa miền Nam Việt Nam tiến
vào Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Việt Nam Cộng hòa sụp đổ và toàn bộ miền
Nam Việt Nam thuộc kiểm soát của chính phủ Cộng
hòa miền Nam Việt Nam, tiếp theo đó là việc thống nhất hai miền
vào ngày 2 tháng 7 năm 1976.
Lịch
sử
Quốc gia Việt Nam 1949-1955
Đệ Nhất Cộng hòa 1955-1963
Sau khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ và
ký Hiệp định Geneve, Quốc gia Việt Nam cùng Pháp tập
kết về vùng phía Nam vĩ tuyến 17 của Việt Nam.
Theo kế
hoạch, quân Pháp sẽ rút dần sau 2 năm và Việt Nam sẽ
tiến hành tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Tuy
nhiên, báo cáo của CIA cho Tổng thống Mỹ Dwight Eisenhower thấy rằng khoảng 80% dân
số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu cuộc tổng tuyển cử được thi hành. Không
thể chấp nhận việc Hồ Chí Minh sẽ thắng cử và lập chính
phủ trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, Hoa Kỳ đã hậu thuẫn Quốc gia Việt Nam để cuộc tuyển cử không
thể diễn ra nhằm chia cắt Việt Nam vĩnh viễn thành 2 quốc
gia. Hoa Kỳ muốn có một chính phủ chống Cộng tồn tại ở miền Nam Việt Nam, bất kể chính phủ đó có tôn
trọng dân chủ hay không
Năm 1954, đội bán quân sự của Mỹ do tướng Edward
Lansdale (sĩ quan cao cấp của Tình báo Mỹ và
đã làm cố vấn cho Pháp tại Việt Nam từ 1953) đã huấn luyện các lực lượng vũ trang
của Quốc gia Việt Nam; xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ quân sự tại
Philippines; bí mật đưa một lượng lớn vũ khí và thiết bị quân sự vào Việt Nam;
giúp đỡ phát triển các kế hoạch "bình định Việt
Minhvà các vùng chống đối" Ngày
13-12-1954, Mỹ và Pháp ký kết văn kiện cho phép các cố vấn quân sự Mỹ thay thế
dần cho sĩ quan Pháp tham gia huấn luyện quân đội Quốc gia Việt Nam ở
miền Nam Việt Nam. Tháng 1/1955, Mỹ chính thức viện trợ quân sự trực tiếp cho
Quốc gia Việt Nam. Thượng nghị sĩ (4 năm sau trở thành Tổng thống) John F.
Kennedy tuyên bố vào ngày 1/6/1956:
“Nếu chúng ta không phải
là cha mẹ của nước Việt Nam bé nhỏ [chỉ Việt Nam Cộng hòa] thì chắc chắn chúng
ta cũng là cha mẹ đỡ đầu của nó. Chúng ta là chủ tọa khi nó ra đời, chúng ta viện
trợ để nó sống, chúng ta giúp định hình tương lai của nó (…). Đó là con đẻ của
chúng ta - chúng ta không thể bỏ rơi nó, chúng ta không thể không biết tới những
nhu cầu của nó”.
Trong những năm 1954–1956, Mỹ đã bỏ ra 414 triệu USD giúp trang
bị cho các lực lượng thường trực Quốc gia Việt Nam, gồm 170.000 quân và lực
lượng cảnh sát 75.000 quân; 80% ngân sách quân sự của Quốc gia Việt Nam là do
Mỹ viện trợ. Từ năm 1955 đến 1960, có tất cả 800 chuyến tàu chở vũ khí và
phương tiện quân sự của Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Số viện trợ này giúp Quốc gia
Việt Nam đủ sức duy trì bộ máy hành chính và quân đội khi không còn viện trợ của
Pháp. Quân đội Quốc gia Việt Nam dần thay thế chiến thuật và vũ khí của Pháp
bằng của Mỹ.
Vận động trưng cầu dân ý năm 1955 đưa Ngô
Đình Diệm lên nắm quyền
Đến lúc này lại xảy ra mâu thuẫn giữa Thủ tướng Ngô Đình Diệm với Quốc trưởng Bảo Đại (nguyên là Hoàng đế nhà
Nguyễn). Năm 1955, nhờ gian lận trong
một cuộc trưng cầu dân ý (mà
các tài liệu ngày nay của Chính phủ Việt Nam thường gọi là "trò
hề trưng cầu dân ý"), Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã phế truất Quốc
trưởng Bảo Đại, lên làm Tổng thống đầu
tiên của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Sau
đó, Quốc gia Việt Nam tổ chức bầu cử Quốc hội Lập hiến. Quốc hội này ban
hành Hiến pháp thành lập Việt Nam Cộng hòa trên cơ
sở kế thừa Quốc gia Việt Nam, thủ đô là thành phố Sài Gòn, ngày ban hành Hiến pháp 26
tháng 10 trở thành ngày Quốc khánhcủa Đệ Nhất Cộng hòa. Việt
Nam Cộng hòa theo thể chế chính trị đa đảng, kinh tế tư bản chủ nghĩa và được Mỹ giúp đỡ, bảo
vệ để chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam tại miền Nam.
Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông đề ra chủ nghĩa "Cần lao Nhân vị", duy trì tình trạng đối
lập với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong
khoảng 5 năm, Việt Nam Cộng hòa đã có một số thành tựu: xã hội ổn
định, kinh tế phát triển, định cư gần 1 triệu dân di cư từ miền Bắc, thành lập Viện Đại học Huế...
Tuy nhiên, chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm bị giới đối lập
xem là chính phủ độc tài gia
đình trị, dần dần tích lũy nhiều mâu thuẫn nội bộ. Từ năm 1955 và đặc biệt là
từ 1959, cùng với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ (do lo ngại ảnh hưởng của phong
trào Việt Minh), chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện
chính sách đàn áp những người cộng sản, tố cộng diệt cộng trên
toàn bộ Nam Việt Nam, dựa theo Luật
10-59 (đạo luật quy định việc thiết lập các phiên tòa quân sự
đặc biệt để xét xử những phạm nhân bị tình nghi là ủng hộ Việt
Minh và chủ nghĩa cộng sản) Phong
trào Đồng khởi năm 1960 (do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo) và cuộc đảo chính hụt năm 1960 là
những đòn giáng mạnh vào chế độ Ngô Đình Diệm.
Mâu thuẫn tôn giáo cũng trở nên gay gắt. Sự kiện Phật Đản năm 1963, việc
cấm treo cờ Phật giáo ở Huế đã
gây ra phản ứng mạnh mẽ từ các Phật tử, dẫn đến các hoạt động đàn áp Phật giáo
của chính quyền. Việc Thượng toạ Thích Quảng Đức tự thiêu giữa đường phố
Sài Gòn cùng những phát biểu của bà Ngô Đình Nhu (tức dân biểu Trần Lệ Xuân) làm chế độ Ngô Đình Diệm bị báo chí phương Tây đả kích kịch liệt và mất hết mọi sự
ủng hộ từ phương Tây.
Xác Ngô Đình Diệm bị quân đảo chính bắn chết
ở trong chiếc xe thiết giáp M113
Ngày 1 tháng
11 năm 1963, nền Đệ Nhất Cộng hòa bị lật đổ bởi một nhóm quân
nhân dưới sự chỉ huy của một số tướng lĩnh (trong đó có tướng Dương Văn Minh); về sau, ngày này được xem là
ngày Quốc khánh của Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam. Cả ba
anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn đều bị giết. Theo băng ghi âm tại Nhà
Trắng, tổng thống Kennedy nói rằng ông bàng hoàng về cái chết của 2 anh em Diệm
và Nhu, cái chết của hai người thật là kinh khủng.
Theo như hồi ký của bộ trưởng Bộ quốc phòng Mỹ Robert
McNamara, chính CIA đã
hỗ trợ cho việc lật đổ và sau này McNamara xem đó là một sai lầm nghiêm trọng
mà Hoa Kỳ mắc phải. Tuy nhiên Hoa Kỳ không chủ trương phải giết hại ba anh em
Diệm-Nhu-Cẩn mà đó là do quân đảo chính tự tiến hành.
Kể từ đây, sự phụ thuộc của Việt Nam Cộng hòa vào viện trợ
của Hoa Kỳ ngày càng lớn, cả về tài chính cũng như về quân sự. Sự can
thiệp của tòa đại sứ Mỹ vào công việc nội bộ về chính trị và quân sự của Việt
Nam Cộng hòa ngày càng lên cao.
Thời kỳ quân quản 1963-1967
Hai tướng Nguyễn Cao Kỳ (người đầu tiên bên trái) và Nguyễn Văn Thiệu(thứ 6 từ trái sang phải) đại diện Việt Nam Cộng hòa tại
hội nghị Hiệp ước SEATO nhóm họp tại Manila năm 1966
Tiếp sau đó là giai đoạn khủng hoảng lãnh đạo chính trị ở miền
Nam bởi một loạt các cuộc đảo chính liên tiếp cho đến khi tướng Nguyễn Văn Thiệu thiết lập nền Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam.
Trong thời gian 18 tháng sau cuộc đảo chính 1963, miền Nam phải
chứng kiến hơn 10 cuộc khủng hoảng chính trị (cuộc đảo chính năm 1964 của
tướng Nguyễn Khánh; thành lập Tam đầu chế; phong trào
chống Hiến chương Vũng Tàu; chính
phủ dân sự Trần Văn Hương lên rồi đổ; chính phủ dân
sự Phan Huy Quát lên rồi đổ; đảo chính hụt
ngày 13 tháng 9, 1964 của tướng Dương Văn Đức và Lâm Văn Phát; đảo chính hụt ngày 20
tháng 2, 1965 của đại tá Phạm Ngọc Thảo). Phe quân đội lần lượt hạ bệ
lẫn nhau cùng những chính phủ dân sự liên tiếp được dựng lên rồi lại phải rút
lui. Cùng khi đó về mặt xã hội, các khối Phật
giáo và Công
giáo cũng nhiều lần xuống đường biểu tình gây áp lực. Về mặt
pháp lý, bản Hiến pháp năm 1956 bị
vô hiệu hóa. Thay vào đó là một loạt hiến chương có tính chất tạm thời như:
1.
Hiến chương 4 tháng 11 năm 1963
2.
Hiến chương 7 tháng 2 năm 1964
3.
Hiến chương 16 tháng 8 năm 1964 (thường gọi là Hiến chương Vũng
Tàu)
4.
Hiến chương 20 tháng 10 năm 1964.
Về mặt quân sự, Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ cùng với các đồng minh
tiếp tục chiến đấu chống lại các hoạt động quân sự của lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Chiến tranh Việt Nam. Quy mô và mức độ ác liệt của
chiến tranh ngày càng tăng.
Cái gọi là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được Thành
lập ngày: 20 tháng 12 năm 1960
Năm 1964, Mỹ đổ bộ hàng chục vạn quân, lính Mỹ hiện diện ở khắp
miền Nam.
Thứ tự sự kiện mở đầu Hội đồng giám
sát, cố vấn Lãnh đạo quân đội Thủ tướng
chính phủ dân sự thời gian
3. Cải tổ 28.06.1964 Ủy
ban lãnh đạo lâm thời (Tam đầu chế) Nguyễn Khánh Nguyễn Khánh 08.1964-10.1964
5. Chính phủ Trần Văn Hương giải
tán 27.1.1965 Hội đồng Quân
lực Nguyễn Khánh Phan Huy Quát
02.1965-06.1965
6. Chính phủ Phan Huy Quát giải
tán 14/6/1965 Ủy ban
Lãnh đạo Quốc gia Nguyễn Văn Thiệu Nguyễn Cao Kỳ 06.1965-09.1967
https://s20.postimg.org/ttgqttyzx/Elections.jpg
Bầu cử năm 1967 kết thúc
với việc liên danh Nguyễn Văn
Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ đạt 34,8% số phiếu để đắc cử tổng thống
và phó tổng thống, đánh dấu việc thành lập Đệ Nhị Cộng hòa
Đệ Nhị Cộng hòa 1967–1975
Để chấm dứt tình trạng rối ren về chính trị, tháng 6 năm
1966, Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia do
tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ điều hành tuyên bố mở cuộc bầu cử Quốc hội lập hiến vào
ngày 3 tháng 9. Theo đó 118 đại biểu đắc cử gồm nhiều
thành phần và đến 1 tháng 4 năm 1967 thì ra tuyên cáo bản Hiến pháp Đệ Nhị Cộng hòa Việt
Nam. Hiến pháp này là cơ sở pháp lý của Việt Nam Cộng hòa cho đến 30
tháng 4 năm 1975.
Cuộc tổng tuyển cử tổng thống và Quốc hội diễn ra ngày 3 tháng 9
năm 1967 với 11 liên danh tranh cử trong đó có những ứng cử viên như chính trị
gia kỳ cựu như Phan Khắc Sửu và Trần Văn Hương.
Tổng thống
Trần Văn Hương
Trong số hơn sáu triệu cử tri thì năm triệu người đi bầu, tức tỷ
lệ 80%. Liên danh Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ đắc cử với 35% số phiếu. Về
nhì là luật sư Trương Đình Dzu với 17%.
Tháng 6 năm 1969, trong vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam đã diễn ra Đại hội đại biểu quốc dân và thành lập ra
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam,
do Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch và Hội đồng
Cố vấn do Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch.
Kiến trúc sư
Huỳnh Tấn Phát (1913-1989)
Luật sư Nguyễn
Hữu Thọ
Năm 1971 là cuộc Tổng Tuyển cử thứ nhì của nền Đệ Nhị Cộng hòa.
Kỳ này Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai một cách dễ dàng
vì không có đối thủ nào khác ra tranh cử. Khi sự việc này xảy ra, nhiều người
cho là do điều luật mới thông qua ngày 3 Tháng Sáu năm 1971 nhằm hạn chế khả
năng tham gia của ứng cử viên đối lập. Theo đó thì ứng cử viên phải có 40 chữ
ký ủng hộ của dân
biểu hay nghị sĩ Quốc
hội và 100 chữ ký của các thành viên trong hội đồng tỉnh.[16] Dương Văn Minh và Nguyễn Cao Kỳ vì không thỏa mãn được
quy định trên đã phải rút tên, chỉ còn Nguyễn Văn Thiệu là ứng cử viên duy nhất
trong cuộc bầu cử.
Vào năm 1973, sau Hiệp định Paris (được thảo luận giữa bốn
bên tham chiến là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hoa Kỳ, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
và Việt Nam Cộng hòa), quân đội Hoa Kỳ đã rút khỏi Việt Nam. Việt Nam Cộng hòa
cố gắng trì hoãn việc ký kết hiệp định, nhưng phía Mỹ đã có quyết định dứt khoát
về việc này và gây áp lực cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Cuối cùng, Việt Nam
Cộng hòa phải chấp nhận ký kết hiệp định.
Suy vong
Bị mất viện trợ về tài lực và quân sự từ phía Hoa Kỳ, Việt Nam
Cộng hòa không thể tự đứng vững được. Theo nhà sử học Vũ Ngự Chiêu thì Việt Nam
Cộng hòa giống như "một lâu đài xây trên cát, trông bề thế bên
ngoài nhưng chỉ cần một con sóng nhỏ là tan vỡ", mầm mống của sụp đổ
gồm những lý do sau[17]
·
Không có lãnh đạo đủ khả năng: Người được Mỹ đưa lên cầm quyền
năm 1967 (Nguyễn Văn Thiệu) chỉ là một bù nhìn, giống như khởi đầu binh nghiệp làm thông
ngôn Pháp của ông ta. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa không tự đưa ra được quyết
sách gì, chính sách từ lớn xuống bé đều do Tòa Đại sứ Mỹ, các tướng lĩnh MACV
(trung tâm chỉ huy tác chiến Hoa Kỳ tại Việt Nam), và sau này là USAID (Cơ quan
quản lý viện trợ Hoa Kỳ) soạn thảo, đôn đốc thực hiện. Đại sứ Ellsworth Bunker và
rồi Graham Martin có quyền lực không khác
gì những “Toàn quyền Đông Dương” của Pháp trước kia – dù Việt
Nam Cộng hòa không ngừng tự xưng là "Đồng minh" của Mỹ.
·
Không có sự ủng hộ của người dân: Mặc dù cơ quan tuyên truyền của
Mỹ và Việt Nam Cộng hòa luôn kêu gọi tinh thần chống Cộng với dân chúng miền
Nam, nhưng thực ra họ chỉ có thể kiểm soát được khoảng 20-30% dân số miền Nam.
Phần còn lại sống trong những vùng quân Giải phóng miền Nam kiểm soát một phần
hoặc toàn bộ. Ngay trong số 20-30% dân chúng trong vùng do Việt Nam Cộng hòa kiểm
soát, nhiều người cũng không ủng hộ chế độ này và chia làm nhiều phe phái chống
lại nhau vì những lý do như tôn giáo (Thiên Chúa giáo - Phật giáo), sắc tộc
(người Việt - người Hoa), vùng miền (người thành thị - người nhập cư)...
·
Nền kinh tế phụ thuộc vào viện trợ Mỹ, khi Mỹ giảm viện trợ thì
lập tức lâm vào khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng kinh tế 1973-1974 khiến đời sống
người dân rất khó khăn, lương bổng cho binh sĩ bị cắt giảm, làm suy sụp ý chí
chiến đấu của đa số binh sĩ.
·
Quân đội Việt Nam Cộng hòa thiếu
chỉ huy có kinh nghiệm: qua màng lọc của hệ thống phe đảng và tham
nhũng, những cấp chỉ huy có tiềm năng nhất nhưng không có thế lực
chính trị đỡ đầu thì thường chết trận hay bị loại ngũ. Khi tác chiến thì quen dựa
vào hỏa lực mạnh của Quân đội Hoa Kỳ, nên khi không còn hỏa lực Mỹ
nữa thì bị lâm vào lúng túng. Bản thân tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên chức đều là do đảo chính chứ không phải vì thành tích mặt trận.
Có được ghế Tổng thống rồi, ông Thiệu lại tập trung hết quyền bính trong tay,
biến Bộ Tổng Tham mưu thành một cơ cấu thư ký, không được tự ra quyết sách (vì
ông Thiệu sợ rằng đến lượt chính mình sẽ bị người khác đảo chính lật đổ). Hiệp định Paris 1973 khiến binh sĩ hoang
mang rằng "Mỹ đã bỏ rơi chăng? Nếu Mỹ còn không đánh lại thì sao
mà tự đánh được?", thế là tinh thần chiến đấu càng sụt giảm. Có đơn vị
tự ý bỏ chạy khi vừa bị một viên pháo nã vu vơ vào đồn, đơn vị khác thì vừa
nghe tiếng máy cày trong đêm đã thấy hoảng sợ, vội báo cáo xe tăng địch xuất hiện.
Việt Nam Cộng hòa duy trì chủ yếu nhờ vào khoản viện trợ kinh tế
và quân sự rất lớn của Mỹ, nhưng do nạn tham
nhũng nên viện trợ bị sử dụng rất phung phí và kém hiệu quả. Quy
mô tham nhũng của Việt Nam Cộng hòa là rất lớn: cả
nửa triệu tấn gạo biến mất khỏi các kho lương thực trong năm 1967, súng cũng
được tuồn ra bán với giá 25-30 đôla một khẩu, ngay cả xe bọc thép hoặc máy bay lên thẳng cũng có thể tuồn ra được.
Hồi ký Nguyễn Cao Kỳ nêu trường hợp tướng Tư
lệnh đồng bằng sông Cửu Long đã lấy cắp 8.000 đài vô tuyến và 24.000 vũ khí cá
nhân do Hoa Kỳ viện trợ và sớm bán hết sạch ra chợ đen, tài liệu mật từ Tòa đại
sứ Mỹ cho biết phần lớn số đó đã lọt vào tay quân Giải phóng[18]
Nhà báo người Mỹ William J. Lederer, trong
chuyến điều tra năm 1968, nhận xét: kẻ thù tồi tệ nhất của Mỹ trong chiến tranh
Việt Nam chính là nạn tham
nhũng của Việt Nam Cộng Hòa.
Hàng tỷ USD viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ đã bị các quan
chức Việt Nam Cộng Hòa tham ô rồi
bán ra chợ đen. Ông đã chứng kiến những kho hàng lậu đầy ắp hàng hóa và vũ khí
quân dụng, có tới cả 1.000 khẩu súng trường, bao gồm cả loại M16 hiện
đại. William J. Lederer nhận xét: "Tôi đã thấy trước Hoa Kỳ sẽ bị
đánh bại như thế nào - không phải chỉ bằng sức mạnh của đối phương, mà bởi
chính những sai lầm của mình, sự bất lực của chính mình"[19]
Năm 1975, sau khi thất thủ Ban Mê Thuột (nay gọi là Buôn Ma Thuột), trước sự tấn công mãnh liệt
của Quân Giải phóng, cộng thêm các sai lầm chiến
lược, quân đội Việt Nam Cộng hòa đã nhanh chóng tan rã, mất quyền kiểm soát
lãnh thổ. Nhiều tướng lãnh cao cấp Việt Nam Cộng hòa đã tự ý rời bỏ hàng ngũ.
Tổng thống Dương Văn Minh, người được đề cử chức vụ này
vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, đã ra lệnh đầu hàng vô điều
kiện trước Quân Giải phóng và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vào
ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Chính phủ Cách mạng lầm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam kế thừa
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi tiếp nhận sự đầu hàng
của Chính
phủ Việt Nam Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (gọi
tắt là Cộng hòa Miền Nam Việt Nam) ra
tuyên bố kế thừa:
“Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam hiện
nay thực hiện chủ quyền trên toàn vẹn lãnh thổ của mình trên toàn bộ miền Nam
Việt Nam, là người đại diện chân chính và hợp pháp duy nhất của nhân dân Miền
Nam Việt Nam, có đầy đủ quyền hành giải quyết những vấn đề quốc tế của miền Nam
Việt Nam”.
Thông qua tuyên bố này và việc tiếp nhận sự đầu hàng của Chính
phủ Việt Nam Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
đã khẳng định Cộng hòa miền Nam Việt Nam chính thức thực hiện quyền kế thừa
quốc gia đối với Việt Nam Cộng hòa, đặc biệt là kế thừa chủ quyền của Việt Nam
Cộng hòa đối với lãnh thổ miền Nam Việt Nam, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trên thực tế, sau năm 1975, Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã kế
thừa lãnh thổ, các cơ quan đại diện ở nước ngoài, tư cách thành viên tại các tổ
chức quốc tế (WHO, ILO, UNESCO, ICAO, IAEA, IMF, Ngân hàng Thế giới…). Tất cả những kế thừa này
của Cộng hòa miền Nam Việt Nam đều được thực hiện theo đúng thông lệ quốc tế và
Công ước về kế thừa quốc gia đối với Điều ước quốc tế năm 1978.[20].
Chính
quyền Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa
Lập pháp
Quyền
lập pháp thuộc về Quốc hội được tổ chức đơn
viện. Số lượng Dân biểu do Luật định. Dân
biểu được bầu cử theo lối đầu phiếu phổ thông, trực tiếp và
kín, theo những thể thức và điều kiện do đạo luật tuyển cử quy định. Nhiệm kỳ
Dân biểu là ba năm. Các Dân biểu có thể được tái cử.
Trong tình trạng khẩn cấp, chiến tranh, nội loạn, khủng hoảng
kinh tế hoặc tài chính, Quốc hội có thể biểu quyết một đạo luật ủy cho Tổng
thống, trong một thời gian, với những hạn định rõ, quyền ký các sắc luật để
thực hiện chánh sách mà Quốc hội ấn định trong đạo luật ủy quyền. Các sắc luật
phải được chuyển đến Văn phòng Quốc hội ngay sau khi ký. 30 ngày sau khi mãn
thời hạn đã ấn định trong đạo luật ủy quyền, nếu Quốc hội không bác bỏ, các sắc
luật ấy sẽ được coi hẳn như những đạo luật. [Điều 42]
Quyền hạn:
·
Quốc hội biểu quyết các đạo luật. Quốc hội chấp thuận các điều ước
và các hiệp định quốc tế.
·
Chỉ định một Ủy ban kiểm soát để phụ trách việc phúc trình về vấn
đề kiểm soát tánh cách hợp thức cuộc bầu cử các Dân biểu.
·
Chỉ định các Ủy ban.
·
Quốc hội ấn định nội quy, Tổ chức nội bộ Quốc hội và Văn phòng;
Thủ tục Quốc hội và quyền hạn Văn phòng; Kỷ luật trong Quốc hội và các sự chế
tài về kỷ luật; Thành phần và quyền hạn các Ủy ban.
Mỗi năm Quốc hội họp 2 lần không quá 3 tháng. Lần 1 bắt đầu từ
ngày thứ 2 đầu tiên trong tháng 4 dương lịch. Lần 2 bắt đầu ngày thứ 2 đầu tiên
trong tháng 10 dương lịch. Ngoài ra có thể họp bất thường.
Hành pháp
Tổng thống nắm quyền hành pháp, do Nhân dân trực tiếp bầu lên
với nhiệm kỳ 5 năm, có thể được tái nhiệm thêm 2 nhiệm kỳ. Mặc dù trong Hiến pháp 1956 có
quy định “Chủ quyền thuộc về toàn dân” nhưng Đoạn 3, Điều 3 thì lại xác
định “Tổng thống lãnh đạo quốc dân”
Tổng thống có các quyền:
·
Ký kết, và sau khi được Quốc hội chấp thuận, phê chuẩn các điều
ước và hiệp định quốc tế.
·
Bổ nhiệm các sứ thần, tiếp nhận ủy nhiệm thư của các đại diện
ngoại giao, thay mặt Quốc gia trong việc giao thiệp với ngoại quốc.
·
Với sự thỏa thuận của một nửa tổng số Dân biểu Quốc hội, Tổng thống
tuyên chiến hoặc phê chuẩn hòa ước.
·
Bổ nhiệm và cách chức tất cả các công chức dân sự và quân sự.
Thành lập Nội các.
·
Là tư lệnh tối cao của các lực lượng quân sự.
·
Ban các loại huy chương.
·
Có quyền ân xá, ân giảm, hoán cải hình phạt, và huyền án.
·
Có thể gia hạn nhiệm kỳ dân biểu.
·
Có thể dự các phiên họp Quốc hội và tuyên bố trước Quốc hội.
·
Mỗi năm vào đầu khóa họp thường lệ thứ nhì và mỗi khi thấy cần,
Tổng thống thông báo cho Quốc hội biết tình hình Quốc gia và chánh sách đối nội,
đối ngoại của Chính phủ.
·
Với sự thỏa thuận của Quốc hội, Tổng thống có thể tổ chức trưng
cầu dân ý.
·
Tổng thống có thể ký sắc luật ngân sách cho tài khóa sau trong một
số trường hợp nhất định.
·
ký sắc lệnh tuyên bố tình trạng khẩn cấp, báo động hoặc giới
nghiêm trong một hay nhiều vùng; các sắc lệnh này có thể tạm đình chỉ sự áp dụng
một hoặc nhiều đạo luật tại những vùng đó.
Tư pháp
Tòa án
Tư pháp được tổ chức theo nguyên tắc bình đẳng của mọi người
trước pháp luật và nguyên tắc độc lập của Thẩm phán xử án. [Điều 70] Thẩm phán
xử án quyết định theo lương tâm mình, trong sự tôn trọng luật pháp và quyền lợi
Quốc gia.
Hệ thống Tòa án nằm dưới sự kiểm soát của Bộ Tư Pháp.
Đặc biệt Pháp viện
Đặc biệt Pháp viện là một tòa án đặc biệt có thẩm quyền xét xử
Tổng thống, Phó Tổng thống, Chánh án Tòa Phá án, và Chủ tịch Viện Bảo hiến,
trong trường hợp can tội phản quốc và các trọng tội.
Đặc biệt Pháp viện gồm có: Chánh án Tòa Phá án, Chánh án;
Mười lăm Dân biểu do Quốc hội bầu ra mỗi nhiệm kỳ, Hội thẩm. Khi
Chánh án Tòa Phá án là bị can, Chủ tịch Viện Bảo hiến sẽ ngồi ghế Chánh án.
Ban Điều tra của Đặc biệt Pháp viện gồm năm Dân biểu do Quốc hội
bầu ra mỗi nhiệm kỳ.
Đặc biệt Pháp viện họp để nghe Ban Điều tra và đương sự trình
bày và phán quyết theo đa số ba phần tư tổng số nhân viên.
Viện bảo Hiến
Viện Bảo hiến đưa ra các phán quyết về tánh cách hợp hiến của
các đạo luật, sắc luật, và quy tắc hành chánh.
Viện Bảo hiến, về mỗi nhiệm kỳ Quốc hội, gồm có: Một Chủ tịch
cho Tổng thống cử với thỏa hiệp của Quốc hội. 4 Thẩm phán cao cấp hay luật gia
do Tổng thống cử; 4 Dân biểu do Quốc hội cử.
Hành chính địa phương
Toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa được chia thành các Tỉnh.
Thành phố thủ đô được gọi là Đô thành
·
Cấp tỉnh: đứng đầu là tỉnh trưởng. Vào thời Đệ Nhị Cộng hòa thì
tỉnh trưởng luôn là quân nhân. Phó tỉnh trưởng mới là dân sự.
·
Cấp quận: đứng đầu là quận trưởng. Cấp thị xã: đứng đầu là đô
trưởng, thị trưởng
·
Cấp xã: đứng đầu là xã trưởng
Chính
quyền Đệ Nhị Việt Nam Cộng hòa
Hiến pháp 1967 xác
lập cơ cấu tổ chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa rất hoàn chỉnh, theo mô hình
của Nhà nước Hoa Kỳ.
Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa đã
thể hiện khá đầy đủ tinh thần của chủ nghĩa hợp hiến.
Lập pháp
Bài chi
tiết: Quốc hội Việt Nam Cộng hòa
Trụ sở Quốc hội (sau thành trụ sở Hạ nghị
viện) Việt Nam Cộng hòa; nay là Nhà hát lớn
Thành phố Hồ Chí Minh
Quyền lập pháp thuộc về Quốc
hội với Hạ nghị
viện (159 thành viên được gọi là dân
biểu với nhiệm kỳ 4 năm) và Thượng nghị viện (60 thành viên được gọi
là nghị sĩ, nhiệm kỳ 6 năm).
Thượng viện được bầu theo liên danh. Một liên danh có thể có ứng
cử viên từ nhiều vùng khác nhau nhưng chung một liên danh.
Hạ viện thì chọn theo số phiếu từng địa phương căn cứ trên dân
số. Tính đến năm 1974 thì mỗi dân biểu đại diện khoảng 50.000 cử tri.[21] Cử tri đầu phiếu trực
tiếp để chọn đại biểu ở Hạ viện và Thượng viện.
Nhiệm kỳ cuối cùng của Hạ viện bắt đầu ngày 29 Tháng Tám năm
1971, và đáng ra sẽ kết thúc vào Tháng Tám năm 1975.
Thượng viện thì phân nửa bắt đầu nhiệm kỳ Tháng Tám năm 1970, sẽ
kết thúc năm 1976. Phân nửa kia bắt đầu Tháng Tám năm 1973, đáng ra sẽ kết thúc
năm 1979.[22]
Trong 159 ghế Hạ viện thì có 6 ghế dành riêng cho người Việt gốc Miên, 6 ghế cho người Thượng, 2 ghế cho người thiểu số di cư từ thượng
du miền Bắc, và 2 ghế cho người Chàm.[21]
Quốc hội có những quyền hạn sau:
·
Hợp thức hóa sự đắc cử của dân biểu hoặc nghị sĩ quốc hội
·
Quyền khuyến cáo thay thế từng phần hay toàn thể Chính phủ với
đa số 2/3 tổng số dân biểu và nghị sĩ. Nếu Tổng thống không có lý do đặc biệt để
khước từ, sự khuyến cáo sẽ có hiệu lực. Trong trường hợp Tổng thống khước từ,
Quốc hội có quyền chung quyết sự khuyến cáo với đa số 3/4 tổng số dân biểu và
nghị sĩ.
Ở tỉnh, thị xã có Hội đồng tỉnh, thị xã, Đô thành Sài Gòn có Hội
đồng Đô thành, đều do dân bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 3 năm; thành viên Hội đồng
gọi là nghị viên. Các Hội đồng này có thẩm quyền quyết định ngân sách và các vấn
đề dân sinh của địa phương.
Hành pháp
Phủ Tổng thống
Tổng thống là người nắm quyền hành pháp, do bầu cử lên với nhiệm kỳ 4 năm và có
những quyền hạn sau:
·
Ban hành các đạo luật
·
Hoạch định chính sách quốc gia
·
Bổ nhiệm Thủ tướng và các thành viên của Chính phủ, cải
tổ một phần hay toàn bộ Chính phủ (hoặc tự ý, hoặc sau khi có sự khuyến cáo của
Quốc hội)
·
Chủ tọa Hội đồng Tổng trưởng
·
Chủ tịch Hội đồng An ninh Quốc gia
·
Ký kết và ban hành các hiệp ước và hiệp định quốc tế
Sau vụ tu chính hiến pháp Tháng Giêng năm 1974 thì
nhiệm kỳ tổng thống đổi từ 4 thành 5 năm. Ngoài ra tổng thống và phó tổng thống
được phép tái đắc cử 2 lần thay vì 1 lần.[21]
Phó Tổng thống có
những nhiệm vụ sau:
·
Chủ tịch Hội đồng Văn hóa Giáo dục
·
Chủ tịch Hội đồng Kinh tế Xã hội
·
Chủ tịch Hội đồng các Sắc tộc.
Phó Tổng thống không được kiêm nhiệm một chức vụ nào trong các
cơ quan Chính phủ khác.
Theo lý thuyết thì Tổng thống không được quyền can thiệp vào
nhánh lập pháp, nhưng trong thực tế thì khác. Ví dụ như năm 1969, Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu đã vượt quyền hiến pháp, cụ thể là điều luật quy định sự bất
khả xâm phạm của dân biểu, để bắt giữ và mở tòa án quân sự kết
án dân biểu Trần Ngọc Châu 10
năm khổ sai, sau khi vị dân biểu này đề nghị thành lập một đoàn gồm các nhà lập
pháp Việt Nam Cộng hòa để đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[23]
Nội Các Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa
Thủ tướng điều khiển Chính
phủ và các cơ cấu hành chính quốc gia. Thủ tướng chịu trách
nhiệm về sự thi hành chính sách quốc gia trước Tổng thống. Chức vụ này do Tổng
thống bổ nhiệm.
4.
Bộ Thông tin
6.
Bộ Tài chính
8.
Bộ Tư pháp
9.
Bộ Phát triển Nông thôn
10.
Bộ Cải cách Điền địa và Pháp triển Nông–Ngư nghiệp
11.
Bộ Công chánh
12.
Bộ Giao thông và Bưu điện
15.
Bộ Xã hội
16.
Bộ Lao động
17.
Bộ Cựu chiến binh
18.
Bộ Phát triển Sắc tộc
19.
Bộ Đặc trách liên lạc Quốc hội
1.
Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa
2.
Quốc vụ khanh đặc trách tái thiết và phát triển
3.
Văn phòng Quốc vụ khanh
Đứng đầu các Bộ là các Tổng trưởng hoặc Bộ trưởng. Các Tổng trưởng và Bộ trưởng là các thành
viên của Chính phủ, thành viên của Hội đồng Nội các (Hội đồng Tổng trưởng).
Các Tổng trưởng, Bộ trưởng do Thủ tướng đề cử lên Tổng thống,
Tổng thống bổ nhiệm.
Thủ tướng và các thành viên Chính phủ có thể tham dự các phiên
họp của Quốc hội hoặc của các Uỷ ban để trình bày và giải quyết về các vấn đề
liên quan đến chính sách quốc gia và sự thi hành các chính sách quốc gia do
Tổng thống hoạch định.
Hành chính địa phương
Toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa được chia thành các Tỉnh. Thủ
đô Quốc gia được gọi là Đô thành
·
Cấp tỉnh: đứng đầu là tỉnh trưởng. Vào thời Đệ Nhị Cộng hòa thì
tỉnh trưởng là quân nhân. Phó tỉnh trưởng mới là dân sự.
·
Cấp quận: đứng đầu là quận trưởng
·
Cấp xã: đứng đầu là xã trưởng
Tư pháp
Luật pháp
Luật pháp Việt Nam Cộng hòa được xây dựng căn cứ theo Bộ Hoàng Việt Hộ luật (1936-39)
do triều đình Nguyễn ban hành ở Trung Kỳ cùng Bộ Dân luật Giản yếu (1883) áp
dụng ở Nam Kỳ, sau châm chước thêm một số điều khoản của Bộ Dân luật Bắc Kỳ
(1931).[24] Hình
luật thì có Bộ Hoàng Việt Hình luật (1933),
Tố tụng tu chính của Trung Kỳ (1935) và Hình luật Nam Kỳ Canh cải (1912). Di
sản luật pháp từ thời Pháp thuộc dần được thống nhất thành một bộ luật cho toàn
quốc năm 1972 với tên Bộ Hình luật Việt Nam[25] ban hành ngày 20
Tháng Chạp năm 1972. Theo
đó có năm hạng:
·
Bộ luật Hình sự tố tụng; Bộ luật này đã được Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban
hành qua Sắc luật số 027/TT-SLU[26]
·
Bộ Quân luật và các văn kiện thi hành của Bộ Quốc phòng
·
Bộ luật Dân sự và Thương sự tố tụng; Sắc luật số 030/TT/SLU
·
Bộ luật Thương mại 1972. Phần này gồm 5 quyển và 1051 điều quy định
các điều khoản tổng quát về nhà buôn, nhiệm vụ của các nhà buôn và các cửa hàng
thương mại; thương hội; hành vi thương mại; thương mại hàng hải; khánh tận, phá sản và
thanh toán tư pháp.
Tối cao Pháp Viện Việt Nam Cộng Hòa
Tối cao Pháp viện Việt Nam Cộng
hòa gồm 9 thẩm
phán, sau tăng thành 15 thẩm phán do Quốc hội tuyển chọn và Tổng
thống bổ nhiệm. Nhiệm kỳ của thẩm phán Tối cao Pháp viện là 6 năm. Theo Hiến
pháp 1967, Tối cao Pháp viện có những quyền hạn sau:
·
Giải thích Hiến
pháp, phán quyết về tính hợp hiến hay không hợp hiến của các Đạo luật,
Sắc luật, Sắc lệnh, Nghị định, Quyết định hành chính
·
Phán quyết về việc giải tán một chính đảng có chủ trương và hành
động chống lại chính thể cộng hòa.
Những quyết định của Tối cao Pháp viện tuyên bố một đạo luật
không hợp hiến hoặc giải tán một chính đảng phải được 3/4 tổng số thẩm phán tán
thành.
Đặc biệt Pháp viện gồm có Chủ tịch Tối cao Pháp viện và 10 dân
biểu, nghị sĩ, có thẩm quyền truất quyền Tổng thống, Phó Tổng thống, Thủ tướng,
Tổng trưởng, Bộ trưởng, thẩm phán Tối cao Pháp viện trong trường hợp can tội
phản quốc và các trọng tội khác.
Giám sát viện (tiếng
Anh: Inspectorate General) gồm từ 9-18 giám sát viện, 1/3 do Quốc
hội, 1/3 do Tổng thống và 1/3 do Tối cao Pháp viện chỉ định.
Giám sát viện có thẩm quyền:
·
Thanh tra, kiểm soát và điều tra nhân viên các cơ quan công quyền
và tư nhân can tội tham
nhũng, đầu cơ, hối mại quyền thế
·
Kiểm kê tài sản của nhân viên các cơ quan công quyền, kể cả Tổng
thống, Phó Tổng thống, Thủ tướng, dân biểu, Nghị sĩ và Chủ tịch Tối cao Pháp viện
·
Có quyền đề nghị các biện pháp chế tài và kỷ luật hoặc yêu cầu
truy tố trước toà án có thẩm quyền những đương sự phạm lỗi
·
Thẩm tra kế toán các cơ quan công quyền và hợp doanh.
Tổ chức Tòa án
Ở địa phương, có các toà án thường (gồm các toà Thượng thẩm, toà
Đại hình, toà Sơ thẩm, tòa Hòa giải, toà Vi cảnh) và các toà án đặc biệt (gồm
các toà Hành chính, toà Lao động, toà án Điền địa, toà án cho Thiếu nhi (thành
lập năm 1958), toà án Cấp dưỡng, toà án Sắc tộc, toà án Quân sự đặc biệt -
trong đó có các toà án Quân sự tại mặt trận).
Cấp thấp nhất là Tòa Vi cảnh, ở nông thôn có khi do quận trưởng
chủ tọa. Cao hơn thì có hệ thống Tòa Sơ thẩm có một chánh thẩm và ba phụ thẩm.
Tòa Thượng thẩm thời Đệ Nhất Cộng hòa có
hai sở, một ở Sài Gòn, một ở Huế. Mỗi
phiên tòa này có ba thẩm án ngồi xử án.[28]
Các
đơn vị hành chính cấp tỉnh
Bài chi
tiết: Tỉnh (Việt Nam Cộng hòa)
Bản đồ hành chính Việt Nam Cộng Hòa năm 1972
(theo CIA)
Đầu năm 1956, thành lập thêm các tỉnh Tam Cần (9/2/1956), Mộc Hóa (17/2/1956), Phong
Thạnh (17/2/1956), Cà Mau(9/3/1956).
Theo sắc lệnh 143-NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của chính quyền
Việt Nam Cộng hòa thì Nam phần (tức Nam Bộ) gồm 22 tỉnh và Đô thành Sài Gòn. Như
vậy, toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa lúc này có 35 tỉnh: Quảng
Trị, Thừa Thiên, Quảng
Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hòa, Ninh
Thuận, Bình
Thuận, Kon Tum, Pleiku, Darlac, Đồng Nai Thượng, Phước Long (tên cũ: Bà Rá), Bình Long (tên cũ: Hớn
Quản), Long
Khánh (tên cũ: Xuân Lộc), Biên
Hòa, Bình
Tuy, Phước
Tuy (tên cũ: Bà Rịa-Vũng Tàu), Bình Dương (tên cũ: Thủ Dầu Một), Tây
Ninh, Gia
Định, Long An (gộp Chợ Lớn và Tân An), Kiến Tường (tên cũ: Mộc Hóa), Kiến
Phong (tên cũ: Phong Thạnh), Định Tường (gộp Mỹ Tho và Gò Công), Kiến
Hòa (tên cũ: Bến Tre), Vĩnh
Long, Vĩnh
Bình (tên cũ: Trà
Vinh), An Giang (gộp Long
Xuyên và Châu
Đốc), Phong Dinh (tên cũ: Cần Thơ), Kiên
Giang (gộp Rạch
Giá và Hà Tiên), Ba
Xuyên (gộp Bạc
Liêu và Sóc
Trăng), An
Xuyên(tên cũ: Cà Mau), Côn Sơn và
Đô thành Sài Gòn.
Năm 1965, bỏ 2 tỉnh Côn Sơn (21/4/1965) và Phước Thành
(6/7/1965).
Quảng
Trị | Thừa Thiên | Quảng
Nam | Quảng
Tín | Quảng
Ngãi | Kon Tum | Bình Định | Pleiku | Darlac | Phú Yên | Phú Bổn | Khánh
Hòa | | Ninh
Thuận | Tuyên Đức | Quảng Đức | Bình
Thuận | Lâm
Đồng | Phước Long | Bình Long | Bình
Tuy | Long
Khánh | Bình Dương | Tây
Ninh | Phước
Tuy | Biên
Hòa | Hậu
Nghĩa | Gia
Định | Long An | Kiến Tường | Gò Công | Định Tường | Kiến
Phong | Châu
Đốc | Kiến
Hòa | Vĩnh
Long | Sa Đéc | An
Giang | Kiên
Giang | Vĩnh
Bình | Phong
Dinh | Ba
Xuyên| Chương Thiện | Bạc
Liêu | An
Xuyên.
Đứng đầu tỉnh là tỉnh trưởng do tổng thống bổ nhiệm và báo cáo
lên thủ tướng và bộ trưởng Bộ Nội vụ. Trách nhiệm của tỉnh trưởng gồm soạn ngân
sách, điều hành lực lượng Nhân dân Tự vệ, giữ gìn an ninh trật tự và kiểm soát
việc hành chánh.[30]
Các
đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh
Năm 1966, 44 tỉnh của Việt Nam Cộng hòa được chia thành
241 quận[31], sau
tăng lên 247 quận.[29] Quận
trưởng do tỉnh trưởng đề cử và thủ tướng bổ nhiệm.
Dưới quận là xã và thôn. Toàn
quốc có 2.589 xã.[32] Tính đến năm 1974 thì
chính phủ kiểm soát 2.159 xã.[33] Ngoài
Đô thành Sài Gòn ra còn có 10 thị xã tự trị trong đó có Huế, Đà Nẵng, Qui
Nhơn, Nha Trang, Cam
Ranh, Đà Lạt, Vũng
Tàu, Mỹ Tho, Cần Thơ và Rạch
Giá.[34] Dưới
xã là thôn ấp, tổng cộng có hơn 15.000 đơn vị.[35]
Việc cai trị ở cấp xã trước kia tự trị thì năm 1956 thời Đệ Nhất Cộng hòa hội
đồng xã phải do tỉnh trưởng bổ nhiệm.[36] Sang
thời Đệ Nhị Cộng hòa thì việc điều hành ở cấp xã trả lại cho địa phương. Hội
đồng xã do cư dân 18 tuổi trở lên bầu ra. Những xã dưới 2.000 dân thì bầu ra
hội đồng 6 người. Xã trên 10.000 dân thì được bầu 12 người.[37]
Các quân khu
Diễn tập quân sự năm 1963
Về mặt quân sự,
năm 1961 thành
lập các vùng chiến thuật, đến tháng 7, 1970 đổi
tên là Quân khu. Lúc đầu có 3 vùng chiến thuật được đánh số 1, 2, 3, đến
năm 1964 lập
thêm vùng chiến thuật 4. Mỗi vùng chiến thuật do 1 quân đoàn phụ trách. Dưới
vùng chiến thuật là các khu chiến thuật do 1 sư đoàn phụ trách. Bộ tư lệnh quân
đoàn đồng thời là Bộ tư lệnh vùng chiến thuật (trừ quân đoàn 2), còn Bộ tư lệnh
sư đoàn đồng thời là Bộ tư lệnh khu chiến thuật. Các vùng chiến thuật có địa
giới như sau:
·
Vùng 2 chiến thuật, Bộ tư lệnh vùng 2 chiến thuật ở Nha
Trang, nhưng Bộ tư lệnh quân đoàn 2 ở Pleiku (từ
giữa tháng 3năm 1975 phải
chuyển về Nha Trang), gồm 12 tỉnh:
·
Khu 23 chiến thuật, gồm 7 tỉnh Darlac, Khánh
Hòa, Ninh
Thuận, Bình
Thuận, Tuyên Đức, Quảng Đức, Lâm Đồng, và thị
xã Cam
Ranh
·
Khu 41 chiến thuật, gồm 6 tỉnh Kiến
Phong, Châu Đốc, Vĩnh
Long, Vĩnh
Bình, An Giang, Kiên
Giang; sau thêm Sa Đéc
Khi 4 vùng chiến thuật chuyển thành 4 Quân khu, thì bỏ cấp khu
chiến thuật. Quân khu 1 gồm ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi và thành phố
Đà Nẵng. Quân khu 2 với diện tích 78.841 km vuông, chiếm gần phân nửa lãnh
thổ Việt Nam Cộng Hòa nhưng chỉ có gần 3 triệu dân sinh sống trong 12 tỉnh.
Quân khu 3 có thêm tỉnh Gia Định và Biệt khu Thủ đô (do Quân khu Thủ đô đổi
thành), tổng cộng 11 tỉnh. Quân khu 4 có 16 tỉnh.
Các thị xã về mặt quân sự là các tiểu khu, còn các quận là các
chi khu.
Quân
sự
Bài chi tiết: Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Bác sĩ người Mỹ trong chương trình y tế cộng
đồng MEDCAP và 1 binh sĩ người
Việt Nam - Hình chụp tại một ngôi làng nhỏ ở miền Nam
Quân lực Việt Nam Cộng Hòa là
lực lượng quân đội của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Thành lập từ năm 1955 với
nòng cốt là lực lượng quân đội Quốc gia Việt Nam trong Liên hiệp Pháp, chủ yếu là Bảo an đoàn, Bảo chính đoàn. Ngày truyền thống (còn gọi là
ngày Quân lực) là ngày 19
tháng 6.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa được trang bị hùng hậu với sức cơ
động cao và hoả lực mạnh, được sự hỗ trợ tích cực của Mỹ, và
các đồng minh, để chống lại Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam, vốn được sự hậu thuẫn của chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Quân lực Việt Nam Cộng hòa còn bị gọi là "quân đội
Sài Gòn" hay "quân ngụy" theo cách gọi của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đương
thời. Quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng là lực lượng chính trong cuộc đảo chính 1963 lật
đổ chế độ Ngô Đình Diệm, và tham chính trong chính
quyền cho đến ngày Việt Nam Cộng hòa sụp đổ.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa là một quân đội hiện đại, tốn kém,
đòi hỏi kinh phí hoạt động gần 3 tỷ đôla Mỹ mỗi năm. Nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa không
thể cáng đáng được kinh phí này, nên Việt Nam Cộng hòa đã gần như phải dựa hoàn
toàn vào viện trợ của
Mỹ để có thể chu cấp cho ngân sách quân sự. Nhà báo Mỹ William J. Lederer, trong
chuyến điều tra năm 1968, đã nhận thấy quân đội Việt Nam Cộng Hòa sử dụng viện
trợ rất phung phí và kém hiệu quả do nạn tham
nhũng. Hàng tỷ USD viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ đã bị các quan
chức, sĩ quan tham ô rồi bán ra chợ đen. William J. Lederer đã chứng kiến những
kho hàng lậu đầy ắp hàng hóa và vũ khí quân dụng, có tới cả 1.000 khẩu súng trường, bao gồm cả loại M16 hiện
đại. Chính phủ Hoa Kỳ biết rõ vấn nạn này, nhưng họ làm ngơ. William J. Lederer
nhận xét: "Tôi thấy Hoa Kỳ sẽ bị đánh bại như thế nào - không phải
chỉ bằng sức mạnh của đối phương, mà bởi chính những sai lầm của mình, sự bất
lực của chính mình". Quy mô buôn
lậu lên tới hàng tỷ USD, với sự tham gia của đủ thành phần:
quan chức và doanh nhân Việt Nam Cộng hòa, thương nhân Mỹ và Đài Loan, binh
lính Mỹ, Hàn Quốc, Philippines... Ngay cả Mặt trận Dân tộc Giải phóng cũng tận
dụng thị trường chợ đen, tại đây họ mua hàng hóa Mỹ để đánh lại chính quân Mỹ[19]
Khi Mỹ giảm viện trợ xuống còn 1,1 tỷ đô la vào năm 1974,
nền kinh tế Việt Nam Cộng Hòa lâm
vào cuộc khủng hoảng với lạm phát ở mức 200%, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa không
còn đủ kinh phí hoạt động, tình trạng thiếu đạn dược, vũ khí, xăng dầu đã dẫn
đến hỏa lực yếu và giảm tính cơ động.[38].
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, lực
lượng quân đội này đã tan rã hoàn toàn.
Ngoại
giao
Tính đến năm 1975 thì Việt Nam Cộng hòa đã thiết
lập ngoại giao với 87[39] quốc
gia trên thế giới và 6 quốc gia ở cấp bán chính thức. Lập trường ngoại giao của
Việt Nam Cộng hòa là không chấp nhận bang giao với chính phủ nào đã công nhận
chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoặc Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền
Nam Việt Nam.
Đại hội
đồng (General Assembly) bỏ phiếu 40 thuận, 8 chống.
Liên Xô muốn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng
gia nhập, nhưng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ chối việc này với lý do đất nước
Việt Nam là thống nhất và chỉ có thể có 1 chính phủ đại diện ở Liên Hiệp quốc.
Cho đến khi chấm dứt tồn tại (năm 1975), Việt Nam Cộng hòa vẫn
không phải là thành viên của Liên Hiệp quốc.
Ngày 2/2/1956 Ngô Đình Diệm đã đóng cửa biên giới không cho hàng
hóa nhập vào Campuchia vì nước này không công nhận chính phủ Ngô Đình Diệm.
Với Lào, quốc gia láng giềng, chính quyền Diệm đã quyết định đoạn giao
khi Chính phủ của Hoàng thân Souvanna
Phouma công nhận và thiết lập liên lạc ngoại giao với Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1962.
Ngày 27 Tháng 8, 1963[41] thì Campuchia cắt
đứt bang giao với Việt Nam Cộng hòa vì tình hình biên giới, nhất là đòi hỏi của
Campuchia muốn thu hồi toàn đất Nam Kỳ vốn
được họ cho là đất cũ của người Miên.[42]
Năm 1964 Việt Nam Cộng hòa đoạn giao với Indonesia, khi
nước này tuyên bố công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 9 Tháng 5 năm 1966, Campuchia chính thức công nhận Mặt trận Dân tộc Giải
phóng Miền Nam Việt Nam[43] công
khai công kích Sài Gòn.
Như vậy, thất bại lớn nhất trong chính sách đối ngoại giao của
chính phủ Ngô Đình Diệm ở Đông Nam Á là không lôi kéo được Lào và Campuchia ủng
hộ mình[44].
Tuy nhiên sau khi Tổng công kích Tết Mậu Thân thất bại năm 1968
và chính phủ của vua Sihanouk bị Lon Nol lật
đổ, lập nên nước Cộng hòa Khmer thì ngày 5 Tháng 5, 1970,
Cộng hòa Khmer trục xuất phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền
Nam Việt Nam, công nhận và tái lập bang giao với Việt Nam Cộng hòa.[45]
Trong khi đó chiến cuộc leo thang. Bắt đầu từ năm 1964, một số
đồng minh của Việt Nam Cộng hòa ngoài viện trợ tài lực hoặc nhân lực còn trực
tiếp tham chiến như Hoa Kỳ (1964), Nam
Triều Tiên (03.1965), Úc (06/1965), New
Zealand (07/.1965), Thái
Lan (02/1966), và Philippines (10.1966).
Nhóm này mang tên Quân lực Thế giới Tự do (tiếng
Anh: The Free World Military Assistance Forces).
Lực lượng quân sự của các đồng minh dần dần rút đi vào năm 1973
với Hòa đàm Paris đang diễn tiến và rồi kết
thúc.[46]
Việt Nam Cộng hòa là thành viên trong một số tổ chức quốc tế
như Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO),
Ngân hàng Phát triển châu Á (1966).
Kinh
tế
Nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa là
nền kinh tế thị trường, chưa phát triển,
và mở cửa. Mức độ tự do của nền kinh tế khá cao trong những năm 1963 đến
1973. Tuy nhiên, phát triển kinh tế vẫn được triển khai dựa
trên các kế hoạch kinh tế 5 năm hoặc
kế hoạch bốn năm. Nền kinh tế ổn định trong giai đoạn 1955-1960, sau đó do tác
động của chiến tranh leo thang đã trở nên mất ổn định với
những đặc trưng như tốc độ tăng trưởng kinh tế không đều (có nhiều năm
bị âm), tỷ lệ lạm phát cao, thâm hụt ngân sách nhà nước và thâm hụt thương mại. Chính quyền đã phải tiến
hành cải cách ruộng đất hai lần.
Mỹ đóng vai trò to lớn đối với phát triển kinh tế của Việt
Nam Cộng hòa thông qua viện trợ kinh tế cũng
như hỗ trợ kỹ thuật. Trải qua 21 năm, khối lượng viện trợ kinh tế mà Hoa Kỳ cho
Việt Nam Cộng Hòa là rất lớn, đạt hơn 10 tỷ USD (thời
giá thập niên 1960). Đây là con số viện trợ kinh tế cao nhất của Hoa Kỳ so với
bất cứ nước nào khác trên thế giới kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Ví
dụ, Ấn Độ trong
20 năm (1950 - 1970) được Hoa Kỳ viện trợ 9,3 tỷ USD (trong khi dân số Ấn Độ
lớn hơn 20 lần); Philippines trong 22 năm được viện trợ gần 2 tỷ
USD (1945 - 1967); Thái
Lan nhận được gần 1,2 tỷ USD, Indonesia nhận
được gần 1 tỷ USD. Ở châu
Phi, tính suốt trong 25 năm (1946 - 1970) tổng số viện trợ Hoa Kỳ
cho tất cả các nước chỉ là 4,9 tỷ USD. Tại miền Nam Việt Nam, “thu nhập
quốc dân chưa bao giờ vượt quá 2 tỷ USD/năm, nhưng trong 5 năm cuối cùng (1971
- 1975), viện trợ Hoa Kỳ hàng năm đạt hơn 2 tỷ USD/năm, tức là lớn hơn tổng số
của cải do miền Nam Việt Nam làm ra”[50]
Giới thương nhân Hoa
kiều cũng nắm giữ vị thế gần như độc quyền các ngành trong nền kinh tế. Trước
năm 1975, ở miền Nam, Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí
kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân
phối và tín
dụng. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị
trường. Đến cuối năm 1974, người Hoa kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của
các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần
như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ và 90% xuất
nhập khẩu[51]
Nhìn chung, kinh tế Việt
Nam Cộng hòa có quy mô nhỏ và bị hạn chế vì tình hình bất ổn, sự tàn phá của
chiến tranh và lệ thuộc vào viện trợ ngoại quốc. Trong giai đoạn 1955 - 1960,
nền kinh tế tăng trưởng khá nhanh và đạt được một số thành tích về nông nghiệp, công nghiệp, nhưng giai đoạn sau (1960 - 1975) thì
liên tục bị sụt giảm. Lợi tức quốc gia mỗi đầu người năm 1967 là 21.013 đồng, tính theo hối suất Mỹ kim là
176,87 USD.[52] GDP bình quân đầu người năm cao nhất (1971) của Việt Nam Cộng
hòa là 200 USD, tuy
nhiên đến năm 1974 đã sụt xuống còn 54 USD do Mỹ cắt giảm viện trợ và tiền Việt
Nam Cộng hòa mất giá khoảng 400% trong 2 năm[38] Theo
tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nền kinh tế có nhiều triển vọng "nếu hội đủ điều
kiện cần thiết để tiến tới chỗ thoát khỏi tình trạng lạc hậu", nhưng điều
kiện chiến tranh khiến kinh tế thường xuyên bị đình trệ.[53]
Nhân
khẩu
Theo Viện Quốc gia Thống kê của Việt Nam Cộng hòa thì tính đến
ngày 30 tháng 6/1968, dân số là 16.259.334. Nông thôn là nơi cư trú của 71% dân
số. Dân thành thị là 29%. Gia tăng tự nhiên là 2%-2,2% với lớp trẻ dưới 20 tuổi
chiếm 57%. Trung bình thì mật độ là 95 người/cây số vuông nhưng vì phân phối không đều nên xét
về mặt kinh tế thì duyên hải Trung phần là nơi nạn nhân mãn ở mức trầm trọng vì mỗi cây số vuông
ruộng lúa (đất canh tác) có 1.258 người. So với Nam phần thì có 425 người mỗi
cây số vuông ruộng lúa.[52]
Phân chia theo sắc tộc thì có 394.463 người Việt gốc Miên, 23.819 người Chàm và 464.354 người Thượng. Số liệu người Thượng không chính xác vì
họ sống du canh ở những vùng hẻo lánh và việc kiểm tra bị hạn chế vì tình hình
an ninh. Người Hoa chiếm khoảng một triệu người, tập trung ở Chợ Lớn và
một số thị xã. Đông nhất là người
Kinh: 15.409.126, chiếm 94,7%.[52]
Văn hóa và xã hội
Buổi lễ trao Giải thưởng Văn chương Toàn quốc
năm 1961 ở Sài Gòn
·
Quốc khánh 26 Tháng 10
·
Tết Nguyên đán
·
Lễ Hai Bà Trưng
·
Lễ Trần Hưng Đạo
·
Lễ Lê Thái tổ
·
Lễ Phật đản
·
Lễ Giáng sinh, 25 Tháng 12
·
Tết Tây 1 Tháng Giêng
·
Lễ Lao động, 1 Tháng Năm
·
Tết Nguyên đán, nghỉ 3 ngày rưỡi từ chiều 30 Tết đến hết ngày mồng
3 Tết
·
Giỗ Tổ Hùng Vương, 10 Tháng Ba
·
Thích Ca thành đạo, 6 Tháng Chạp
Ngoài ra còn có những ngày lễ cổ truyền tính theo âm lịch như
ngày Giỗ trận Đống Đa (5
Tháng Giêng), Lễ Hai bà
Trưng (cũng là ngày Phụ nữ Việt Nam) (6 tháng 2), Giỗ Nguyễn
Du (10 Tháng Tám), Lễ Đức Thánh Trần (20 Tháng Tám), Giỗ Lê Lợi (22
Tháng Tám), Giỗ Phan Bội Châu (29 Tháng Chín) cũng là
những ngày lễ chính thức tuy công sở vẫn làm việc. Có một số ngày lễ khác
như Vu-lan (rằm
Tháng Bảy), và tết
Trung thu (rằm Tháng Tám)[57] (còn
có tên là Ngày Thiếu nhi Sản xuất), Ngày Nông dân Việt Nam (26 Tháng 3), Ngày
Quân lực (19 Tháng 6), Ngày Quốc tế Viện trợ (22 Tháng 6) Ngày Cựu chiến binh
(9 Tháng 7), Ngày Nhân dân Tự vệ (5 Tháng 8) được liệt vào "ngày đặc
biệt" không nghỉ nhưng có tiết mục kỷ niệm của chính quyền.[55]
Một thành tựu văn hóa tại Miền Nam là ngành tân nhạc với khoảng 10.000 bản nhạc ra đời
trong khoảng thời gian 1945-75. Đại đa số những bản nhạc này
sau năm 1975 đều bị chính quyền mới cấm lưu hành[58] thường gọi là nhạc
vàng.
Chính phủ đã hoàn tất việc xây dựng Thư viện Quốc gia Việt Nam,
khởi công từ năm 1968 nhưng đến năm 1971 mới
khánh thành tòa cao ốc. Lúc mở cửa, Thư viện có 121.000 đầu sách.[59] Năm 1975 khi chính quyền
mới tiếp thu thì thư viện này có 200.000 đầu sách.[60] Dự
tính của chính phủ sẽ tiến tới việc thành lập Hàn lâm Viện nhưng bước đầu chỉ
có Ủy ban Điển chế Văn tự thuộc Bộ Văn hóa.[61]
Một đặc điểm của xã hội miền Nam vào thời điểm đó là sự đa dạng
của xã hội dân sự, tức thành phần không thuộc chính phủ mà cũng không thuộc thị
trường kinh doanh. Những cơ sở tên tuổi trong ngành công tác xã hội là cô nhi viện Dục Anh, Cô nhi viện Quách Thị Trang trại giáo hóa
thanh thiếu niên phạm pháp Thủ Đức, viện dưỡng lão Thị Nghè, trung tâm hướng
nghiệp Vườn Lài, Quán cơm xã hội Anh Vũ (phát cơm cho người nghèo).[62] Cùng
đó là những đoàn thể tiêu biểu như Hội
Hồng Thập Tự, tổ chức Hướng đạo Việt Nam, Trường Bách khoa Bình dân, nhóm
Thanh niên Phụng sự Xã hội và gia đình Phật tử của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất, Thiếu nhi Thánh thể, Phong trào Du ca Việt Nam, Hội Thanh niên Thiện chí, v.v.
Đây là một khác biệt lớn giữa hai miền Nam Bắc trong thời gian đất nước chia
đôi.[63]
Giáo
dục
Trước năm 1954, ở
miền Nam có một chi nhánh của Viện Đại học Hà Nội (tiếng
Pháp: Université de Hà Nội) đặt tại Sài Gòn. Sau Hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước, chi
nhánh này cùng với một bộ phận của Viện Đại học Hà Nội chuyển từ miền Bắc vào
trở thành Viện Đại học Quốc gia Việt Nam. Vào
năm 1957, Viện Đại học Quốc gia Việt Nam trở thành Viện Đại học Sài Gòn theo sau việc thành
lập Viện Đại học Huế.[64] Đến
năm 1973, Viện Đại học Sài Gòn đã đứng vào hàng quốc tế.
Sau này các bác sĩ Việt Nam di tản sang Mỹ, chỉ cần một hai năm đào tạo lại và
học thêm tiếng Anh là hành nghề được ngay[65].
Ngoài Viện Đại học Sài Gòn, Việt Nam Cộng hòa còn có các
viện đại học khác như Viện Đại học Huế, Viện Đại học Đà Lạt, Viện Đại học Cần Thơ, Viện Đại học Vạn Hạnh, Viện Đại học Minh Đức, Viện Đại học Hòa Hảo, Viện
Đại học Cao Đài, v.v... Năm 1973, tổng
số sinh viên đại học lên tới 98.832 người so với chỉ 2.900 người vào năm 1955. Số
học sinh trung học trong cùng năm ấy là trên một triệu so với 43.000; và học
sinh tiểu học, trên ba triệu so với 401.000. Ngoài ra còn các trường đại học
cộng đồng (trường đại học hệ hai năm), trường huấn nghiệp và các chương trình
công nghệ.[65] Các trường đại học cộng
đồng được thiết lập từ năm 1970 trở đi, đặt cơ sở ở Định Tường, Nha Trang, Sài Gòn, Đà Nẵng, Vĩnh
Long...[64]
Triết lý giáo dục của
Việt Nam Cộng hòa là "nhân bản, dân tộc, và khai phóng". Điều này ghi
cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Giáo dục
ấn hành năm 1959 và sau đó được ghi lại trong Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa
1967.[64] Hiến
pháp Việt Nam Cộng hòa công nhận quyền tự do giáo dục, và rằng "nền giáo
dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí", "nền giáo dục đại
học được tự trị", và "những người có khả năng mà không có phương tiện
sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn".[66]
Do chương trình có nhiều kỳ thi với tỷ lệ đánh trượt cao nên học
sinh thời Việt Nam Cộng hòa phải chịu áp lực rất lớn về thi cử nên phải học tập
rất vất vả, có bằng tú tài đã
là một thành tích khá. Do thiếu trường học hoặc điều kiện kinh tế khó khăn nên
chỉ khoảng 24% tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18 là được đi học.
Tới năm 1974, tỷ lệ người dân biết đọc và viết của Việt Nam Cộng hòa ước tính
vào khoảng 70% dân số.
Thể
thao
Các đội tuyển thể thao của Việt Nam Cộng hòa đã sớm tham gia thi
đấu quốc tế tại châu Á, đặc biệt là môn bóng đá. Đội thể thao của Việt Nam Cộng
hòa tham dự thể thao ở các kỳ đại hội SEAP Games (nay
là SEA Games), Asiad, Thế vận hội Mùa hè đến năm 1975.
Về bóng đá, đội tuyển Việt Nam Cộng hòa có 2 thành tích chính:
giành huy chương vàng môn bóng đá tại SEAP Games năm 1959 (giải đấu năm đó có 4
đội tham dự)[67], và
giành cúp vô địch giải Merdeka
Cup năm 1966[68] Tuy
nhiên, kể từ năm 1970, thành tích của đội bị suy giảm, số trận thắng ít hơn
nhiều so với số trận thua[69]
Với các môn thể thao nói chung, Việt Nam Cộng hòa giành được 2
chiếc huy chương vàng tại Đại hội Thể thao châu Á 1958 ở
Nhật Bản và xếp hạng 8 trong số 20 nước tham gia kỳ đại hội này[70] Ngoài
ra Việt Nam Cộng hòa còn tham gia nhiều môn thể thao tại các kỳ đại hội thể
thao Đông Nam Á (SEAP Game, tiền thân của SEAGames sau này), Asiad đến năm
1975. Nhìn chung tại SEAP Game, đoàn Việt Nam Cộng hòa thường xếp vị trí 5/6
hoặc 6/7 trong số các đoàn tham dự, có 2 kỳ xếp dưới cả Campuchia (1971 và 1973), chỉ
riêng năm 1961 đạt hạng 4/7.[71]
Đại hội Thể thao Bán đảo Đông Nam Á (1959-1975)
Quốc gia Vàng Bạc Đồng Tổng
Thái Lan 374 254 261 889
Singapore 204 229 221 654
Myanmar 198 207 214 619
Malaya 195 255 316 765
Việt Nam Cộng hòa 39 51 65 155
Cộng hòa Khmer 27 36 41 104
Lào 0 6 23 29
Đại hội Thể thao châu Á (1958-1970)
Đại hội Xếp
hạng Vàng Bạc Đồng Tổng
Tokyo 1958 8/20 2 0 4 6
Băng Cốc 1966 14/18 0 1 2 3
Băng Cốc 1970 16/18 0 0 2 2
Tổng 2 1 8 11
Hạ tầng cơ sở
Một kết quả tốt của chiến tranh là mang tới cho Miền Nam một hạ
tầng cơ sở khá tốt, giúp phát triển kinh tế lâu dài dù việc xây dựng hạ tầng là
rất tốn kém và mất thời gian.
Giao thông
Về đường hàng không, ngoài những phi trường lớn như Tân Sơn
Nhất, Cam Ranh, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ và Biên Hòa có thể tiếp nhận phản
lực đủ loại còn có những phi trường nhỏ ở Đà Lạt, Huế, Kontum, Phú Quốc.
Pleiku, Rạch Giá, và Qui Nhơn. Cộng thêm vào là khoảng 100 sân bay nhỏ, rải rác
khắp nơi, rất tiện cho việc liên lạc giữa các địa phương.[72] Hãng Air
Vietnam là công ty không vận chính
Khánh thành Xa lộ Biên Hoà
Về đường thủy và đường bộ, miền Nam có tới 4.780 cây số sông,
rạch (3.000 dặm Anh). Hải cảng lớn gồm Sài Gòn, Cam Ranh, Đà Nẵng, Nha Trang,
Rạch Giá. Còn đường sá có tới 21.000 km đường trong đó gần 12.000 km
là đường trải nhựa, đi được quanh năm.[73] Cầu các loại qua sông tới
gần 4.000 cây rất nhiều cầu đã bị hư hỏng do chiến tranh, nhưng sửa chữa lại
thì cũng nhanh. Xe lam, xe xích lô máy và
phương tiện di chuyển với động cơ dưới 49cc thì không thuộc dạng phải đăng ký.[74] Tính
đến năm 1974 thì có tổng cộng 258.514 xe lưu thông trên hệ thống đó (bao gồm
35.384 xe vận tải nặng và 64.229 chiếc xe hơi), chưa
kể xe gắn máy (có khoảng 800.000 vào cuối thập niên
1960, tất cả được nhập khẩu từ Nhật và Ý). Tuy nhiên, đến cuối năm 1969, do Mỹ
ngừng thuê lao động khiến lạm
phát trở nên nghiêm trọng, khiến chính phủ Việt Nam Cộng hòa
phải ban lệnh cấm nhập khẩu xe từ nước ngoài[75].
Xa lộ xây dựng đầu tiên là xa lộ Biên Hòa, khánh thành ngày 28 tháng 4
năm 1961. Về đường sắt, tuyến đường sắt Xuyên Đông Dương đã được Pháp làm xong
từ năm 1936, nhưng đến thập niên 1950 thì đoạn đường phía
nam vĩ tuyến 17, khoảng 1/3 đã bị hư hại vì chiến tranh,
không sử dụng được.[76] Còn
lại là hai khúc từ Đông Hà vào
Đà Nẵng và từ Sài Gòn ra Ninh
Hòa. Việc tái thiết kéo dài bốn năm cho đến năm 1959 thì xe lửa mới
chạy được suốt từ Sài Gòn ra Đông Hà, lần đầu tiên sau 12 năm gián đoạn.[77] Năng
suất đường sắt lúc đầu có nhiều triển vọng nhưng sang thập niên 1960 thì tình hình an ninh là
một cản trở lớn. Năm 1963 trở đi thì xe lửa hành khách không chạy vào đêm nữa
vì những đợt tấn công của Mặt trận dân tộc trên tuyến đường từ Huế vào Sài Gòn.[78] Tính
đến năm 1971-1972 thì Việt Nam Cộng hòa có 1.240 km đường sắt nhưng chỉ có 57% sử dụng được. Dù
vậy, tổng lượng hành khách và hàng hóa chuyên chở bằng đường sắt lại tăng dần.
Năm Tổng lượng hàng hóa
vận tải (tấn) Số lượng hành khách (triệu
người)
1959 440.000 2,658
1968 400.000 0,73
1969 530.000 1,75
1970 720.000 2,4
Hệ thống viễn thông và thông tin
Tính đến năm 1970 Miền Nam có 20.000 điện thoại dân sự đăng ký,[81] tính cả nước là 30.964.[82] Mạng điện thoại và điện tín thuộc
ty bưu
điện với đường dây nối Sài Gòn với Đài Bắc, Calcutta, Manila, Osaka, Paris, Brussel, Bern, Bonn, Madrid và New
York. Trong nước hệ thống điện thoại nối Sài Gòn với 21 tỉnh lỵ.[83]
Hệ thống phát thanh quốc gia Việt Nam, tức đài radio mang tên Vô
tuyến Việt Nam (VTVN) vào giữa thập niên 1960 bao gồm đài trung ương ở Sài Gòn và
tám đài khu vực phát sóng từ Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Ban Mê Thuột,
Nha Trang, Đà Lạt, và Cần Thơ. Ngoài ra có những đài địa phương ở những tỉnh
Quảng Nam, Phú Yên, Long An, Kiến Tường, và Định Tường.[84] Đến
năm 1972 thì có tổng cộng 49 đài phát thanh và 5 đài truyền hình đặt ở Sài Gòn, Huế, Quy Nhơn, Nha
Trang và Cần Thơ. Toàn quốc (1967) có 1.300.000 radio.[82]
Truyền hình thì bắt đầu ngày 7 Tháng
Hai 1966, lúc đầu chỉ phát hình một giờ mỗi ngày.[85] Sau vào đầu thập niên 1970 thời lượng phát hình của Đài Truyền hình Việt Nam là
sáu giờ mỗi ngày vào buổi chiều. 80% dân chúng ở Miền Nam có thể bắt sóng xem
được.[86]
Nhật báo trong nước có 48 tờ nhật báo phát hành, đại đa số
bằng tiếng Việt nhưng cũng có nhật báo bằng tiếng
Anh, tiếng
Pháp, tiếng Hoa, và tiếng
Miên. Tính trung bình cho mỗi 1.000 người thì có 51 ấn bản báo chí.[81]
Rạp chiếu bóng tính đến năm 1964 có 170
rạp chiếu phim 35mm, trong đó khoảng 100 rạp tập trung ở vùng Sài Gòn, Chợ Lớn.[87]
Điện lực
Công suất điện lực đạt 125 MW năm 1961[88] nhưng
do chiến tranh nên tụt xuống còn 117 MW (năm 1968). Sang năm 1971 lên được 278
MW.[89]
Phân tích thành phần nguồn điện năm 1961 thì 56% bằng hơi
nước, 43% bằng dầu diezen và 1% bằng thủy điện với đập Đa Nhim bắt
đầu hoạt động Tháng Tư năm 1961.[88]
Đánh
giá
Quan điểm của đối phương
Theo quan điểm của đối phương tức Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền
Nam Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì
họ không công nhận sự hợp pháp của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Họ xem nó chỉ
là một thứ "quốc gia giả hiệu" để Hoa Kỳ hợp thức hóa
mưu đồ chia cắt Việt Nam của Mỹ.[90]
Cũng theo quan điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền
Nam Việt Nam, Việt Nam Cộng hòa được Hoa Kỳ lập ra để "dùng
người Việt Nam đánh người Việt Nam", ngăn chặn phong trào đấu tranh
chính trị của quần chúng, khống chế, dập tắt các cuộc đấu tranh cách mạng ở
nông thôn, bình định đồng bằng, lập ấp chiến lược để dồn dân, chiếm đóng,
khống chế quần chúng. Hoa Kỳ thí nghiệm cuộc chiến tranh đó để rút kinh nghiệm
đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, đe doạ các nước mới giành được độc lập,
bắt các nước đó phải chấp nhận chủ nghĩa thực dân mới.[91]. Do vậy một phần lớn người dân
miền Nam không ủng hộ Việt Nam Cộng hòa mà đã đi theo phong trào Đồng khởi giành chính quyền[92] Các chiến lược chiến tranh của Hoa Kỳ và kế hoạch
lập "Ấp chiến lược" của Việt Nam Cộng hòa đã
vấp phải sự chống đối mạnh mẽ của người dân miền Nam nên đã phá sản.[93] Lực
lượng vũ trang của quân Giải phóng có thể đánh nhiều trận
táo bạo, có hiệu suất cao cũng là nhờ có sự hỗ trợ của nhân dân miền Nam.[94].
Vùng quân Giải phóng kiểm soát nhờ đó được mở
rộng, chiếm phần lớn lãnh thổ miền Nam, trở thành hậu phương trực tiếp và vững
chắc giúp họ đương đầu được với quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa.[95].
Đài Tiếng nói Việt Nam - cơ quan phát thanh quốc gia của Việt
Nam nhận định:
"Chính nghĩa không thuộc về chế độ "Việt Nam Cộng
hòa". Ngay từ đầu, chính thể "Việt Nam Cộng hòa" đã không có một
cơ sở pháp lý vững vàng nào. Mãi tới tận năm 1955 nó mới ra đời một cách bất hợp
pháp trên nửa lãnh thổ phía nam của Việt Nam như một "sáng tạo" thuần
túy của người Mỹ nhằm theo đuổi các mục tiêu phản ánh lợi ích riêng của họ (thị
trường Đông Nam Á, gia tăng ảnh hưởng ở vị trí chiến lược, ngăn chặn làn sóng
xã hội chủ nghĩa…)... Trong khi đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập
chính danh trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào năm 1945. Ngay trong năm 1946, Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa đã tiến hành tổng tuyển cử bầu Quốc hội theo chế độ phổ
thông đầu phiếu trên toàn quốc với sự tham gia của đông đảo nhân dân và đã có bản
Hiến pháp đầu tiên được thông qua – hai sự kiện này đặt cơ sở pháp lý vững chắc
cho nhà nước dân chủ mới khai sinh.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dù đang trên thế thắng về mặt quân sự
(với trận Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu) vẫn chấp nhận một cuộc tổng tuyển cử
sòng phẳng trên tinh thần hòa hợp để thống nhất đất nước đang tạm thời bị chia
cắt. Tuy nhiên cả phía Mỹ và cái gọi là Việt Nam Cộng hòa đều kiên quyết từ chối
thiện chí đó... Ông Ngô Đình Diệm - do CIA (Mỹ) "tìm thấy" và đưa về
Việt Nam làm Thủ tướng của chính phủ bù nhìn Bảo Đại - đã tuyên bố không có tổng
tuyển cử gì hết, trắng trợn vi phạm Hiệp định Geneva, và đi ngược lại nguyện vọng
thống nhất của dân tộc...
Nền tảng trực tiếp cho sự ra đời của Việt Nam Cộng hòa là chính
thể Quốc gia Việt Nam (1949-1955) – đây là một chế độ bù nhìn do Pháp lập nên
trong thời kỳ kháng Pháp và do Bảo Đại (mất ngôi hoàng đế sau Cách mạng tháng
Tám) làm quốc trưởng. Quốc kỳ "ba que" của Việt Nam Cộng hòa cũng
chính là quốc kỳ của "Quốc gia Việt Nam" được Pháp "trao trả độc
lập"... Về bản chất chính trị, "Việt Nam Cộng hòa" đại diện cho
các tầng lớp tư sản mại bản và phong kiến thân Mỹ... Bước chuyển từ "Quốc
gia Việt Nam" sang "Việt Nam Cộng hòa" là bước chuyển từ làm tay
sai cho thực dân Pháp sang làm tay sai cho đế quốc Mỹ... Còn tính chính danh của
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là rất cao, nên Mỹ không thể lấy cớ để lôi kéo quân của
Liên Hợp Quốc vào lãnh thổ Việt Nam tham chiến như đã từng xảy ra trên bán đảo
Triều Tiên.[96]
Bên cạnh đó, Việt Nam Cộng hòa không phải là một chính thể được
lòng dân. Cũng Đài Tiếng nói Việt Nam nhận định:
"Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, lòng dân luôn hướng về Đảng Cộng sản Việt Nam, cả ở miền Bắc lẫn miền Nam... Ở miền Nam liên tục diễn ra các
cuộc biểu tình của dân chúng, của Phật giáo, sinh viên, trí thức, ký giả... các
hoạt động đấu tranh vũ trang rộng khắp của quần chúng phá thế kìm kẹp ở nông
thôn (như phong trào đồng khởi ở Bến Tre và toàn Nam bộ)... Nằm ngay cửa ngõ
Sài Gòn là khu "đất thép" Củ Chi của các
du kích và quân giải phóng miền Nam, tồn tại bao năm như cái gai thách thức chế
độ Mỹ-ngụy... Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968 đã giáng một đòn mạnh,
chỉ cho thế giới thấy chính thể Việt Nam Cộng hòa mất lòng dân đến mức nào...
Vì rõ ràng, những người cộng sản không thể tiến hành một cuộc tấn công đồng loạt,
rộng khắp và mãnh liệt trong thời gian dài như vậy (trên toàn đô thị miền Nam,
trong điều kiện hết sức khó khăn) nếu thiếu sự che chở bao bọc của đông đảo
nhân dân...
Nếu Việt Nam Cộng hòa thực sự hợp lòng dân, được nhân dân ủng hộ
thì có lẽ sẽ không xuất hiện Mặt trận Dân tộc
giải phóng miền Nam (vào năm 1960), cùng
với lực lượng Quân Giải phóng miền Nam (năm 1961), rồi sau đó là chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (vào năm 1969) ngay trên phần đất của miền Nam Việt Nam, với
nhân lực chính là người miền Nam, nói giọng miền Nam. Như vậy ở phía nam vĩ tuyến
17 đã hình thành 2 vùng kiểm soát với 2 quân đội tương ứng, khiến cho tính hợp
pháp và chính danh của chế độ Việt Nam Cộng hòa vốn đã kém lại càng bị thách thức
nghiêm trọng...
Thậm chí ngay cả ở những vùng Mỹ-ngụy chiếm giữ, vẫn tồn tại
song song hai hệ thống chính quyền, hai lực lượng. Một bên là chế độ ngụy công
khai, một bên là các đảng bộ cộng sản cùng các đơn vị công an và bộ đội địa
phương hoạt động ngầm tương ứng với các đơn vị hành chính... Lực lượng tình báo
cách mạng đã xâm nhập hết sức hiệu quả vào bộ máy an ninh tình báo ngụy và hệ
thống chính quyền ngụy, kể cả ở cấp cao nhất... Trước giờ cáo chung, ngụy quyền
còn tuyên truyền quân giải phóng sẽ dìm Sài Gòn trong biển máu. Nhưng cuối cùng
thì không có cuộc tắm máu nào như thế cả. Các hình ảnh do chính phóng viên ảnh
và quay phim nước ngoài ghi lại đã cho thấy quần chúng hồ hởi đón chào quân giải
phóng đến nhường nào trong trưa 30/4/1975 tại Sài Gòn... Như vậy, có thể khẳng
định một cách chắc chắn rằng cuộc Chiến tranh Việt Nam 1955-1975 không phải là
nội chiến mà là cuộc kháng chiến chính nghĩa do toàn dân tiến hành chống lại
ngoại xâm và tay sai của ngoại bang."[96]
Quan điểm của chính quyền Mỹ
Tài liệu được giải mật của Lầu Năm Góc vào năm 2010 cũng viết: "Không
có sự yểm trợ của Hoa Kỳ, Diệm hầu như chắc chắn không thể đứng vững được ở
miền Nam... Nam Việt Nam, về bản chất, là một sáng tạo của Hoa Kỳ"[97] Thậm
chí tổng thống Mỹ Nixon trong
lúc tức giận còn từng nói: "Không thể để có cái đuôi chó phản lại
cái đầu con chó được."[98]
Tại cuộc họp do Hội "American Friends of Vietnam", một
tổ chức vận động ủng hộ Ngô Đình Diệm ở Washington D.C. ngày
1/6/1956, John F. Kennedy (về sau là Tổng thống Mỹ)
tuyên bố: “Nếu chúng ta không phải là cha mẹ của nước Việt Nam bé nhỏ
[chỉ Việt Nam Cộng hòa] thì chắc chắn chúng ta cũng là cha mẹ đỡ đầu của nó.
Chúng ta chủ tọa lúc nó ra đời, chúng ta viện trợ để nó sống, chúng ta giúp
định hình tương lai của nó (…). Đó là con cái của chúng ta - chúng ta không thể
bỏ rơi nó, chúng ta không thể không biết tới những nhu cầu của nó”.
Thượng nghị sĩ Donald Duncan sau
khi từ Việt Nam về nước đã cho xuất bản một bản báo cáo về cuộc chiến tranh
Việt Nam đăng Tạp chí Ramparts (tháng
02/1965), trong đó ông đã nhận xét: “Tôi đã phải chấp nhận thực tế
rằng… đại đa số người dân Việt Nam ủng hộ Việt Cộng và chống lại chính phủ Sài
Gòn"[99]
Trung tướng Bernard Trainor, từng
phục vụ ở Việt Nam hai lần, của cả hai loại hình Chiến tranh đặc biệt và Chiến tranh cục bộ, so
sánh cuộc chiến ở Việt Nam với cuộc chiến tranh giành độc lập Hoa Kỳ: "Tôi
thấy cuộc kháng chiến của Việt Nam có nét tương đồng với cuộc Cách mạng của Mỹ. Cũng như các nhà cách mạng Mỹ
thời đó, người Việt quyết chiến đến cùng. Những người dân Mỹ hồi đó đã đi tới
một quyết định rằng độc lập là thiết yếu. Họ đặt cược tính mạng và của cải của
mình vào sự nghiệp giành độc lập... Hy vọng ban đầu là thu phục trái tim khối
óc của người dân, nhưng hy vọng này đã bị tan tành bởi sự thất bại của chính
quyền Sài Gòn trong việc giành tín nhiệm của người dân và chiến lược Tìm và diệt của Westmoreland…".[100]
Quan điểm của giới chức Việt Nam Cộng hoà
Các quan chức cấp cao Việt Nam Cộng hoà cũng công nhận sự lệ
thuộc của họ vào Hoa Kỳ. Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu đã từng phát biểu:
"Nếu Mỹ mà không viện trợ cho chúng tôi
nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau 3 giờ, chúng
tôi sẽ rời khỏi dinh Độc Lập!"
Trong bài viết "30/4/1975, Dương Văn Minh và
tôi", Nguyễn Hữu Thái thuật lại lời Tổng
thống Dương Văn Minh đã nói với ký giả
Francois Vanuxem khi được ông này khuyên rút về Vùng 4 chiến thuật để chờ Trung
Quốc can thiệp nhằm tìm một giải pháp trung lập hóa Miền Nam:
"Hết Tây (Pháp) rồi đến Mỹ, chẳng lẽ bây
giờ còn đi làm tay sai cho Tàu nữa sao!"
Ông Hồ Ngọc Nhuận, một dân biểu thời Việt Nam Cộng Hòa trả lời
phỏng vấn năm 2009:
"Ngày xưa tôi gọi đây là chiến tranh của
Mỹ tại vì ổng (Mỹ) vô trong này từ cấp lớn đến cấp nhỏ ổng đều ở trên đầu, ổng
làm cố vấn hết. Từ trên xuống dưới là của ảnh hết, súng cũng của ảnh, hành quân
cũng của ảnh, đánh gì cũng của ảnh và trách nhiệm cũng của ảnh. Còn ông tổng
thống trước khi ổng chạy đi thì ổng lên tiếng chửi Mỹ. Cái người ủng hộ Mỹ nhất
mà cũng quay lại chửi Mỹ thì hỏi tôi không chống Mỹ sao được?"
Năm 2005, khi và trả lời phỏng vấn của báo Thanh Niên, nguyên Thủ tướng Việt Nam
Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ nhận định rằng:
"Mỹ luôn luôn đứng ra trước sân khấu, làm
"kép nhất". Vì vậy ai cũng cho rằng đây là cuộc chiến tranh của người
Mỹ và chúng tôi chỉ là những kẻ đánh thuê..."
Trong bộ phim tài liệu của hãng PBS, ông
kể rằng mình cùng Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Khánh, và Nguyễn Chánh Thi từng bị đại sứ Mỹ triệu
tập và đập bàn ghế trách mắng thậm tệ, rằng:
"Từ nhỏ tới lớn, ngay cả cha ruột cũng
chưa bao giờ chửi mắng tôi nặng nề và lâu đến như vậy"
Tướng tổng tư lệnh Nguyễn Khánh thì phải rời khỏi Việt Nam bởi mệnh
lệnh từ chính Đại tướng Mỹ Maxwell
D. Taylor, năm sau Nguyễn Chánh Thi cũng chịu chung số phận.[106]
"Chúng ta không có trách nhiệm về chiến
tranh. Trách nhiệm về cuộc chiến ở đây là của người Mỹ. Chính sách đó do họ đề
ra, chúng ta chỉ theo họ mà thôi !"
"Tôi nói thật, trong tất cả các đời tổng
thống Việt Nam Cộng hòa, ai mà Mỹ không ưa thì người ấy bị hất đổ ngay... Người
Mỹ họ có đường lối của họ: đó là họ phải nắm chỉ huy ở miền Nam này. Họ chỉ huy
trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế tới ngoại giao Mỹ đều nắm hết."
Nguyễn Tiến Hưng, bộ trưởng kinh tế Việt Nam
Cộng hoà nhận xét về sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hoà:
“Tôi cũng đồng ý với câu
phương châm "tiên trách kỷ, hậu trách nhân" của người xưa. Trước
những thất bại, ta phải tự trách mình trước. Về chính trị, các bình luận gia
thường nêu lên những yếu kém, khuyết điểm của lãnh đạo và người dân Việt Nam
Cộng hoà. Lãnh đạo thì độc tài, thiếu khả năng, quá tin vào Mỹ, tham nhũng, có
khi còn xa hoa quá mức. Nhân dân thì chia rẽ, một phần thì thờ ơ, chống đối,
chán chường một cuộc chiến dài lê thê.
Tất cả những nhận xét trên, không ít thì nhiều đều có phần xác đáng. Tuy nhiên, sau khi theo rõi cuộc chiến nhiều năm, trước hết là từ ngay trên đất Mỹ (vào những năm 1958-1972), cũng như đã được chứng kiến những sự việc ở hậu trường trong ba năm cuối cùng của Việt Nam Cộng hoà (1973-1975), rồi nghiên cứu thêm từ đó, tôi vẫn khẳng định rằng sự lệ thuộc vào Hoa Kỳ gần như hoàn toàn, cả về vật chất lẫn tâm lý đã là yếu tố quyết định (cho sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hoà).
Về mặt kinh tế, khi chiến tranh leo thang, sản xuất trong nước không phát triển được, lại còn tụt hậu, cung ứng cho nhu cầu của nhân dân phải dựa vào đôla của Mỹ để nhập cảng. Những sản phẩm cho nhu cầu từ ăn, ở, mặc, tới vận chuyển, một tỷ lệ rất quan trọng được đáp ứng từ viện trợ Mỹ... về vật chất, sự lệ thuộc đã hầu như là toàn diện. Tình trạng này lại còn dẫn tới sự lệ thuộc về tinh thần và tâm lý. Nếu Mỹ còn giúp, thì các nhà lãnh đạo và quân đội Việt Nam Cộng hoà còn chịu đựng, chiến đấu. Nếu có dấu hiệu là Mỹ bắt đầu bỏ, thì tinh thần bắt đầu sa sút. Tới lúc bỏ thật là sụp đổ
...Về chính trị, phía Mỹ luôn chủ động như vậy, còn về quân sự? Ngay từ lúc Mỹ mới nhúng tay vào Miền Nam cũng đã có sự bất đồng về chiến thuật giữa các cố vấn Mỹ và tướng lãnh Việt Nam Cộng hoà. Trong một buổi họp, viên tư lệnh Mỹ ở Miền Nam, Tướng John W. O'Daniel đã nói toạc ra là "Ai chi tiền thì người đó chỉ huy" (Who pays, commands)...
Khi Việt Nam Cộng hoà hấp hối, Henry Kissinger còn nguyền rủa: "Sao chúng (Việt Nam Cộng hoà) không chết phứt cho rồi? Điều tệ hại nhất có thể xảy ra là chúng cứ sống dai dẳng hoài"
Tất cả những nhận xét trên, không ít thì nhiều đều có phần xác đáng. Tuy nhiên, sau khi theo rõi cuộc chiến nhiều năm, trước hết là từ ngay trên đất Mỹ (vào những năm 1958-1972), cũng như đã được chứng kiến những sự việc ở hậu trường trong ba năm cuối cùng của Việt Nam Cộng hoà (1973-1975), rồi nghiên cứu thêm từ đó, tôi vẫn khẳng định rằng sự lệ thuộc vào Hoa Kỳ gần như hoàn toàn, cả về vật chất lẫn tâm lý đã là yếu tố quyết định (cho sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hoà).
Về mặt kinh tế, khi chiến tranh leo thang, sản xuất trong nước không phát triển được, lại còn tụt hậu, cung ứng cho nhu cầu của nhân dân phải dựa vào đôla của Mỹ để nhập cảng. Những sản phẩm cho nhu cầu từ ăn, ở, mặc, tới vận chuyển, một tỷ lệ rất quan trọng được đáp ứng từ viện trợ Mỹ... về vật chất, sự lệ thuộc đã hầu như là toàn diện. Tình trạng này lại còn dẫn tới sự lệ thuộc về tinh thần và tâm lý. Nếu Mỹ còn giúp, thì các nhà lãnh đạo và quân đội Việt Nam Cộng hoà còn chịu đựng, chiến đấu. Nếu có dấu hiệu là Mỹ bắt đầu bỏ, thì tinh thần bắt đầu sa sút. Tới lúc bỏ thật là sụp đổ
...Về chính trị, phía Mỹ luôn chủ động như vậy, còn về quân sự? Ngay từ lúc Mỹ mới nhúng tay vào Miền Nam cũng đã có sự bất đồng về chiến thuật giữa các cố vấn Mỹ và tướng lãnh Việt Nam Cộng hoà. Trong một buổi họp, viên tư lệnh Mỹ ở Miền Nam, Tướng John W. O'Daniel đã nói toạc ra là "Ai chi tiền thì người đó chỉ huy" (Who pays, commands)...
Khi Việt Nam Cộng hoà hấp hối, Henry Kissinger còn nguyền rủa: "Sao chúng (Việt Nam Cộng hoà) không chết phứt cho rồi? Điều tệ hại nhất có thể xảy ra là chúng cứ sống dai dẳng hoài"
"Người Mỹ đã thay thế người Pháp với chính
sách thực dân mới.
Vào thế kỷ XX, người Pháp nhân danh khai hóa để khai thác tài nguyên thuộc địa,
nay người Mỹ nhân danh dân chủ để khai thác xương máu người Việt trong việc
thiết lập một "tiền đồn chống Cộng" tại Đông Nam Á... Nền dân chủ mà
người Mỹ tán dương khi can thiệp vào Việt Nam là nền dân chủ được định nghĩa
trong quyền lợi của Mỹ, một thứ phó sản được dùng làm bình phong để thực hiện
chính sách chia để trị, thiết lập đạo quân thứ năm, khuyến khích tình trạng vô
chính phủ, nội loạn… để dễ bề khuynh loát và khi cần thiết để thực hiện các
cuộc đảo chính và ám sát lãnh tụ quốc gia bằng bàn tay của các tay sai bản
xứ…"
Tướng Nguyễn Hữu Có, Phó thủ tướng, kiêm Tổng
trưởng Quốc phòng, đồng thời là Tổng tham mưu trưởng Việt Nam Cộng hòa:
"Sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn cũ
(Việt Nam Cộng hòa) là tất yếu"
Quan điểm của phong trào phản chiến tại Mỹ
https://s20.postimg.org/thzah4fzx/Vietnam_War_protesters._1967.jpg
Người biểu tình phản chiến Mỹ với sự châm
biếm: Đế quốc Mỹ và "Con rối Sài Gòn"
Năm 1972, Uỷ ban đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ tổ chức một cuộc điều
trần về cuộc chiến tranh Việt Nam suốt ba ngày liền, xoay quanh chủ đề nguồn
gốc, nguyên nhân của cuộc chiến Việt Nam và những bài học rút ra từ đó. Bốn học
giả có tên tuổi đại diện cho phong trào phản chiến Leslie Gelb, James Thomson, Arthur Schlesinger và Noam
Chomsky, từng nghiên cứu nhiều về Việt Nam, được Quốc hội Mỹ mời đến
báo cáo góp ý kiến cho Quốc hội về cuộc chiến tranh Việt Nam. Đánh giá về Việt
Nam Cộng hòa, giáo sư Noam
Chomsky của học viện MIT đã
nói:
"Chính phủ Nam Việt Nam đã trở thành nơi ẩn nấp của những
người Việt Nam từng đi theo Pháp trong cuộc chiến đấu chống lại nền độc lập của
đất nước họ. Chính phủ Nam Việt Nam không có cơ sở thành trì trong nhân dân. Nó
đi theo hướng bóc lột dân chúng nông thôn và tầng lớp dưới ở thành thị, trên thực
tế nó là sự tiếp tục chế độ thuộc địa của Pháp"
Theo một góc nhìn khác, tiến sĩ Daniel
Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong buổi phỏng vấn
với CNN và
trong quyển sách "Những Bí mật về Chiến tranh Việt Nam" đã viết:
"Không hề có chiến tranh Đông Dương thứ nhất và thứ nhì, chỉ
có một cuộc xung đột nối tiếp trong một phần tư thế kỷ. Dùng ngôn từ thực tế, đứng
về một phía (Mỹ), ngay từ đầu nó đã là một cuộc chiến của Mỹ: mới đầu là Pháp-Mỹ,
sau đến toàn là Mỹ. Trong cả hai trường hợp, nó là một cuộc đấu tranh của người
Việt Nam – không phải là tất cả người Việt Nam nhưng cũng đủ để duy trì cuộc đấu
tranh – chống chính sách của Mỹ và những kinh viện, ủy nhiệm, kỹ thuật gia, hỏa
lực, và cuối cùng, quân đội và phi công, của Mỹ. Một cuộc chiến mà trong đó một
phía (Việt Nam Cộng hòa) hoàn toàn được trang bị và trả lương bởi một quyền lực
ngoại quốc – một quyền lực nắm quyền quyết định về bản chất của chế độ địa
phương vì những quyền lợi của mình – thì đó không phải là một cuộc nội chiến..."[112]
Quan điểm của giới sử gia phương Tây
Nhiều nhà sử học phương Tây thì xem chính thể này như là sản
phẩm của chính sách can thiệp thực dân mới mà
Mỹ tiến hành tại Đông Nam Á.[113][114][115].
"Chiến thắng của họ (Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam) là chiến thắng của dân tộc Việt
Nam - người Bắc cũng như người Nam. Khác xa với một cuộc nội chiến, cuộc đấu
tranh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam là một sự khẳng định nguyên tắc
thống nhất dân tộc mà chính quyền Sài Gòn đã tuyên bố ủng hộ rồi phản bội"
Nhiều sử gia cho rằng chính thể này là một chính phủ con rối của Mỹ.[117] Chuyên
gia bình định, Trung Tá Mỹ William R. Corson thừa
nhận rằng "vai trò của chế độ bù nhìn của Mỹ ở miền Nam Việt Nam
là "cướp bóc, thu thuế, tái lập lại địa chủ, và tiến hành trả thù chống
lại người dân". Nhà sử học James Gibson tóm
tắt tình hình: "Chế độ miền Nam Việt Nam không có khả năng chiến
thắng vì không có sự ủng hộ của những người nông dân, nó đã có không còn là một
"chế độ" theo đúng nghĩa. Liên minh chính trị bất ổn định và hoạt
động bộ máy thì quan liêu. Hoạt động của chính phủ dân sự và quân sự đã hầu như
chấm dứt. Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã gần như tuyên bố quyền kiểm soát tại
các khu vực rộng lớn... nó rất khác với một chính phủ Sài Gòn yếu ớt, không có
nền dân chủ cơ bản và một mong muốn mạnh mẽ cho sự thống nhất Việt Nam"[118].
Craig A. Lockard nhận
xét rằng:
"Trong sự khinh thường của những người Mỹ
mà họ phục vụ, Việt Nam Cộng hòa chỉ là một thứ công cụ để hợp thức hóa việc
phê chuẩn, nếu không phải là thường bị loại ra khỏi sự chỉ đạo của Mỹ. Việt Nam
Cộng hòa hiếm khi đưa ra chính sách lớn, họ thậm chí còn không được tham khảo ý
kiến về quyết định của Mỹ năm 1965 đưa một lực lượng lớn quân vào tham chiến
trên bộ."
Nhà sử học Gregory Daddis nhận
xét: những hành vi tội ác của quân đội Việt Nam Cộng hòa khiến người dân xem họ
như kẻ thù. Một nông dân kể rằng "Khi quân đội Việt Nam Cộng hòa
tới, mọi người trong làng đều bị đe dọa... Quân đội thoải mái đánh đập bất cứ
ai, giết bất cứ ai", người khác kể rằng "cứ mỗi lần quân
đội Việt Nam Cộng hòa tới thì lại càng có nhiều người dân ủng hộ Việt
cộng". Khi được hỏi tại sao người dân không ủng hộ chính phủ Sài Gòn,
một người dân trả lời "vì quân đội Việt Nam Cộng hòa... thường
xuyên đốt nhà của dân làng và hiếp
dâm phụ nữ". Không có cách nào để Việt Nam
Cộng hòa có thể đánh bại đối phương khi mà người dân đã xa lánh họ và quan hệ
thân thiết với quân Giải phóng[120].
"Sự tha hóa tư sản của chính phủ Nam Việt
Nam từ thời Diệm đã trở nên tồi tệ hơn khi người khác kế nhiệm ông. Chính quyền
Sài Gòn vô vọng, tham nhũng, đàn áp dân chủ dữ dội. Đến cuối thập niên 1960 đã
có hàng ngàn tù nhân chính trị ở Nam Việt Nam. Bầu cử là một trò hề, không có
quá trình cải cách khả thi cho chính quyền Sài Gòn và kết quả là nhiều nhà cải
cách tham gia cuộc đấu tranh vũ trang của đối phương." Trong khi Việt Minh đã giảm thuế, xóa nợ và cho thuê đất với nông dân
nghèo, Diệm đã đưa giai cấp địa chủ trở lại. Nông dân đã phải trả lại đất cho địa chủ rồi phải trả tiền
thuê đất. Tiền thuê đất này được thu bởi quân đội Nam Việt Nam. Điều này tạo ra
một cơn giận dữ ở nông thôn, quân đội Nam Việt Nam bị mắng chửi là "tàn nhẫn hệt như bọn
Pháp", kết quả là tại nông thôn, 75% người dân ủng hộ quân Giải
phóng, 20% trung lập trong khi chỉ có 5% ủng hộ chế độ Sài Gòn.
James M. Carter, giáo
sư Đại học Drew nhận
xét trong sách "Inventing Vietnam: The United States and State Building,
1954-1968" (Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 2008) như sau[122]:
Trung Quốc đòi
Việt Nam trả nợ chiến tranh
Những sự thật về
"Cách Mạng Tháng Tám"
[video] https://www.youtube.com/watch?v=0ueHvZ6XkJU[/video]
No comments:
Post a Comment