Monday, April 2, 2018

Chúa Nguyễn (chữ Nômchữ Hán / Nguyễn vương)


Chúa Nguyễn (1558–1777)
Chúa Nguyễn
主阮
阮王
Lãnh địa công quốc
1558–1777

Thế cục Đại Việt thời Trịnh-Nguyễn phân tranh năm 1650

Thủ đô                                  Phú Xuân
Ngôn ngữ                             Tiếng Việt, Hán văn
Tôn giáo                               Tam giáo quy nguyên
Chính quyền                         Quân chủ chuyên chế
Giai đoạn lịch sử                  Nhà Lê trung hưng

Thành lập                                                                                         1558
Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng Thuận Hóa                                   1558
Nguyễn Phúc Khoát chính thức xưng vương                                     1744
Khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ                                                                           1771
Nguyễn Phúc Dương bị quân Tây Sơn giết, Chúa Nguyễn chấm dứt               1777
Bãi bỏ                                                                                               1777


Map showed the division of Vietnam territory among Nguyễn lords, Trịnh lordsMạc rulers and Champain the civil war.
Chúa Nguyễn (chữ Nômchữ Hán / Nguyễn vương) là cách gọi chung trong sử sách và dân gian về một dòng họ đã cai trị dải đất đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo Ngang hiện nay) vào miền nam của Việt Nam, bắt đầu từ đầu giai đoạn Lê Trung Hưng của nhà Hậu Lê, hay giữa thế kỷ XVI, cho đến khi bị nhà Tây Sơn tiêu diệt năm 1777.
Các chúa Nguyễn là tiền thân của nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam.
Năm 1527Mạc Đăng Dung soán ngôi nhà Lê và lập ra nhà Mạc
Nguyễn Kim (1468-1545), vốn là một tướng giỏi của nhà Hậu Lê, nhờ có công giúp vua Lê chống lại nhà Mạc nên được phong chức Thái Sư Hưng Quốc Công (sau này khi nhà Nguyễn thành lập đã truy tôn ông là Triệu tổ Tĩnh hoàng đế).
Nguyễn Kim có ba người con. Con gái đầu tên Ngọc Bảo, lấy Trịnh Kiểm, người sau này trở thành người mở đầu cho sự nghiệp của các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài; hai người con trai kế của Nguyễn Kim cũng là tướng giỏi và được phong chức Quận công.
Sau khi người con trai lớn là Nguyễn Uông bị anh rể là Trịnh Kiểm giết, người con trai còn lại là Nguyễn Hoàng đã xin vua Lê cho vào cai trị vùng đất Thuận Hóa để rời xa sự kiểm soát của anh rể, nhằm mưu đồ tạo dựng cơ nghiệp riêng cho họ Nguyễn.
Các chúa Nguyễn về danh nghĩa là quan của Nhà Lê trung hưng, nhận sắc phong và dùng niên hiệu của vua Lê, giúp vua Lê cai quản vùng lãnh thổ phía nam. Nhưng trên thực tế họ cai trị lãnh thổ Đàng Trong một cách tương đối độc lập với vua Lê.
Tổng cộng có 10 chúa Nguyễn cai quản xứ Đàng Trong trong hơn 2 thế kỷ. Tình trạng chia cắt Việt Nam thành Đàng Trong (của Chúa Nguyễn) với Đàng Ngoài (của Chúa Trịnh) kéo dài suốt khoảng thời gian đó, và chỉ chấm dứt sau khi nhà Tây Sơn nổi dậy và đánh đổ cả hai tập đoàn Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn vào cuối thế kỷ XVIII.

the map of Vietnam circa 1569, showing the Mạc in control of the north (green) while the Lê-Trịnh alliance controlled the middle (yellow) and Nguyễn controlled the south(orange) .

Nguồn gốc

Nguyễn Kim, cha của chúa Nguyễn đầu tiên Nguyễn Hoàng, được một số sách chép là con của Nguyễn Hoằng Dụ, và là cháu của Nguyễn Văn Lang. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Đinh Công Vĩ thì cha của Nguyễn Kim là Nguyễn Văn Lưu, em họ của Trường Lạc hoàng thái hậu Nguyễn Thị Hằng và là anh họ của Nguyễn Văn Lang. Tức Nguyễn Kim là chỉ là cháu họ của Nguyễn Đức Trung và là anh họ của Nguyễn Hoằng Dụ.

Theo tác giả Đinh Công Vĩ, khảo cứu 7 nguồn gia phả họ Nguyễn khác nhau tại sách ‘‘Nhìn lại lịch sử’’, các phả họ Nguyễn nói chung có sự khác nhau về vấn đề khẳng định hoặc không khẳng định việc đưa Nguyễn Trãi vào, cho rằng ông là cha của Nguyễn Công Duẩn; còn thông tin từ đời Nguyễn Đức Trung trở đi, các gia phả đều thống nhất rằng: Nguyễn Hoằng Dụ chỉ là em họ của Nguyễn Kim. Theo đó, Nguyễn Công Duẩn sinh bảy con trai, sau phân thành 7 chi. Chỉ xét 4 chi:
1.    Chi đầu là Nguyễn Đức Trung, sau được phong Thái úy Trình quốc công. Ông là tổ họ Nguyễn Hữu, sinh được 14 con, trong đó con gái thứ 2 là Nguyễn Thị Hằng. Thái phó Tĩnh quốc công Nguyễn Hữu Dật là hậu duệ của ông.
2.    Chi 4 là Nguyễn Như Trác, sau được phong Thái bảo Phó quốc công. Ông là tổ của dòng hoàng tộc Nguyễn Phúc, sinh Nguyễn Văn Lưu. Văn Lưu sinh ra Nguyễn Kim.
3.    Chi 5 là Nguyễn Văn Lỗ, sau được phong Thái úy Sảng quốc công. Ông là tổ họ Nguyễn Gia (Liễu Ngạn, Bắc Ninh), sinh ra Nguyễn Văn Lang, Văn Lang sinh Nguyễn Hoằng Dụ. Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều là hậu duệ của ông.
4.    Chi 7 là Nguyễn Bá Cao, sau được phong Thái phó Phổ quốc công. Ông là tổ họ Nguyễn Cửu, sinh được 2 trai. Phó tướng Nguyễn Cửu Kiều là hậu duệ của ông.
Còn một minh chứng nữa mà tác giả Đinh Công Vĩ nêu ra: Ở Triệu miếu (Huế) và Nguyên miếu (Gia Miêu ngoại trang) chỉ thờ Nguyễn Văn Lưu là cha đẻ thực của Nguyễn Kim mà không thờ Nguyễn Hoằng Dụ, cha Nguyễn Kim như sử chép. Mặt khác, mộ cha Hoằng Dụ là Nguyễn Văn Lang ở làng Tam Quy xã Hà Tân, Hà Trung, Thanh Hoá chỉ do con cháu chi 5, nay đã đổi ra họ Đỗ Nguyễn trông nom, họ Nguyễn Phúc không có nhiệm vụ trông nom mộ Nguyễn Văn Lang. Trong các nguồn gia phả, có cuốn do Quỳnh Sơn hầu Nguyễn Lữ là em ruột Nguyễn Văn Lang soạn năm 1515, khi đó những người đang được đề cập còn sống[1].
Theo tộc phả của họ Đào-Phạm-Dương-Nguyễn tại Đông Trang, Ninh Bình thì Nguyễn Kim là hậu duệ của Trạng nguyên Đào Sư Tích cuối đời Nhà Trần. Vào cuối đời Nhà Trần, Hồ Quý Ly thâu tóm quyền lực, Vua Trần chỉ là hư danh. Trước tình thế đó, Trạng nguyên Đào Sư Tích ủng hộ Nhà Trần, tính kế chấn hưng Nhà Trần. Trước khi đi sứ Trung Hoa, Trạng nguyên Đào Sư Tích lo hậu họa từ Hồ Quý Ly nên khuyên con cháu đổi sang họ Phạm, Dương và Nguyễn. Theo đó, một nhánh của dòng Nguyễn này là thủy tổ của Nguyễn Kim. Hiện nhà thờ họ Nguyễn ở Hà Trung đang thờ áo mão phục chế từ bộ áo mão của Trạng nguyên Đào Sư Tích vốn là bộ áo mão duy nhất đang thờ tại Văn miếu-Quốc tử giám. Chính họ Nguyễn ở Hà Trung, Thanh Hóa đã chủ động đi tìm dòng họ Đào và kết nối dòng họ.

Các hoạt động đối nội

Việc quan chế

Vào thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng khi mà họ Nguyễn vẫn chưa ra mặt chống đối với họ Trịnh thì quan lại vẫn do chính quyền Trung ương ngoài Bắc bổ nhiệm.
Tới đời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, với việc tuyển dụng nhiều nhân tài (đơn cử như Đào Duy Từ), chấm dứt việc nộp thuế cho nhà Lê-Trịnh và đem quân chống giữ họ Trịnh ở Bắc Bố Chính, các chúa Nguyễn đã thực sự bắt đầu xây dựng một chính quyền riêng ở Đàng Trong, việc bổ nhiệm quan lại từ đó đều do các chúa tự đặt.
 https://s20.postimg.org/li03w9q1p/Th_t_Nguy_n_Ph_c_Nguy_n.jpg
Tranh vẽ Thế tử Nguyễn Phúc Nguyên khi còn đang tại nhiệm Trấn thủ Quảng Nam
Ở Chính dinh (Thủ phủ của chúa Nguyễn) đặt ra tam ty để giúp chúa chăm lo việc chính sự, tam ty đó là:
·        Xá ti: trông coi việc từ tụng, văn án. Đứng đầu là quan Đô tri và Ký lục.
·        Tướng thần lại ti: trông coi việc thu thuế, phân phát lương thực cho quân đội. Đứng đầu là quan Cai bạ.
·        Lệnh sứ ti: trông coi việc tế tự, lễ Tết và phát lương cho quân lính ở Chính dinh, đứng đầu là quan Nha úy.
Dưới mỗi ty lại có quan Cai hợp, Thủ hợp và các Lại ty giúp điều hành mọi việc.
Ngoài Chính dinh thì tùy theo tầm quan trọng của các dinh mà phân bổ số lượng quan viên, ví dụ có những dinh chỉ đặt một ty là Lệnh sứ ti nhưng trông coi công việc của cả hai ty còn lại.
Các cấp hành chính ở dưới dinh bao gồm: phủ, huyện được trông coi bởi Tri phủ, Tri huyện và các quan dưới quyền như Đề lại, Thông lại, Huấn đạo, Lễ sinh...
Đến thời chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan đặt thêm các chức Nội tả, Ngoại tả, Nội hữu, Ngoại hữu, gọi là tứ trụ triều đình để giúp chúa trông coi việc nước.

 

Việc thi cử

Việc tuyển dụng quan lại ở kinh đô và các dinh được thực hiện bằng khoa cử, ngoại trừ một số trường hợp đã từ Bắc vào Nam theo chúa Nguyễn Hoàng vào năm 1558 và năm 1600.
Từ năm 1632, chúa Sãi bắt đầu cho mở khoa thi để lấy người vào các chức vụ Tri phủ, Huấn đạo, Lễ sinh.
Năm Đinh Hợi (1647) chúa Nguyễn Phúc Tần cho lập ra hai bậc thi: thi Chính đồ và thi Hoa văn. Chương trình thi Chính đồ gồm có ba kỳ: kỳ thứ nhất thi tứ lục - kỳ thứ hai thi thơ phú - kỳ thứ ba thi văn sách. Hội đồng giám khảo có quan Tri phủ, Tri huyện làm sơ khảo, quan Cai bạ, Ký lục, Vệ úy làm Giám khảo. Khóa sinh trúng tuyển được chia theo ba hạng: đứng nhất là Giám sinh, được bổ nhiệm làm Tri phủ, Tri huyện, đứng thứ nhì là Sinh đồ được bổ nhiệm làm Huấn đạo, và đứng hạng ba cũng được gọi là Sinh đồ nhưng được bổ nhiệm làm Lễ sinh hoặc Nhiêu học. Kỳ Thi Hoa văn cũng trải qua ba ngày, mỗi ngày khóa sinh phải làm một bài thơ, những khóa sinh thi đậu được bổ nhiệm làm việc trong Tam ty (phủ chúa).
Năm 1675, đời chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần, chúa cho mở thêm một kỳ vấn đáp thay vì chỉ có thi viết như truyền thống. Trong kỳ thi vấn đáp này, các khóa sinh được hỏi về nhiệm vụ của quân nhân và công dân đối với thời cuộc và chính quyền cùng với quan niệm của họ đối với vua Lê và chúa Trịnh.
Bên cạnh những kì thi vấn đáp như trên, những khoa thi viết truyền thống được tổ chức 6 năm một lần tại các tỉnh vào dịp đầu Xuân. Những thí sinh thi đỗ được miễn các loại tạp dịch cho tới kỳ đại khảo sau. Qua được kỳ thi ở các tỉnh, khóa sinh được dự kỳ thi bậc cao hơn tổ chức vào mùa Thu.
Năm Ất Hợi (1695), chúa Nguyễn Phúc Chu mở khoa thi tại phủ chúa gọi là thi Văn chức và thi Tam ty.
Năm Canh Thân (1740), thời Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát, quyền lợi của khóa sinh được quy định như sau: những người đậu kỳ đệ nhất gọi là Nhiêu học được miễn sai dịch 5 năm, đậu kỳ đệ nhị và đệ tam được miễn sai dịch vĩnh viễn, ai đậu kỳ đệ tứ thì được gọi là Hương cống và được bổ nhiệm làm Tri phủ, Tri huyện.
Xem xét chương trình thi cử của Đàng Trong thời bấy giờ, ta nhận thấy việc thi cử khá sơ lược nếu so sánh với các triều đại trước đó (triều Trần và Hậu Lê). Điều này xuất phát từ việc chính quyền của các chúa Nguyễn mới chỉ tập trung lo việc chiến tranh và quân bị nhằm so kè với Đàng Ngoài, nhân dân cũng bị ảnh hưởng và lôi cuốn vào vòng chiến sự dai dẳng, dẫn tới việc hơn một thế kỷ trôi qua mà việc văn học, khoa cử không đạt được nhiều tiến bộ.

Việc binh chế, võ bị

Do hoàn cảnh lịch sử phải lo chống nhau với các chúa Trịnh ở miền Bắc nên việc binh chế võ bị cũng được các chúa Nguyễn chăm chút. Việc quân dịch được chia làm hai loại: những trai tráng khỏe mạnh được sung thẳng vào quân ngũ, số còn lại là quân trừ bị được gọi dần dần tùy từng đợt tuyển quân.
Quân lính được chia làm 5 cơ: Trung, Tả, Hữu, Hậu và Tiền. Quân số Đàng Trong vào khoảng độ 30.000 người, và theo sự khảo cứu của các sử gia Pháp thì quân số của các đơn vị trong quân đội Đàng Trong thường không ổn định, tăng giảm không nhất quán, khi có chiến trận thì tăng quân, khi hòa bình thì lại giảm bớt.
Năm Tân Mùi (1631), chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên cho mở trường bắn, trường tập voi, tập ngựa và sở đúc súng đại bác (một người Pháp lai Bồ Đào Nha tên là Jean de la Croix đã giúp chúa Sãi xây dựng cơ sở này, gọi là phường Đúc, ở Thuận Hóa ngày nay).

Về tôn giáo

Việt Nam nói chung và Đàng Trong nói riêng đến thế kỷ XVII tồn tại ba tôn giáo chính: Phật giáoNho giáo và Đạo giáo.trong đó Nho giáo và Phật giáo giữ vai trò quan trọng nhất.
Xét về Nho giáo, nó có vị trí quan trọng đối với các triều đại phong kiến. Nho giáo với thuyết hình nhi thượng học (quan niệm về Thiên đạo, Nhân đạo và Luận lý học) và hình nhi hạ học (Quân tử, Tiểu nhân, Hiếu, Lễ Nhạc, Chính trị, Học vấn) được các nhà Nho triển khai qua nhiều thời luôn dùng “văn chương để lấy kẻ sĩ”, triều đình tổ chức lối học khoa cử theo Nho giáo.
Bên cạnh đó Phật giáo xứ Đàng Trong cũng rất phát triển. Chùa chiền được các chúa Nguyễn chăm lo xây dựng, trùng tu. Nhiều Tăng sĩ Trung Hoa đến xứ Đàng Trong truyền đạo thành công như Viên Cảnh, Viên Khoan, Hưng Liên, Giác Phong, Pháp Bảo, Tử Dung... Các thiền phái phát triển mạnh lúc bấy giờ là phái thiền Trúc Lâm được phục hưng trở lại với sự có mặt của thiền sư người Việt là Hương Hải, phái thiền này sau được Hương Hải truyền ra Đàng Ngoài và rất thịnh; Hai thiền phái từ Trung Hoa là phái thiền Lâm Tế do Tổ sư Nguyên Thiều và phái thiền Tào Động do Hòa thượng Thạch Liêm (Thích Đại Sán) truyền sang;
Đời chúa Nguyễn Phúc Chu trở đi phát triển chi phái thiền Liễu Quán của Tổ sư Liễu Quán. Trong đó, Nguyên Thiều là người có công truyền đạo tại xứ Đàng Trong, thiền phái Lâm Tế đã ảnh hưởng lớn đến triều đình và dân chúng, Ngài được chúa Nguyễn Phúc Chu ban hiệu Hạnh Đoan thiền sư và khen ngợi rằng: Cao vút trí tuệ. Phạm hạnh vun trồng. Giới đao một lưỡi, Hoằng pháp lợi người. Quán thân vốn không. Mây từ che khắp trời tuệ chiếu cùng.
chính vì lẽ ấy mà trong hoàng tộc chúa Nguyễn luôn giữ lễ Cư Nho mộ Thích[2] xem Phật giáo và Nho giáo là quốc giáo, trong giới Phật giáo lúc bấy giờ cũng có xu hướng dung hòa tam giáo (Phật, Nho, Lão) để phát triển.
Trong thời kì này các tôn giáo của phương Tây như Công giáo cũng được chấp nhận với một lượng tín đồ khá ít ỏi, nhưng đôi khi vì lý do chính trị mà bị cấm hoạt động ở Đàng Trong.

Việc thuế khóa

Về việc lập sổ thuế, định các ngạch thuế, năm 1632, Sãi Vương đã áp dụng phương pháp Bắc hà (của vua Lê Thánh Tông đặt ra năm 1465, tại thời điểm đó vẫn đang được thi hành ở miền Bắc), cụ thể là cứ mỗi sáu năm lại thực hiện một cuộc kiểm tra lớn, ba năm một cuộc kiểm tra nhỏ.
Chia dân chúng ra làm 8 hạng (so với 6 hạng ở Đàng Ngoài). Thuế nộp bằng thực chất (tức là thóc gạo hay ngô khoai v.v..) hoặc bằng tiền bạc.
Để việc đánh thuế ruộng được sát với thực tế, sau vụ gặt chính (vụ mùa) sẽ có quan lại đến từng địa phương khám rồi mới định hạng ruộng nào phải nộp bao nhiêu thuế. Điền thổ được chia ra làm 3 hạng để đánh thuế, ruộng đất xấu thì thuế đánh nhẹ hơn ruộng đất thường hoặc đất tốt. Thuế hoa màu thì căn cứ vào diện tích của điền thổ và loại hoa màu (ngô khoai, đậu, v.v...) được trồng trọt, cùng với giá trị của ruộng đất. Những công điền (ruộng đất công) thì cấp cho dân cày cấy để nộp thuế, còn ai khai khẩn được đất hoang ra làm ruộng thì được phong cho tư điền (tài sản cá nhân).
Đến đời chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1620 - 1687), chúa cho đặt ra một Ty Khuyến Nông để giải quyết vấn đề khẩn hoang và để phân hạng các đất ruộng đã cầy cấy, trồng trọt. Nhiều dinh điền hay đồn điền đã có từ thế kỷ thứ XV do các vua chúa miền Bắc chiếm được của Champa nay nằm trong khu vực của các chúa Nguyễn được đem cấp phát cho các quan lại có nhiều công trạng với triều đình để sử dụng làm thực ấp.
Một số loại thuế được áp dụng:
·        Thuế Đinh: Chúa Sãi chia dân chúng thành 8 hạng và đánh thuế mỗi hạng, gọi là thuế tỷ lệ nộp bằng tiền. Giá biểu phải nộp từ hai quan đến năm quan tiền. Ngoài ra còn nhiều loại thuế khác như thuế gia súc, thuế cúng giỗ, thuế chuyển vận thóc lúa...
·        Thuế mỏ và thương chính: Tại Thuận Hóa và Quảng Nam có mỏ vàng, Quảng Ngãi có mỏ bạc, Bố Chính có mỏ sắt. Việc khai khẩn các mỏ này đã đem lại cho chính quyền các chúa Nguyễn một số tiền thuế lớn.
·        Thuế nhập cảng và xuất cảng: dành cho tàu bè ngoại quốc qua lại ở các cửa biển. Ví dụ tàu ở Thượng Hải và Quảng Đông tới phải nộp 3.000 quan, lúc trở ra phải nộp 1/10. Tàu ở Ma Cao (lúc này là thuộc địa của Bồ Đào Nha) và Nhật Bản nộp 4.000 quan, khi về nộp 1/10. Tàu Tiêm La (Thái Lan) hoặc Lã Tống (đảo Luzon - Philippines) phải nộp 2.000 quan. Tàu các nước Tây phương phải nộp gấp đôi tàu Ma Cao và Nhật Bản (8,000 quan và 800 quan). Số thuế này chia ra làm 10 phần, 6 phần nộp kho còn lại dành cho các quan lại và binh lính của ty Thương Chính.

Phân chia địa hạt hành chính

Thuở ban đầu khi Nguyễn Hoàng mới vào trấn thủ đất Thuận Hóa thì cho đóng dinh ở làng Ái Tử (thuộc huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị). 13 năm sau (1570) Nguyễn Hoàng lại dời dinh vào làng Trà Bát ở cùng huyện, gọi là Cát Dinh.
Đến năm Bính Dần (1626) chúa Sãi là Nguyễn Phúc Nguyên, trong quá trình chuẩn bị cho việc chống đối với chúa Trịnh đã cho dời dinh vào làng Phúc An (thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế bây giờ).
Năm Bính Tí (1636) chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan lại dời phủ vào làng Kim Long (thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên).
Năm Đinh Mão (1687) chúa Nguyễn Phúc Thái dời phủ về làng Phú Xuân, gọi là chính dinh, Phú Xuân từ đó trở thành chính dinh của các đời chúa Nguyễn tiếp theo và là kinh đô của triều đại nhà Nguyễn sau này.
Nơi phủ cũ ở làng Kim Long được dùng làm Thái tông miếu, thờ chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần.
Năm Giáp Tí (1744) Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát chính thức xưng vương, ra lệnh đổi phủ ra làm điện, sửa sang phép tắc, định ra triều phục, chia nước ra làm 12 dinh:
1.    Chính dinh (Phú Xuân).
2.    Cựu dinh (Ái Tử) - Quảng Trị.
3.    Quảng Bình dinh.
4.    Vũ Xá dinh.
5.    Bố Chính dinh.
6.    Quảng Nam dinh.
7.    Phú Yên dinh (đất chiếm của Chiêm Thành).
8.    Bình Khang dinh (đất chiếm của Chiêm Thành).
9.    Bình Thuận dinh (đất chiếm của Chiêm Thành).
10. Trấn Biên dinh (đất chiếm của Chân Lạp).
11. Phiên Trấn dinh (đất chiếm của Chân Lạp).
12. Long Hồ dinh (đất chiếm của Chân Lạp).
Cai quản mỗi dinh là một võ quan mang chức Trấn Thủ trông coi cả công việc hành chính lẫn quân sự. Các phụ tá có quan Cai bộ trông coi về Ngân khố và một phán quan gọi là Ký lục. 

Các hoạt động đối ngoại

Bức thư Thụy Quốc Công Nguyễn Phúc Nguyên gửi cho Tokugawa Ieyasu. Trên thư đóng dấu ấn triện Trấn thủ tướng quân chi ấn (鎮守將軍之印), cùng dòng chữ: An Nam quốc thiên hạ thống binh đô nguyên soái Thụy Quốc công (安南國天下統兵都元帥瑞國公).

Hội An port in 18th century

Giao thiệp với Chân Lạp

Nguyên nước Chân Lạp ở vào quãng dưới sông Mê-kông, có lắm sông nhiều ngòi, ruộng đất thì nhiều mà nước ta thường hay mất mùa, dân tình phải đói khổ luôn, và lại vào lúc chúa Nguyễn, chúa Trịnh đánh nhau, cho nên nhiều người bỏ vào khẩn đất, làm ruộng ở Mô-xoài (Bà Rịa) và ở Đồng Nai.
Năm Mậu Tuất (1658) vua nước Chân Lạp mất rồi, chú cháu tranh nhau ngôi vị, sang cầu cứu bên chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn bấy giờ là chúa Hiền sai quan đem 3.000 quân sang đánh ở Mỗi-xuy (nay thuộc tỉnh Đồng Nai) bắt được vua nước ấy là Nặc-Ông-Chân đem về giam ở Quảng Bình một độ, rồi tha cho về nước, bắt phải triều-cống và phải bênh vực người Việt sang làm ăn ở bên ấy.
Năm Giáp Dần (1674), nước Chân Lạp có người tên Nặc-Ông-Đài đi cầu viện nước Xiêm-la để đánh Nặc-Ông-Nộn.
Nặc-Ông Nộn bỏ chạy sang cầu cứu ở dinh Thái Khang (nay là Khánh Hòa). Chúa Hiền bèn sai Cai cơ đạo Nha Trang là Nguyễn Dương Lâm cùng với Nguyễn Đình Phái làm tham mưu đem binh chia ra hai đạo sang đánh Nặc-Ông-Đài, phá được đồn Sài Gòn, rồi tiến quân lên vây thành Nam Vang (Phnom Pehn).
Nặc-Ông-Đài phải bỏ thành chạy vào chết ở trong rừng. Nặc-Ông-Thu ra hàng. Nặc-Ông-Thu là chính dòng con trưởng cho nên lại lập làm chánh quốc vương đóng ở Longúc, để Nặc-Ông-Nộn làm đệ nhị quốc vương, đóng ở Sài gòn, bắt hằng năm phải triều cống.
Năm KỷTỵ (1679) có quan nhà Minh là tổng binh trấn thủ đất Long Môn (Quảng Tây) Dương Ngạn Địch, phó tướng Hoàng Tiến, tổng binh châu Cao, châu Lôi, và châu Liêm (thuộc Quảng Đông) là Trần Thượng Xuyên, phó-tướng Trần An Bình, không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3.000 quân cùng 50 chiếc thuyền sang xin ở làm dân Việt Nam. Chúa Hiền nhân muốn khai khẩn đất Chân Lạp, bèn cho vào ở đất Đông Phố (tức là đất Gia Định). Bọn Ngạn Địch chia nhau ở đất Lộc Đã (tức là đất Đồng Nai), ở Mỹ Tho (thuộc Tiền Giang), ở Ban Lân (thuộc Đồng Nai) rồi cày ruộng làm nhà lập ra phường phố, có người phương Tây, người Nhật Bản, người Chà Và (Java) đến buôn bán đông lắm.
Năm Mậu Thìn (1688) những người khác ở Mỹ Tho làm loạn. Hoàng Tiến giết Dương Ngạn Địch đi, rồi đem dân chúng đóng đồn ở Nan Khê, làm tàu đúc súng để chống nhau với người Chân Lạp. Vua Chân Lạp là Nặc-Ông-Thu cũng đào hào đắp lũy để làm kế cố thủ và bỏ không chịu thần phục chúa Nguyễn nữa.
Bấy giờ Chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Trăn sai quan đem quân đi đánh dẹp, dùng mưu giết được Hoàng Tiến và bắt vua Chân Lạp phải theo lệ triều cống.
Năm Mậu Dần (1698) Chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai ông Nguyễn Hữu Kính làm kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng Nai làm huyện Phúc Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình. Đặt Trấn Biên dinh (tức là đất Biên Hòa, Đồng Nai) và Phan Trấn dinh (tức là Gia Định) sai quan vào cai trị. Lại chiêu mộ những lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng đất. Còn những người Tàu ở đất Trấn Biên (Đồng Nai) thì lập làm xã Thanh Hà, những người ở đất Phan Trấn (Gia định) thì lập làm xã Minh Hương. Những người ấy đều thuộc về sổ bộ nước ta.
Bấy giờ lại có người khách Quảng Đông tên là Mạc Cửu, trong khi nhà Thanh cướp ngôi nhà Minh bên Tàu, bỏ sang ở Chân Lạp, thấy ở phủ Sài Mạt có nhiều người các nước đến buôn bán, bèn mở sòng đánh bạc, rồi lấy tiền chiêu-mộ những lưu dân lập ra 7 xã, gọi là Hà Tiên. Năm MậuTý (1708) Mạc Cửu xin thuộc về Chúa Nguyễn; Chúa phong cho làm chức tổng binh, giữ đất Hà Tiên.
Đến khi Mạc Cửu mất, Chúa Nguyễn lại phong cho con Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ làm chức đô đốc, trấn ở Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đắp thành, xây lũy, mở chợ, làm đường và rước thầy về dạy Nho học để khai hóa đất Hà Tiên.
Thời bấy giờ đất Chân Lạp cứ loạn lạc luôn. Năm Kỷ Mão (1699) vua nước ấy là Nặc-Ông-Thu đem quân chống với quân Chúa Nguyễn, Chúa sai quan tổng suất Nguyễn Hữu Kính sang đánh. Quân ta sang đến thành Nam Vang, Nặc-Ông-Thu bỏ chạy, con Nặc-Ông-Nộn là Nặc-Ông-Yêm mở cửa thành ra hàng. Sau Nặc-Ông-Thu cũng về hàng, xin theo lệ triều cống như cũ. Quân ta rút về.
Được ít lâu vua thứ hai là Nặc-Ông-Nộn mất, vua thứ nhất là ông Nặc-Ông-Thu phong cho con Nặc-Ông-Nộn là Nặc-Ông-Yêm làm quan và lại gả con gái cho. Sau Nặc-Ông-Thu già yếu, truyền ngôi cho con là Nặc-Ông-Thâm.
Năm Ất Dậu (1705) Nặc-Ông-Thâm nghi cho Nặc-Ông-Yêm có ý làm phản, bèn khởi binh đánh nhau. Nặc-Ông-Thâm lại đem quân Xiêm-la về giúp mình. Nặc-Ông-Yêm phải chạy sang cầu cứu ở Gia Định.
Chúa Nguyễn sai quan cai cơ là Nguyễn Cửu Vân sang đánh Nặc-Ông-Thâm. Nguyễn Cửu Vân sang phá được quân Xiêm-la; đem Nặc-Ông-Yêm về thành La Bích. Từ đó Nặc-Ông-Thâm ở Xiêm-la cứ thỉnh thoảng đem quân về đánh Nặc-Ông-Yêm.
Năm Giáp Ngọ (1714) quân của Nặc-Ông-Thâm về lấy thành La Bích và vây đánh Nặc-Ông-Yêm nguy cấp lắm. Nặc-Ông-Yêm sai người sang Gia Định cầu cứu. Quan đô đốc Phiên Trấn (Gia Định) là Trần Thượng Xuyên và quan phó tướng Trấn Biên (Biên Hòa) là Nguyễn Cửu Phú phát binh sang đánh, vây Nặc-Ông-Thu và Nặc-Ông-Thâm ở trong thành La Bích. Nặc-Ông-Thu và Nặc-Ông-Thâm sợ hãi, bỏ thành chạy sang Xiêm-la. Bọn ông Trần Thượng Xuyên lập Nặc-Ông-Yêm lên làm vua Chân Lạp. Năm Tân Hợi (1729) quân Chân Lạp sang quấy nhiễu ở Gia Định. Chúa Nguyễn bèn đặt sở Điều khiển để thống nhiếp việc binh ở mạn ấy.
Năm Bính Thìn (1736) Nặc-Ông-Yêm mất, con là Nặc-Ông-Tha lên làm vua. Đến năm Mậu Thìn (1747) Nặc-Ông-Thâm lại ở bên Xiêm-la về, cử binh đánh đuổi Nặc-Ông-Tha đi, rồi chiếm lấy ngôi làm vua. Nặc-Ông-Tha phải bỏ chạy sang Gia Định.
Được ít lâu Nặc-Ông-Thâm mất, con là Nặc Đôn, Nặc Hiên và Nặc Yếm tranh nhau. Chúa Nguyễn bèn sai quan Điều khiển là Nguyễn Hữu Doãn đem quân sang đánh bọn Nặc Đôn và đem Nặc-Ông-Tha về nước.
Nặc-Ông-Tha về được mấy tháng lại bị người con thứ hai của Nặc-Ông-Thâm là Nặc Nguyên đem quân Xiêm-la sang đánh đuổi đi. Nặc-Ông-Tha chạy sang chết ở Gia Định.
Nặc Nguyên về làm vua Chân Lạp thường hay hà hiếp rợ Côn-man và lại thông sứ với Chúa Trịnh ở ngoài Bắc để lập mưu đánh Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn biết tình ý ấy, đến năm Quý Dậu (1753), sai Nguyễn Cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm Ất Hợi (1755) Nặc Nguyên thua bỏ thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ.
Năm sau Mạc Thiên Tứ dâng thư về nói rằng Nặc Nguyên xin dâng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp để chuộc tội, và xin cho về nước. Chúa Nguyễn không muốn cho. Bấy giờ ông Nguyễn Cư Trinh dâng sớ bày tỏ cách khai thác nên dùng kế "tầm thực" nghĩa là nên lấy dần dần như con tầm ăn lá, thì mới chắc chắn được. Chúa Nguyễn nghe lời ấy bèn nhận hai phủ và cho Nặc Nguyên về Chân Lạp.
Năm Đinh Sửu (1759) Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận làm giám quốc. Nặc Nhuận còn đang lo để xin Chúa Nguyễn phong cho làm vua, thì bị người con rể là Nặc Hinh giết đi, rồi cướp lấy ngôi làm vua.
Quan tổng suất là Trương Phúc Du thừa kế sang đánh, Nặc Hinh thua chạy bị thuộc hạ giết chết, bấy giờ con Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang nhờ Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ dâng thư về xin lập Nặc Tôn làm vua Chân Lạp. Chúa Nguyễn thuận cho, sai Thiên Tứ đem Nặc Tôn về nước.
Nặc Tôn dâng đất Tầm-Phong-Long để tạ ơn chúa Nguyễn. Chúa bèn sai ông Trương phúc Du và Nguyễn Cư Trinh đem dinh Long Hồ về xứ Tầm Bào, tức là chỗ tỉnh lỵ tỉnh Vĩnh Long bây giờ, và lại đặt ra ba đạo là Đông Khẩu đạo ở Đồng Tháp, Tân Châu đạo ở Tiền Giang và Châu Đốc đạo ở An Giang.
Nặc Tôn lại dâng 5 phủ là Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt và Linh Quỳnh để tạ ơn Mạc Thiên Tứ. Mạc Thiên Tứ đem những đất ấy dâng Chúa Nguyễn, Chúa cho thuộc về trấn Hà Tiên cai quản.

Giao thiệp với Xiêm La

Giao thiệp với Trung Quốc

Năm 1702, chúa Nguyễn Phúc Chu thấy giang sơn Đàng Trong đã ổn định, đủ sức chống đối với Đàng Ngoài mà không cần e dè ẩn núp dưới chiêu bài phù Lê như xưa nữa, đã cho cử một đoàn sứ bộ mang đồ tiến cống và một tờ biểu sang Quảng Đông xin cầu phong với phương Bắc, lúc này đang đặt dưới sự cai trị của nhà Thanh. Triều đình nhà Thanh lúc đó vẫn đang công nhận vua Lê nên không đồng ý nhận cầu phong của chúa Nguyễn và cho đem trả lại đồ tiến cống. 
Nguyễn Phúc Chu xưng là Quốc chúa (chữ Hán: 國主) và cho đúc Kim bảo ấn Đại Việt Quốc Nguyễn Vĩnh Trấn chi bảo để làm ấn vàng truyền quốc.
Đây là chiếc ấn truyền quốc duy nhất của các triều đại phong kiến Việt Nam còn được lưu truyền tới thời nay và hiện đang được lưu trữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.[3].

Giao thiệp với Tây phương

Da Nang in painting "Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ (交趾国渡航図巻)" of Chaya Shinroku (茶屋新六) in 17th century
Chúa Nguyễn có chính sách tương đối cởi mở với các thương nhân Tây phương. Từ thời Chúa Sãi Thụy quận công Nguyễn Phúc Nguyên (1613-35) người Hòa Lan đã đến Đàng Trong buôn bán. Họ tụ tập ở Hội An, mở thương cuộc lớn. Cùng lúc đó nhà Minh có lệnh cấm xuất cảng một số mặt hàng còn Nhật Bản dưới quyền của Mạc phủ Tokugawa cũng có lệnh Tỏa Quốc nên việc giao thương phải qua trung gian thứ ba. Trung gian đó là hải cảng Hội An nơi người Hòa Lan mua bán hàng hóa Tàu và Nhật, cùng trao đổi sản vật Đàng Trong.[4]
Khoảng 1640 có sự tranh chấp với người Hòa Lan, có lẽ vì tình nghi họ buôn bán khí giới và làm gián điệp cho chúa Trịnh ở Đàng Ngoài nên có lệnh trục xuất và dẹp thương cuộc Hòa Lan ở Hội An; hàng hóa bị đốt. Năm 1644 ba tàu chiến Hòa Lan đến ngoài khơi cửa Thuận An do Baeck chỉ huy muốn trả thù. Sáu chiến thuyền Đàng Trong ra nghênh chiến dưới quyền của thế tử Nguyễn Phúc Tần. Hai tàu chiến Hòa Lan bị đánh đắm; chiếc thứ ba giong buồm thoát được ra Bắc. Chúa Nguyễn từ đó ra lệnh nghiêm cấm không cho người Hòa Lan lui tới và cũng cấm thần dân Đàng Trong không được buôn bán với người Hòa.[4]

Xung đột với chúa Trịnh

Bài chi tiết: Trịnh Nguyễn phân tranh

Mở đất Nam Bộ

Bài chi tiết: Nguyễn Hữu Cảnh và Mạc Cửu

Suy yếu và diệt vong

Chính sự suy yếu

Chiếm được Thủy Chân Lạp và nhiều lần can thiệp vào tình hình Cao Miên (Campuchia), sự phát triển cơ nghiệp các chúa Nguyễn lên tới cực thịnh. Năm 1744, Nguyễn Phúc Khoát chính thức xưng vương, tức là Nguyễn Vũ Vương, tỏ ý ngang hàng với các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, danh hiệu mà các đời trước vẫn chỉ xưng là "Công".
Sau khi xưng vương, Nguyễn Phúc Khoát đặt ra nhiều nghi lễ, phong tục để trở thành nước độc lập với Đàng Ngoài. Ngoài ra, chúa Nguyễn còn tăng cường xây dựng cung điện, đền đài nguy nga. Các quan lại, tôn thất cũng đua nhau xây cất. Vì thế dân gian phải phục dịch và đóng nhiều thuế hơn trước. Nhiều nông dân bị bóc lột bần cùng.
Trong những năm cuối đời, Vũ Vương đâm ra say mê tửu sắc, không còn thiết tha việc nước nữa. Trương Phúc Loan là cậu ruột của Vũ Vương nên dù không có công trạng gì mà vẫn được cho phụ chính thân cận với Chúa. Phúc Loan đã dùng nhiều cách dẫn dụ chúa Nguyễn vào con đường tửu sắc, bỏ bê việc nước hòng âm mưu chiếm đoạt quyền lực sau này. Loan tạo điều kiện để Vũ Vương loạn luân với người em họ (con chú ruột) là công nữ Nguyễn Phúc Ngọc Cầu[5] (con của Dận quốc công Nguyễn Phúc Điền là em ruột của Chúa Ninh Vương Nguyễn Phúc Chú[6](Thụ), cha của Vũ Vương) sinh được một người con trai là công tử Nguyễn Phúc Thuần. Để tránh tai tiếng, Nguyễn Phúc Thuần được nuôi kín ở hậu cung. Theo thông tin trên trang Nguyễn Phước tộc, thì:
Để dễ dàng trong việc tiếm quyền, chính Trương Phúc Loan đã khuyến dụ Chúa Võ đi vào con đường nữ sắc. Một cung phi rất được ngài sủng ái là Công nữ Nguyễn Phúc Ngọc Cầu, con của Dận quốc công Nguyễn Phúc Điền. Đây chính là mầm mống gây cảnh suy tàn của triều đại sau này[7].
Hệ thống thuế của chúa Nguyễn rất cồng kềnh và phức tạp. Năm 1741, Vũ Vương ra lệnh truy thu thuế của cả những người đã bỏ trốn với gia đình họ, tới năm 1765 lại ra lệnh truy thu thuế của 10 năm trước. Giai cấp quý tộc và địa chủ tìm nhiều cách để chiếm đoạt đất đai của dân để hưởng thụ xa hoa. Sử ghi lại rằng đại thần Trương Phúc Loan, sau một trận lụt phải trải vàng ra khắp sân nhà để phơi, từ xa trông lại sáng chóe một góc.[8]. Nhiều nông dân bị phá sản. Điều đó khiến mâu thuẫn xã hội Đàng Trong trở nên gay gắt. Dấu hiệu suy vong của dòng chúa Nguyễn bắt đầu lộ rõ.

Nạn quyền thần Trương Phúc Loan

Năm 1765, Nguyễn Phúc Khoát qua đời, chính sự họ Nguyễn rối ren quanh việc chọn người lên ngôi chúa. Vũ Vương vốn trước lập con thứ 9 là Hiệu làm Thế tử, nhưng Hiệu mất sớm, để lại người con là Dương. Con cả của Vũ Vương là Chương cũng đã mất. Đáng lý ra theo thứ tự khi Vũ Vương mất, phải lập người con thứ hai là Luân lên ngôi, nhưng quyền thần Trương Phúc Loan nắm lấy triều chính, tự xưng là "Quốc phó", giết Luân mà lập người con thứ 16 của Vũ Vương là Thuần mới 12 tuổi lên ngôi, tức là Định Vương, để dễ bề thao túng. Trong triều đình cũng như bên ngoài dư luận nhiều người bất bình vì khi Luân đã chết thì ngôi chúa lẽ ra phải thuộc về Nguyễn Phúc Dương.
Trương Phúc Loan trở thành quyền thần lấn lướt, mọi quyền hành đều do Trương Phúc Loan thao túng, chúa Nguyễn Phúc Thuần chỉ còn là bù nhìn trên ngai. Loan tự nhận là Quốc phó, giữ Bộ Hộ, quản cơ Trung tượng kiêm Tàu vụ, thâu tóm mọi quyền lực về chính trị và kinh tế. Thuế sản vật các mỏ vàng Thu Bồn, Đồng Hương, Trà Sơn, Trà Vân... đều rơi vào tay Loan, hàng năm Loan chỉ nộp vào ngân sách quốc gia 1-2 phần mười số thuế thu được. Sử sách còn ghi lại rằng ngày nắng, Loan cho phơi của cải châu báu ra sân làm sáng rực cả một góc trời. Cả nhà họ Trương chia nhau nắm giữ mọi chức vụ chủ chốt. Người bấy giờ gọi là Trương Tần Cối.
Cùng lúc đó, Lại bộ thượng thư Nguyễn Cư Trinh, trụ cột của triều Nguyễn qua đời (tháng 5 năm 1767). Họ Trương không còn ai ngăn trở, càng ra sức lộng hành: bán quan tước, ăn tiền tha tội, hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, nhân dân cực khổ. Những người có tài như Tôn Thất Dục bị Loan tìm cách hãm hại. Tài chính vô cùng kiệt quệ. Cơ nghiệp Chúa Nguyễn đến đây là suy vong không thể cứu vãn nổi.

Tây Sơn nổi dậy, chúa Nguyễn sụp đổ

Bài chi tiết: Nhà Tây Sơn và Nhà Nguyễn
Nhận thấy chính sự của Chúa Nguyễn quá rối ren, lòng dân ly tán, năm 1771, 3 anh em Nguyễn NhạcNguyễn HuệNguyễn Lữ khởi binh ở Tây Sơn, với danh nghĩa ủng hộ Nguyễn Phúc Dương.
Lực lượng Tây Sơn nổi tiếng vì bình đẳng, bình quyền, không tham ô của dân và nêu cao khẩu hiệu: "Lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo", do đó Tây Sơn có được sự ủng hộ rất lớn của dân chúng, nhất là những người nông dân nghèo bị bần cùng hóa bởi tình trạng địa chủ chiếm đất và sưu cao thuế nặng của Chúa Nguyễn. Những năm đầu tiên, lực lượng của nghĩa quân còn yếu, nhưng được sự giúp đỡ của nhân dân quanh vùng nên ngày càng mạnh lên.
Năm 1772, cuộc khởi nghĩa lan rộng, nghĩa quân đã thắng một số trận chống lại quân chúa Nguyễn được phái tới trấn áp cuộc khởi nghĩa. Năm 1773, quân Tây Sơn chiếm thành Quy Nhơn (Bình Định). Thành này là nơi các nhà buôn, vì đã phải chịu nhiều luật lệ ngăn cấm do triều đình Chúa Nguyễn đưa ra, đã quay sang ủng hộ tài chính cho Tây Sơn.
Quân Trịnh ở phía bắc nhân cơ hội chúa Nguyễn rối loạn bèn đem quân đánh vào. Chúa Nguyễn không địch nổi hai kẻ địch phải bỏ chạy vào Gia Định. Tây Sơn bèn hợp tác với quân Trịnh để đánh Nguyễn. Năm 1777, Nguyễn Huệ đem quân vào đánh chiếm Gia Định, quân Tây Sơn truy lùng gắt gao, cả Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương cùng một số quan lại đã bị bắt và bị giết.
Con Nguyễn Phúc Luân là Nguyễn Phúc Ánh đã bắt đầu sống một mình long đong vất vả và dần dần thu thập binh lính từ các nơi về đảo Thổ Châu và lấy lại Sài Gònrồi tiến ra Bình Thuận. Sau khi đã củng cố lực lượng, năm Canh Tý 1780Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi Vương tại Gia Định và xưng là Nguyễn Vương. Sự nghiệp của các chúa Nguyễn dày công xây dựng 200 năm đã tiêu tan và lịch sử bước sang một trang mới.

Danh sách mười chúa Nguyễn

Nguyễn Kim là người đặt nền móng cho các chúa Nguyễn sau này. Sinh thời ông không tự xưng danh chúa nhưng được con cháu chúa Nguyễn sau này tôn miếu hiệu Triệu Tổ và được phong Thụy hiệu Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vĩ Tích Chiêu Huân Tĩnh vương như là chúa. Tuy nhiên ông không được xem là vị chúa Nguyễn đầu tiên
1/ Nguyễn Hoàng tức Chúa Tiên hay Tiên Vương (1525-1613), con út của Nguyễn Kim, xưng Chúa năm 1558, có 10 con trai và hai con gái. Một người con gái lấy chúa Trịnh Tráng. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thái tổ Gia Dụ hoàng đế. Ông là vị chúa Nguyễn đầu tiên
2/ Nguyễn Phúc Nguyên tức Chúa SãiChúa Bụt hay Sãi Vương (1563-1635), con trai thứ sáu của Chúa Tiên, kế nghiệp năm 1613 vì các anh đều chết sớm và một anh bị Chúa Trịnh giữ tại Đàng Ngoài, có 11 con trai và bốn con gái. Chúa Sãi là người đầu tiên trong dòng họ mang họ Nguyễn Phúc. Tương truyền lúc mẹ ngài có thai chiêm bao thấy có vị thần đưa cho một tờ giấy trên có đề chữ "Phúc". Lúc kể lại chuyện, mọi người chúc mừng bà và đề nghị đứa bé ra đời được đặt tên là "Phúc". Nhưng bà nói rằng, nếu chỉ đặt tên Phúc cho đứa bé thì chỉ một mình nó hưởng, để cho nhiều người trong dòng họ được hưởng phúc, bà đề nghị lấy chữ này làm chữ lót. Và khi thế tử ra đời bà đặt tên là Nguyễn Phúc Nguyên. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Hi Tông Hiếu Văn hoàng đế.
3/ Nguyễn Phúc Lan tức Chúa Thượng hay Thượng Vương (1601-1648), con trai thứ hai của Chúa Sãi, kế nghiệp năm 1635 vì anh trưởng chết sớm, có ba con trai và một con gái. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thần Tông Hiếu Chiêu hoàng đế.
4/ Nguyễn Phúc Tần tức Chúa Hiền hay Hiền Vương (1620-1687), con trai thứ hai của Chúa Thượng, kế nghiệp năm 1648 vì cả anh lẫn em đều chết sớm, có sáu con trai và ba con gái. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế.
5/ Nguyễn Phúc Thái tức Chúa Nghĩa hay Nghĩa Vương (1650-1691), con trai thứ hai của Chúa Hiền, kế nghiệp năm 1687 vì anh trưởng chết sớm, có năm con trai và năm con gái. (Theo Nguyễn Phúc tộc thế phả thì Chúa Nghĩa là Nguyễn Phúc Thái; còn Nguyễn Phúc Trăn không có, mà chỉ có Nguyễn Phúc Trân, em kế của Chúa tức Cương quận công.) Chúa Nghĩa là người dời đô đến Huế. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Anh Tông Hiếu Nghĩa hoàng đế.
6/ Nguyễn Phúc Chu [9] tức Chúa Minh hay Minh Vương (còn gọi là Quốc chúachữ Hán: 國主) (1675-1725), con trai trưởng của Chúa Nghĩa, kế nghiệp năm 1691, có 38 con trai và bốn con gái. Chúa Minh là người đầu tiên sai sứ sang nhà Thanh để xin phong vương nhưng không được nhận vì nhà Thanh vẫn xem vua Lê của Đàng Ngoài là vua của toàn xứ Việt lúc đó. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế.
7/ Nguyễn Phúc Chú [10] tức Chúa Ninh hay Ninh Vương (1697-1738), con trai trưởng của Chúa Minh, kế nghiệp năm 1725, có ba con trai và sáu con gái. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Túc Tông Hiếu Ninh hoàng đế.
8/ Nguyễn Phúc Khoát tức Chúa Vũ hay Vũ Vương (1714-1765), con trai trưởng của Chúa Ninh, kế nghiệp năm 1738, có 18 con trai và 12 con gái. Vì năm 1744vào dịp tết Nguyên Đán có một cậy sung nở hoa và một lời sấm'Bát thế hoàn trung đô' Đến lúc này Chúa Trịnh đã xưng vương nên Nguyễn Phúc Khoát cũng gọi mình là Vũ Vương vào năm 1744 và xem Đàng Trong như một nước độc lập. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thế tông Hiếu Vũ hoàng đế.
9/ Nguyễn Phúc Thuần tức Chúa Định hay Định Vương (1754-1777), con trai thứ 16 của Vũ Vương, kế nghiệp năm 1765, không có con. Khi còn sống, Vũ Vương đã có ý định cho con trai thứ chín là Nguyễn Phúc Hiệu nối ngôi. Sau khi Nguyễn Phúc Hiệu chết, và con ông hãy còn quá nhỏ, Vũ Vương định cho con trai thứ hai của mình là Nguyễn Phúc Luân (hay Nguyễn Phúc Côn, là cha của vua Gia Long sau này) nối ngôi. Khi Vũ Vương chết, một vị quan lớn trong triều là Trương Phúc Loan giết Nguyễn Phúc Luân và lập Nguyễn Phúc Thuần để dễ kiềm chế lúc đó mới 12 tuổi, lên ngôi. Năm 1777 ông bị nhà Tây Sơn giết khi ở tuổi 26, chưa có con nối dõi. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Duệ Tông Hiếu Định hoàng đế.
10/ Nguyễn Phúc Dương tức Tân Chính Vương được lên ngôi chúa sau khi Lý Tài ép Nguyễn Phúc Thuần nhường ngôi cho con của anh mình. Lúc ấy chúa Nguyễn chia làm 2 phe cùng nhau cai trị: Một bên là Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Ánh (Gia Long) và một bên là Nguyễn Phúc Dương, Lý Tài. Năm 1777 cả hai phe đều bị nhà Tây Sơn tiêu diệt, riêng Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát thân.

Niên Biểu


Kiêng huý

Người Đàng Trong kỵ húy các chúa Nguyễn nên đọc biến âm một số từ ngữ:
·        Tên chúa Tiên là Hoàng nên đổi họ Hoàng thành Huỳnh, chữ "hoàng" cũng đọc là "huỳnh" (lưu huỳnh)
·        Nguyễn Phúc Khoát là "Vũ Vương", nên người họ Vũ ở Đàng Trong đổi thành họ Võ.
·        Chữ "Phúc" đọc thành "Phước" để tránh chữ "Phúc" trong họ Nguyễn Phúc của vua chúa nhà Nguyễn.
·        Chữ "Cảnh" là tên Nguyễn Phúc Cảnh (con cả Nguyễn Ánh, người được Ánh đưa sang Pháp làm con tin để đổi lấy sự giúp đỡ đánh Tây Sơn) đọc là "kiểng", nên "cây cảnh" gọi là "cây kiểng"
·        Chữ "Kính" là tên Nguyễn Hữu Kính, người khai lập Sài Gòn phải đọc chệch là "kiếng" nên "tấm kính" gọi là "tấm kiếng"
·        Chữ "Tông" là tên Nguyễn Phúc Miên Tông, tức vua Thiệu Trị (cháu nội Nguyễn Ánh), phải đọc là "tôn". Do đó một loạt sử sách chép miếu hiệu các vua như Lý Thánh Tông, Lê Thánh Tông, Trần Thái Tông, v.v... đều ghi là Lý Thánh Tôn, Lê Thánh Tôn, Trần Thái Tôn, v.v... Đến tận sau này một số sách sử thời hiện đại vẫn bị ảnh hưởng này và chép miếu hiệu các vua từ "Tông" thành "Tôn". Các tên đường phố tại miền nam Việt Nam, mà tên gọi là miếu hiệu các vị vua, hiện nay cũng đa phần ghi Tông thành Tôn. Chẳng những thế, một dòng họ hoàng tộc, cũng vốn phải đọc là "Tông Thất", nhưng vì kiêng húy chữ Tông này nên phải đọc thành "Tôn Thất".
·        Chữ "Thì" là tên thời nhỏ Nguyễn Phúc Thì của vua Tự Đức nên đọc thành Thời
·        Chữ "Nhậm" là tên chữ Nguyễn Phúc Hồng Nhậm của vua Tự Đức nên đọc thành Nhiệm
Ngoài ra còn nhiều chữ kiêng húy nữa nhưng ít ảnh hưởng đến đời sống xã hội hơn.



No comments:

Post a Comment