Cách nay
đúng 990 năm, Thái tử Lý Phật Mã lên ngôi là vua Lý Thái Tông
Ngày 01 tháng 04, 1028
·
1028 –
Sau khi dẹp xong loạn Tam vương, Thái tử Lý Phật Mã lên ngôi vua triều
Lý, tức là Lý Thái Tông.
Lý Thái Tông
Lý Thái Tông (chữ Hán: 李太宗; 29 tháng
7, 1000 – 3 tháng
11, 1054), là
vị hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cai trị trong 26 năm (1028 - 1054).
Ông được đánh giá là một vị hoàng đế tài giỏi, thời đại của ông
được xem là khởi đầu sự thịnh vượng của nhà Lý.
Thái Tông hoàng đế được mô tả uy dũng hơn người, bách chiến bách
thắng, trải qua Loạn Tam vương mà lên ngôi, công danh rạng rỡ triều Lý.
Đế củng cố quyền lực cho nhà Lý,
bên trong dùng chính sách hòa thân, gả công chúa cho các quan Châu mục, bên cạnh đó còn dẹp
loạn đảng làm phản như Loạn họ
Nùng;
bên ngoài Đế đánh được Chiêm
Thành, công tích đánh dẹp uy nghi, tiền đề cho các đời sau phát triển
phồn thịnh.
Đối với quần thần, Thái Tông thường tỏ ra nhân từ, không xử tội
các Vương làm loạn trong Loạn
Tam vương, cho tha tội mà còn phục chức.
Đối với kẻ thù như Chiêm Thành còn ra lệnh không tùy tiện sinh
sát, lệnh cho binh lính không được làm bậy.
Tuy có phần quá tin vào Phật giáo, nhân
từ quá độ, song lại có khi đấy chính là đức để truyền lâu dài cho hậu thế, như
lời Ngô Sĩ Liên:
"Tấm lòng ấy của vua cũng như tấm lòng của Tống Thái Tổ
chăng? Truyền ngôi được lâu dài là phải lắm".
Sử gia đánh giá ông như Hán Quang Vũ Đế đánh
đâu được đấy, công sức giúp ổn định tình hình biên cương còn loạn lạc còn vượt
hơn cả Đường Thái Tông.
Nhưng người quân tử còn lấy việc khoe khoang thái quá để chê
trách Đế chưa hiền.
Tiểu sử:
Thái Tông hoàng đế tên thật là Lý
Phật Mã (李佛瑪), còn có tên khác là Lý
Đức Chính (李德政), con trưởng của Lý Thái Tổ.
Tượng Lý Thái
Tổ
Ông sinh vào ngày 29 tháng
7, 1000, tại kinh đô Hoa Lư, Ninh Bình, lúc
này Lý Thái Tổ vẫn còn làm quan dưới triều nhà Tiền Lê.
Về mẹ của vua, trong chính sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Quyển II, Kỷ nhà Lý, mục Lý
Thái Tông, đoạn mở đầu viết:
"Mẹ là hoàng hậu họ
Lê, sinh vua vào ngày 26 tháng 6 năm Canh Tý, niên hiệu Ứng Thiên năm thứ 7
[1000] thời Lê, ở phủ Trường Yên".
Bìa sách Đại
Việt sử ký toàn thư, bản in Nội các quan bản. Cột chữ bên phải là Vựng
lịch triều chi sự tích nghĩa là "góp nhặt sự tích của các triều đại đã
qua". Cột chữ bên trái là Công vạn thế chi giám hoành nghĩa là
"nêu gương chung công lao của vạn đời".
Về sau, các nhà nghiên cứu lịch sử dựa theo các thần tích, thần
phả hán nôm ở khu vực cố đô Hoa Lư khẳng
định mẹ Lý Phật Mã là Lê Thị Phất Ngân, con gái Lê Đại Hành và Dương Vân Nga.
Như vậy, ông chính là cháu ngoại của Lê Đại Hành và Dương Vân
Nga.
Ông sinh ngày 26 tháng
6 âm lịch
năm Canh Tý, niên
hiệu Ứng Thiên thứ 7 thời Tiền Lê (tức 29 tháng
7 năm 1000) ở chùa Duyên Ninh trong kinh đô
Hoa Lư.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, khi ông mới sinh, ở phủ Trường Yên có con
trâu của nhà dân tự nhiên thay sừng khác, người có trâu ấy cho là điềm không
lành, lấy làm lo ngại. Có người giỏi chiêm nghiệm đi qua nhà người ấy cười mà
nói rằng:
Khi còn nhỏ, cùng bọn trẻ con chơi đùa, có thể sai bảo được
chúng, bắt chúng đi dàn hầu trước sau và hai bên như nghi vệ các quan theo hầu thiên tử. Thái Tổ thấy
thế vui lòng, nhân nói đùa rằng: Con
nhà tướng nên bắt chước việc quân, cần gì phải kẻ rước người hầu?, ông tuy
còn ít tuổi nhưng trả lời ngay rằng: Kẻ
rước người hầu thì có xa lạ gì với con nhà tướng? Nếu xa lạ thì sao ngôi vị
không ở mãi họ Đinh mà lại về họ Lê, đều do mệnh trời thôi. Thái Tổ kinh
lạ, từ đấy càng yêu quý hơn.
Năm 1010, khi
ông lên 10 tuổi thì triều đình nhà Lý dời kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng
Long (Hà Nội ngày nay).
Chữ Hán
Chữ Hán
Chiếu đời đô
Sơ đồ kinh đô
Hoa Lư
Thái tử:
Năm 13 tuổi (1012), ông được lập làm Đông cung Thái tử, lại được phong hiệu là Khai Thiên vương (開天王), lập
phủ ở ngoài nội cung để được làm quen với các quan lại và dân chúng.
Trong thời gian làm Thái tử, ông nhiều lần được cử làm tướng cầm
quân đi dẹp loạn và đều lập được công.
Nước Đại Việt đời Lý
Khi đại quân vượt biển, đến núi Long Tỵ, có rồng vàng hiện ra trên thuyền ngự, ông đi đến đỡ
lấy rồng rồi rồng tan biến mất, người đời cho là điềm may.
Năm 1023, ông
cầm quân đi đánh Phong châu. Năm 1025, ông
đi đánh Diễn châu, lập được công lao hiển hách, Thái Tổ hoàng đế rất hài lòng.
Năm 1027, ông
lên phía bắc đánh châu Thất Nguyên (Lạng Sơn). Cùng
năm ấy, ông ban áo ngự cho một đạo sĩ tên Trần Tuệ Long (陳慧隆) ở Nam Đế quán, đêm
ngày đó có ánh sáng vàng hiện lên khắp quán, Tuệ Long hoảng hồn dậy thì thấy
rồng vàng ở trên mắc áo. Người đời cho rằng đấy là mệnh trời, đến đây đều thấy
phù hợp cả. Thái tử nổi tiếng khắp kinh thành, bản tính nhân từ, sáng suốt dĩnh
ngộ, thông hiểu đại lược văn võ, còn như lục nghệ lễ nhạc, ngự xạ, thư số không môn gì là không
tinh thông am tường.
Biến loạn Tam vương:
Năm 1028, Thái
Tổ hoàng đế băng hà, chưa tế táng xong, thì các hoàng tử là Vũ Đức vương (武德王), Dực Thánh vương (翊聖王) và Đông Chinh vương (東征王) đã
đem quân đến vây thành để tranh ngôi của Thái tử. Sử sách gọi là Tam vương chi loạn (三王之亂).
Bấy giờ các quan đứng đầu là Lý Nhân Nghĩa xin
Thái tử Phật Mã cho đem quân ra thành quyết được thua một trận. Khi quân của
Thái tử và quân các vương đối trận, thì quan Vũ vệ tướng quân là Lê Phụng Hiểu rút
gươm ra chỉ vào Vũ Đức Vương mà bảo rằng:
Các người dòm ngó ngôi
cao, khi dễ tự quân, trên quên ơn tiên đế, dưới trái nghĩa tôi con, vậy Phụng
Hiểu xin dâng nhát gươm này!
Nói xong tướng quân Lê Phụng Hiểu chạy
xông vào chém Vũ Đức vương ở trận tiền. Quân các vương trông thấy sợ hãi bỏ
chạy cả. Dực Thánh vương và Đông Chinh vương cũng phải chạy trốn.
Cũng trong năm 1028, nghe
tin Vũ Đức vương bị giết trong cuộc chiến ngai vàng, Khai Quốc Vương đóng ở
phủ Trường Yên (Hoa Lư), lòng càng bất bình, cậy có núi sông hiểm trở bèn đem phủ binh
làm phản. Lý Thái Tông thân đi đánh. Ngày đến Trường Yên, Khai Quốc Vương đầu
hàng. Vua hạ lệnh rằng: Ai
cướp bóc của cải của dân thì chém. Quân sĩ nghiêm theo, không mảy may xâm
phạm. Đại quân vào thành Thăng
Long, dân trong thành đem dâng biếu trâu rượu đứng đầy đường. Vua
sai sứ tuyên chỉ động viên, cả thành vui to. Vua từ phủ Trường Yên về, xuống
chiếu tha tội cho Khai Quốc Vương, vẫn cho tước như cũ.
Dẹp xong loạn Tam vương, ngày Kỷ Hợi (tức 1 tháng 4 năm 1028), Thái
tử Lý Phật Mã lên ngôi, tức là Lý
Thái Tông. Ông đổi niên hiệu là Thiên
Thành (天成).
Về sau, Dực Thánh vương và Đông Chinh vương xin về chịu tội.
Thái Tông nghĩ tình cốt nhục bèn tha tội cho, và lại phục chức cũ cho cả hai
người.
Cũng vì sự phản nghịch của Tam vương, Lý Thái Tông mới lập lệ:
cứ hàng năm, các quan phải đến đền Đồng Cổ (ở làng
Yên Thái, Hà Nội) làm lễ đọc lời thề rằng:
Làm con phải hiếu, làm tôi
phải trung, ai bất hiếu bất trung, xin quỷ thần làm tội.
Các quan ai trốn không đến thề, phải phạt 50 trượng.
Đánh dẹp:
Lý Thái Tông là người có thiên tư đĩnh ngộ, thông lục nghệ, tinh
thao lược, gặp lúc trong nước có nhiều giặc giã, nhưng ông đã quen việc dùng
binh, cho nên ông thường thân chinh đi đánh đông dẹp bắc.
Thời bấy giờ hoàng đế không đặt quan tiết trấn; phàm việc binh
việc dân ở các châu, là đều giao cả cho người châu mục. Còn ở mạn thượng du thì
có người tù trưởng quản lĩnh. Cũng vì quyền những người ấy to quá, cho nên
thường hay có sự phản nghịch. Lại có những nước lân bang như Chiêm
Thành và Ai Lao (Lào) thường hay sang quấy nhiễu, bởi vậy
cho nên sự đánh dẹp thời Lý Thái Tông rất nhiều.
Loạn họ
Nùng:
Châu có những người Nùng thường hay làm loạn. Năm 1038, Nùng Tồn
Phúc ở châu Quảng Nguyên (Lạng Sơn) làm
phản, tự xưng là "Chiêu Thành hoàng đế", lập A Nùng làm "Minh
Đức Hoàng hậu", đặt quốc hiệu là "Trường Sinh quốc" rồi đem quân
đi đánh phá các nơi. Nhà Tống phong Lý Thái Tông làm Nam Bình Vương.
Tháng 2 năm 1039, vua
thân chinh đi đánh, Nùng Tồn Phúc và con là Nùng Trí Thông bị bắt đem về kinh
đô, sau đó bị giết chết. A Nùng và người con khác là Nùng Trí Cao chạy thoát.
Năm 1041, Nùng Trí
Cao cùng mẹ
là A Nùng về lấy châu Thảng Do (gần châu Quảng Nguyên) lập ra nước Đại Lịch.
Thái Tông sai tướng lên đánh bắt được đem về Thăng
Long. Nhưng vua nghĩ trước đã giết cha và anh, nay thương tình không
giết, tha cho về và lại phong cho làm Quảng Nguyên mục. Sau, Lý Thái Tông lại
gia phong cho tước Thái bảo.
Năm 1048, Trí
Cao lại làm phản, chiếm giữ động Vật Ác (phía tây Cao Bằng). Lý
Thái Tông sai Quách Thịnh Dật đi đánh, Trí Cao lại đầu hàng.
Năm 1052, Nùng
Trí Cao lại làm phản, xưng là Nhân Huệ hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Nam.
Trí Cao xin phụ thuộc vào Trung Quốc, vua Nhân Tông nhà Tống không cho. Trí Cao bèn đem quân sang đánh đất triều Tống, phá trại Hoàng Sơn, bao vây những châu Ung, Hoành, Quý, Đằng, Ngô, Khang, Đoan, Củng, Tầm sau đó tiến đến vây hãm thành Quảng Châu. Năm tuần sau, Trí Cao không lên được thành này. Sau đó, quân của Trí Cao vào Ung Châu, tướng tá triều Tống bị sát hại hơn 3000 người, hàng vạn dân chúng bị bắt sống. Trước tình cảnh này, triều đình nhà Tống lo sợ. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: "Khu mật sứ Địch Thanh dâng biểu xin đi đánh. Vua Tống sai Thanh làm Tuyên huy sứ đô đại đề cử, tổng quyền tiết việt đi đánh."
Trí Cao xin phụ thuộc vào Trung Quốc, vua Nhân Tông nhà Tống không cho. Trí Cao bèn đem quân sang đánh đất triều Tống, phá trại Hoàng Sơn, bao vây những châu Ung, Hoành, Quý, Đằng, Ngô, Khang, Đoan, Củng, Tầm sau đó tiến đến vây hãm thành Quảng Châu. Năm tuần sau, Trí Cao không lên được thành này. Sau đó, quân của Trí Cao vào Ung Châu, tướng tá triều Tống bị sát hại hơn 3000 người, hàng vạn dân chúng bị bắt sống. Trước tình cảnh này, triều đình nhà Tống lo sợ. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: "Khu mật sứ Địch Thanh dâng biểu xin đi đánh. Vua Tống sai Thanh làm Tuyên huy sứ đô đại đề cử, tổng quyền tiết việt đi đánh."
Lý Thái Tông dâng biểu sang Trung Quốc xin mang quân phối hợp
đánh Trí Cao. Khi quân Lý sắp vào biên giới, tướng nhà Tống là Địch
Thanh can vua
Tống nên tự đánh dẹp vì sợ quân Lý vào lấn chiếm. Vua Tống bèn sai các tướng Dư
Tĩnh và Tôn Miện đi đánh dẹp Nùng Trí
Cao và sai
sứ nói với Lý Thái Tông rằng không cần quân Lý giúp. Dư Tĩnh đánh mãi không
được. Nùng Trí
Cao dâng
biểu xin lĩnh chức Tiết độ sứ Ung châu và Quý châu, vua nhà Tống đã toan thuận
cho, Địch Thanh can không nên và xin đem quân đi đánh.
Đầu năm 1053, Địch
Thanh ra quân đánh bại Nùng Trí Cao. Trí Cao bỏ chạy. Tháng 10 năm
1053, Trí Cao sai Lương Châu đến cầu cứu Đại Việt. Lý Thái Tông sai chỉ huy sứ Vũ Nhị đi
tiếp ứng cho Trí Cao. Nhưng quân Lý chưa tới nơi thì Trí Cao lại bị Địch Thanh
đánh bại, Cao phải chạy trốn sang nước Đại Lý. Quân
Lý rút về.
Về sau người Đại Lý bắt Nùng Trí
Cao chém
lấy đầu đem nộp nhà Tống. Nhà Tống giết luôn gia quyến của Trí Cao. Từ đó họ
Nùng tuyệt diệt.
“
|
Năm trước, Nùng Tồn Phúc phản nghịch, tiếm hiệu, lập nước, đặt
quan thuộc, Thái Tông đã trị tội Tồn Phúc mà tha cho con là Trí Cao. Nay Trí
Cao lại noi theo việc trái phép của cha thì tội lớn lắm, giết đi là phải, nếu
lấy lại tước và áp phong, giáng là thứ dân, thì cũng phải. Thái Tông đã tha tội,
lại cho thêm mấy châu quận nữa, ban cho ấn tín, phong làm Thái bảo, như thế
là thưởng phạt không có phép tắc gì. Đến khi Trí Cao gây tai họa ở Quảng
Nguyên, lại đem quân đi đánh, mượn cớ là viện trợ láng giềng, có khác gì thả
cọp beo cho cắn người, rồi từ từ đến cứu không? Đó là vì Thái Tông say đắm
cái lòng nhân nhỏ của nhà Phật mà quên đi mất cái nghĩa lớn của người làm vua.
|
”
|
— - Đại Việt
sử ký toàn thư -
|
Thu phục
Chiêm Thành, Ai Lao:
Lý Thái Tông lên làm vua đã hơn 15 năm, mà nước Chiêm
Thành láng
giềng không chịu thông sứ và lại cứ quấy nhiễu ở mặt bể. Thấy vậy, ông bèn sắp
sửa binh thuyền sang đánh Chiêm Thành.
Năm 1044, hoàng
đế Lý Thái Tông đi đánh Chiêm
Thành. Quân Chiêm dàn trận ở phía nam sông Ngũ Bồ. Lý Thái tông
truyền thúc quân đánh tràn sang, quân Chiêm thua chạy. Quân Lý bắt được hơn
5.000 người và 30 con voi. Tướng
Chiêm là Quách Gia Di chém chết vua Sạ Đẩu (Jaya Simhavarman II) đem đầu sang
xin hàng.
Bấy giờ quân Chiêm Thành và dân bản xứ bị giết rất nhiều. Vua
Thái Tông trông thấy động lòng thương, ra lệnh cấm không được giết người Chiêm,
hễ ai trái lệnh thì theo phép quân mà trị tội.
Ông tiến binh đến quốc đô Phật Thệ (nay ở làng Nguyệt Hậu, huyện Hương Thủy,
tỉnh Thừa Thiên-Huế), vào thành bắt được vương phi Mỵ Ê và các cung nữ đem về.
Mỵ Ê giữ tiết không chịu lấy vua, nhảy xuống sông tự tử. Mỵ Ê
được ông khen là trinh tiết, phong làm Hiệp
Chính Hựu Thiện phu nhân.
Nhà thơ Tản Đà có làm bài thơ Tâm sự nàng Mỵ Ê nói về bà:
Châu giang một giải sông dài,
Thuyền ai than thở, một người cung phi!
Đồ Bàn thành phá hủy,
Ngọa Phật tháp thiên di.
Thành tan, tháp đổ
Chàng tử biệt,
Thiếp sinh ly.
Sinh ký đau lòng kẻ tử quy!
Sóng bạc ngàn trùng
Âm dương cách trở
Chiên hồng một tấm,
Phu thê xướng tùy.
Ôi mây! Ôi nước! Ôi trời!
Đũa ngọc, mâm vàng, giọt lụy rơi.
Nước sông trong đục,
Lệ thiếp đầy vơi
Bể bể, dâu dâu, khóc nỗi đời!
Trời ơi! Nước hỡi! Mây hời!
Nước chảy, mây bay, trời ở lại,
Để thiếp theo chồng mấy dặm khơi!...
Vua từ Chiêm Thành về, làm
lễ cáo thắng trận ở miếu Thái Tổ, xong về ngự ở điện Thiên An, mở tiệc rượu làm
lễ mừng về đến nơi. Ngày hôm ấy, bầy tôi dâng tù binh hơn 5 nghìn tên và các thứ
vàng bạc châu báu. Xuống chiếu cho các tù binh đều được nhận người cùng bộ tộc,
cho ở từ trấn Vĩnh Khang đến Đăng Châu (nay là Quy Hóa), đặt hương ấp phỏng tên
gọi cũ của Chiêm Thành. Vua sai đặt cũi lớn ở Dâm Đàm (tức là Hồ Tây ngày nay),
lấy con voi thuần của Chiêm Thành làm mồi nhử voi rừng vào trong cũi, vua thân
đến bắt...
Thời gian đầu nhà Lý cầm quyền còn nhiều thủ lĩnh địa phương
chưa phục tùng, do đó các vua Lý suốt từ Thái Tổ tới Thái Tông phải nhiều lần
ra tay đánh dẹp. Ngoài các cuộc đánh dẹp lớn trên, Lý Thái Tông còn một lần
đánh châu Ái năm 1034, đánh Ai Lao năm 1048. Tháng 9 năm Mậu Tý 1048, niên
hiệu Thiên Cảm Thánh Vũ thứ năm, tướng quân Phùng Trí Năng nhận lệnh vua đem quân đi đánh Ai Lao. Rất
nhiều người và gia súc của Ai Lao bị quân Việt bắt giữ và mang về.
Cai trị:
Xây dựng
cung điện:
Tháng 6, năm 1029, rồng hiện lên ở nền điện Càn Nguyên. Đế
nói với tả hữu rằng: "Trẫm phá điện ấy, sang phẳng nền rồi mà rồng thần
còn hiện. Có lẽ đó là đất tốt, đức lớn hưng thịnh, ở chỗ chính giữa trời đất
chăng ?". Bèn sai Hữu ty mở rộng quy mô, nhắm lại phương hướng mà
làm lại, đổi tên là điện Thiên An. Bên
tả dựng điện Tuyên Đức, bên
hữu dựng điện Diên Phúc, thềm
trước điện gọi là Long Trì. Phía
đông thềm rồng đặt điện Văn Minh, phía
tây đặt điện Quang Vũ, hai
bên tả hữu thềm rồng đặt lầu chuông đối nhau để dân chúng ai có việc kiện tụng
oan uổng thì đánh chuông lên. Bốn xung quanh thềm rồng đều có hành lang để tụ
họp các quan và sáu quân túc vệ.
Phía trước làm điện Phụng Thiên, trên
điện dựng lầu Chính Dương làm nơi trông coi tính toán giờ khắc, phía
sau làm điện Trường Xuân, trên
điện dựng gác Long Đồ làm nơi nghỉ ngơi du ngoạn. Bên ngoài đắp
một lần thành bao quanh gọi là Long
Thành. Năm 1030, Thái
Tông lại sai làm điện Thiên Khánh ở trước điện Trường Xuân để làm chỗ nghe chính sự. Điện làm kiểu bát giác, trước
sau đều bắc cầu Phượng Hoàng.
Ban sách
Hình thư:
Thái Tông hoàng đế còn chủ trương sửa lại luật pháp, định
các bậc hình phạt, các
cách tra hỏi. Kẻ nào ban đêm vào nhà gian dâm vợ cả, vợ lẽ người ta, người chủ đánh chết,
ngay lúc bấy giờ thì không bị tội. Những người từ 70 tuổi trở lên, 80 tuổi trở
xuống, từ 10 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và những người ốm yếu cho đến các
thân thuộc Đế từ hạng Đại công trở lên phạm tội thì cho chuộc bằng tiền, nếu
phạm tội thập ác thì không được theo lệ này.
Xuống chiếu về việc phú thuế của trăm họ, cho phép người thu,
ngoài 10 phần phải nộp quan được lấy thêm một phần nữa, gọi là "hoành
đầu". Lấy quá thì xử theo tội ăn trộm, trăm họ có người tố cáo được
tha phú dịch cho cả nhà trong 3 năm, người ở kinh thành mà cáo giác thì thưởng
cho bằng hiện vật thu được. Nếu quản giáp, chủ đô và người thu thuế thông đồng
nhau thu quá lệ, tuy xảy ra đã lâu, nhưng có người tố cáo thì quản giáp, chủ đô
và người thu thuế cũng phải tội như nhau.
Năm 1042, Thái
Tông hoàng đế ban Hình thư. Trước
kia, việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật
văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí có người bị oan uổng quá đáng. Đế lấy
làm thương xót, sai trung thư san định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với
thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản, làm thành sách Hình thư của một triều đại, để cho người xem dễ
hiểu. Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây phép xử án
được bằng thẳng rõ ràng, cho nên mới đổi niên hiệu là Minh Đạo và đúc tiền Minh Đạo. Bộ Luật Hình thư năm 1042 được
xem là bộ luật đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
Năm 1043, tháng 8, xuống
chiếu rằng kẻ nào đem bán hoàng nam trong dân gian làm gia nô cho người ta, đã
bán rồi thì đánh 100 trượng, thích vào mặt 20 chữ, chưa bán mà đã làm việc cho
người thì cũng đáng trượng như thế, thích vào mặt 10 chữ; người nào biết chuyện
mà cũng mua thì xử giảm một bậc. Xuống chiếu rằng quân sĩ bỏ trốn quá 1 năm xử
100 trượng, thích
vào mặt 50 chữ, chưa đến 1 năm thì xử theo mức tội nhẹ, kẻ nào quay lại thì cho
về chỗ cũ. Quân sĩ không theo xa giá cũng xử trượng như thế và thích vào mặt 10
chữ.
Chăm lo
quốc lực:
Thái Tông hoàng đế tuy phải đánh dẹp liên miên, nhưng cũng không
bỏ bê việc chính trị trong nước. Đặc biệt, ông tỏ ra là vị Hoàng đế có lòng
thương dân. Hễ năm nào đói kém hoặc đi đánh giặc về, lại giảm thuế cho dân trong hai ba năm.
Tháng 2 năm 1038, Thái Tông hoàng đế thân hành ra cửa Bồ Hải để tiến hành lễ cày ruộng Tịch điền. Ông tế Thần Nông, tế
xong tự mình cầm cày xuống ruộng. Các quan can rằng:"Đó là việc của
nông phu, bệ hạ việc gì phải làm thế ?". Thái Tông đáp rằng:"Trẫm
không tự cày cấy thì lấy gì mà có xôi cúng, lại lấy gì cho thiên hạ noi
theo?". Nói xong Đế đẩy cày ba lần mới thôi.
Năm 1040, Thái
Tông hoàng đế ra lệnh lấy hết gấm vóc hàng
nước Tống trong cung ra may áo ban cho các quan, từ ngũ phẩm trở lên thì áo bào
gấm, từ cửu phẩm trở lên thì áo bào vóc. Thái Tông phát hết gấm vóc và dạy cho
cung nữ dệt được gấm vóc. Từ đó trong cung chuyên dùng hàng tự dệt, không dùng
hàng của nước Tống nữa.
Xây dựng
chùa Diên Hựu:
Bài chi tiết: Chùa Một Cột
Chùa một
cột
Tương truyền, Hoàng đế nằm mơ thấy Phật bà
Quan Âm ngồi
trên toà sen dắt ông lên toà. Sau đó, Đế kể lại chuyện đó với bầy tôi; và cho
dựng cột đá, làm toà sen đặt lên như đã thấy trong mộng, theo lời khuyên của
nhà sư Thiền Tuệ. Cột
toà sen đó trở thành ngôi chùa, khi đó có tên là chùa Diên Hựu (延祐寺), với nghĩa
là "phúc lành dài lâu" hay "Phước bền dài lâu".
Hằng năm cứ đến ngày 8 tháng 4 Âm lịch, Thái Tông hoàng đế lại tới chùa
làm lễ tắm Phật. Các
nhà sư và nhân dân khắp Kinh thành Thăng Long cùng dự lễ. Sau lễ tắm Phật là lễ
phóng sinh, Đế đứng trên một đài cao trước chùa thả một con chim bay đi, rồi
nhân dân cùng tung chim bay theo trong tiếng reo vui của một ngày hội lớn.Qua đời:
Tháng 7 năm Giáp Ngọ 1054, niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo năm thứ 6, theo chiếu của Thái
Tông hoàng đế, Hoàng
thái tử Lý Nhật
Tôn được phép coi chầu nghe chính sự.
Tháng 9, ngày Mậu Dần, sức khoẻ của Hoàng đế không
được tốt. Sang mùa đông, vào
tháng 10, ngày mồng một (tức 3 tháng
11 năm 1054), Hoàng đế băng hà tại điện Trường Xuân, sau 27 năm trị quốc,
thọ 54 tuổi. Miếu hiệu là Thái Tông (太宗), thụy hiệu là "Khai Thiên Thống Vận Tôn Đạo Quý
Đức Thánh Văn Quảng Vũ Sùng Nhân Thượng Thiện Chính Lý Dân An Thần Phù Long
Hiện Thể Nguyên Ngự Cực Ức Tuế Công Cao Ứng Chân Bảo Lịch Thông Huyền Chí Áo
Hưng Long Đại Địch Thông Minh Từ Hiếu Hoàng Đế" (开天统运尊道贵德圣文广武崇仁尚善政理民安神符龙见体元御极亿岁功高应真宝历通玄至奥兴龙大定聪明慈孝皇帝).
Nhận định:
“
|
Vua là người trầm mặc, cơ trí, biết trước mọi việc, giống như Hán Quang Vũ đánh
đâu được đấy, công tích sánh với Đường Thái Tông. Nhưng người quân tử còn lấy
việc khoe khoang thái quá để chê trách vua chưa hiền.
|
”
|
Lý Thái Tông là vị hoàng đế giỏi thời nhà Lý. Hơn
30 năm chinh chiến và trị quốc, ông đã củng cố nền cai trị của nhà Lý, chống
lại những nguy cơ chia cắt, bạo loạn, xâm lấn, thu phục lòng dân, khiến cho
nước Đại Cồ Việt trở nên
vững mạnh.
Khi Lý Thái Tổ sắp mất, nhà Lý đứng trước nguy cơ trượt theo vết
xe đổ của các triều đại nhà Ngô, nhà Đinh, Nhà Tiền Lê, chỉ truyền được 1 đời thì gặp phải đại
loạn và dẫn đến việc bị thoán đoạt. Uy tín của ông và tài năng, sự dũng cảm của Khai Quốc Vương, tướng Lê Phụng Hiểu đã
khiến cho tình hình nhanh chóng được ổn định trở lại.
Nhiều lần dùng binh từ nam chí bắc nhưng Lý Thái Tông tỏ ra là
vị hoàng đế bao dung, nhân hậu. Các nhà sử học cho rằng Lý Thái Tông cũng như
nhiều hoàng đế nhà Lý khác có lượng khoan hồng vì ảnh hưởng của quốc giáo là đạo Phật. Trừ
người em Vũ Đức vương làm loạn bị giết, những vương tôn phản loạn khác ông đều
tha tội. Trong cuộc phản loạn của các vương tôn, nhờ người em thứ hai của Thái
Tông là Khai Quốc Vương đem
quân giải vây cho Thăng
Long và Trường Yên (kinh đô
Hoa Lư) giúp ông chống lại quân nổi loạn và chính Khai Quốc Vương vận
động quần thần tôn ông lên ngôi. Nùng Trí Cao nhiều lần làm phản nhưng ông vẫn
đối đãi khá rộng lượng. Vì vậy nhà sử học Ngô Sĩ Liên theo
quan điểm Nho giáo chê ông "mê hoặc theo thuyết từ ái
của đạo Phật mà tha tội cho bề tôi phản nghịch".
Tuy nhiên, theo tác giả Lê Văn Siêu trong sách Việt Nam văn minh sử, việc
ông hậu đãi Nùng Trí Cao là một thâm ý kiểu "thất cầm Mạnh Hoạch" của Gia Cát Lượng khiến
Trí Cao kính phục và cảm kích. Sau này, dù Trí Cao còn ý định xưng hùng, nổi
loạn cũng sang Trung Quốc gây họa cho Tống (và kêu gọi cả vua Thái Tông cùng xé
đế quốc Tống) chứ không còn gây họa cho Đại Cồ Việt.
Gia quyến:
·
Vợ:
2.
Vương hoàng hậu (王皇后).
3.
Đinh hoàng hậu (丁皇后).
4.
Thiên Cảm hoàng hậu (天感皇后).
Một số hoàng hậu không rõ tên, tổng cộng 8 người.
·
Hậu duệ: Thái
Tông có hai người con trai trước đó đều yểu mệnh, Nhật Tôn là con trai thứ 3.
1.
Hoàng thái tử Lý Nhật Tôn [李日尊], tức Thánh
Tông Thánh Thần hoàng đế (聖宗聖神皇帝), mẹ là Linh Cảm hoàng hậu.
4.
Trường Ninh công chúa (长宁公主),
tháng 8, năm 1036, gả
cho châu mục Thượng Oai là Hà Thiện Lãm (何羡覧).
5.
Kim Thành công chúa (慶城公主),
tháng 3, năm 1036, gả
cho châu mục Phong châu là Lê Thuận Tông (黎順宗).
Đền thờ:
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ
ĐÔ HOA LƯ
Vùng đất cố đô Hoa Lư vốn là
nơi sinh trưởng và gắn bó với tuổi thơ 10 năm của Lý Thái Tông trước khi kinh
đô Đại Cồ Việt được
dời về Thăng Long nên tại đây còn nhiều di tích liên quan trực tiếp đến cuộc
đời và sự nghiệp của vị vua này.
Đó là các di tích chùa Duyên Ninh trong
thành Tây Hoa Lư, tương
truyền là nơi sinh ra vua; di tích hang Thầy Bói ở gần cầu Đông là nơi ở của
người tiên đoán điềm lành khi vua sinh ra.
Quanh khu vực cửa Thần Phù (Ninh Bình) có
nhiều di tích thờ Lê Đại Hành cùng
phối thờ Lý Thái Tông, là 2 vị vua đã xây dựng hệ thống phòng tuyến quân sự tại
khu vực này đó là các đình Quảng Công, đình Từ Đường, đền Thượng Ngọc Lâm, đền Vua Lê Đại Hành ở 3 xã Yên Thái, Yên Lâm và Lai Thành.
Có ý kiến cho rằng, Lý Thái Tông do từng có tuổi thơ 10 năm gắn
bó với vùng đất cố đô Hoa Lư trước
khi về với Thăng Long nên sau này xây chùa Một Cột, đền Đồng Cổ, đền thờ Phạm Cự Lượng ở Thăng
Long; đào kênh Lẫm, đầm Lẫm ở cửa Thần Phù (Ninh Bình) và
thực hiện nghi lễ cày ruộng tịch điền đều noi theo truyền thống từ thời ông
ngoại của mình là vua Lê Đại Hành.
Xem thêm:
Tham khảo:
·
Lê Văn Siêu (2004), Việt Nam văn minh sử, Nhà
xuất bản Thanh niên
https://www.youtube.com/watch?v=7GiBgZbWXF4
https://www.youtube.com/watch?v=7GiBgZbWXF4
NGÔ SĨ LIÊN
Chú thích:
2.
^ NGỌC PHẢ
CÁC VUA TRIỀU LÊ Lý Công Uẩn hàng năm theo thiền sư "Lý Vạn Hạnh vào hầu vua
Lê ở thành Hoa Lư, Công Uẩn được vua yêu, cho ở lại kinh thành học tập quân sự.
Vua lại gả con gái cả là Lê Thị... sinh ra Lý Phật Mã và đặc phong cho Công Uẩn
làm Điện tiền cận vệ ở thành Hoa Lư. Dần dần, Công Uẩn thăng lên chức Điện tiền
chỉ huy sứ. Chức ấy chỉ dành cho hoàng tộc hoặc quốc thích mới được trao. Chính
nhờ vậy mà về sau, Lý Công Uẩn đã đem ngôi vua về cho họ Lý.
3.
^ 4 đền,
chùa cầu duyên linh thiêng nức tiếng gần xa - 3. Chùa Duyên Ninh, Kim Giang, Tờ báo Công ty cổ phần truyền thông Việt Nam, ngày
09-02-2011
5.
^ Ly kỳ điềm
báo mệnh đế của Lý Thái Tông, Bảo
tàng lịch sử quốc gia, Cập nhật: 8:32 AM GMT+7, Thứ ba, 05/03/2013
6.
^ Điềm báo
trước việc vua Lý Thái Tông ra đời, Theo
"Cổ học tinh hoa" của Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân, Tạp chí Quê hương,
16/05/2006
7.
^ Đại Việt
Sử ký toàn thư, tập I, in lần thứ hai, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, HN 1972,
trang 203-204
10.
^ Nguyên
văn: Sử khen vua là người nhân triết, thông tuệ, có đại lược văn võ,
lục nghệ không nghề gì không tường. Vì có tài đức ấy, nên có thể làm mọi việc,
song câu nệ về lễ yến hưởng vua tôi, đương lúc đau thương mà cũng vui chơi, khiến
cho đạo chí hiếu có thiếu sót. Mê hoặc bởi cái thuyết từ ái của Phật mà tha tội
cho bề tôi phản nghịch3 thì lòng nhân ấy thành ra nhu nhược, đó là chỗ kém. (Đại Việt
Sử Ký Toàn Thư)
No comments:
Post a Comment