Nhà Nguyễn
Việt Nam (1804 - 1839)
Đại Nam (1839 - 1883)
Đế quốc
1802–1945
Quốc ca
Bản đồ cương vực Việt
Nam dưới thời Minh Mạng
Lịch sử
Gia
Long lên ngôi hoàng đế 1802
Hòa ước Quý Mùi, 1883, Đại Nam mất một phần Trung Kỳ và toàn bộ Bắc Kỳ vào tay Pháp 28
tháng 8, 1883
1840 575.000 km² (222.009
sq mi)
1860 380.000 km² (146.719
sq mi)
Nhà Nguyễn (Chữ Nôm: 家阮, Chữ Hán: 阮朝; Hán Việt: Nguyễn triều)
là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, năm 1802 đến năm 1804
sử dụng quốc hiệu Nam Việt (Gia Long khi triều cống nhà Thanh tự xưng "Nam Việt Quốc trưởng"),
năm 1804 đến năm 1839 sử dụng quốc hiệu Việt Nam, Đại Việt
Nam, năm 1839, vua Minh Mạng Nguyễn
Phúc Đảm đổi quốc hiệu là Đại Nam.
Nhà Nguyễn được thành lập sau khi vua Gia Long lên ngôi năm 1802 và chấm dứt hoàn
toàn khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị vào năm
1945, tổng cộng là 143 năm. Triều Nguyễn là một triều đại đánh dấu nhiều thăng
trầm của lịch sử, đặc biệt là cuộc
xâm lược của người Pháp giữa thế kỷ 19.
Triều Nguyễn trải qua hai giai đoạn chính:
1/ Giai đoạn thứ nhất (1802-1858) được coi là
giai đoạn độc lập, các vua nhà Nguyễn nắm toàn quyền quản lý đất nước, trải qua
4 đời vua, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Gia
Long và sau đó là Minh Mạng đã cố gắng xây dựng Việt Nam trên nền tảng Nho giáo và xóa bỏ các cải cách theo hướng
tiến bộ của nhà Tây Sơn.
Từ
thập niên 1850, một nhóm trí thức Việt Nam, tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ, đã nhận ra sự trì trệ
của đất nước yêu cầu học hỏi phương Tây để phát triển công nghiệp - thương mại,
cải cách quân sự - ngoại giao, nhưng họ chỉ là thiểu số.
Do
đa số quan chức triều Nguyễn và giới sĩ phu không ý thức được sự cần thiết của
việc cải cách kinh tế, văn hóa, quân sự, ngoại giao... và mở cửa đất nước nên
Tự Đức không quyết tâm thực hiện những đề xuất này. Nước Việt Nam dần
trở nên trì trệ, lạc hậu và đứng trước nguy cơ bị thực dân châu Âu xâm chiếm.
2/ Giai đoạn thứ hai, (1858-1945) được coi là
giai đoạn bị Pháp xâm lăng và đô hộ, kể từ khi quân Pháp đánh Đà Nẵng và kết
thúc sau khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị.
Tháng
8 năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ tấn công vào cảng Đà Nẵng và sau đó rút vào xâm
chiếm Gia Định.
Tháng
6 năm 1862, vua Tự Đức ký hiệp ước cắt nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp.
Năm
1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ thuộc
địa Cochinchine (Nam Kỳ).
Sau
khi củng cố vị trí vững chắc ở Nam Kỳ, từ năm 1873 đến năm 1886, Pháp xâm chiếm
nốt những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở Bắc Kỳ.
Đến
năm 1884 thì nhà Nguyễn chính thức công nhận quyền cai trị của Pháp trên toàn
Việt Nam. Pháp có quyền cai trị, còn các vua nhà Nguyễn chỉ còn là tượng trưng,
quân Pháp có thể tùy ý phế lập vua Nguyễn.
Thời
kỳ độc lập
Thành lập
Xem thêm: Chúa Nguyễn
Năm 1778, Nguyễn Ánh quay lại và tập hợp lực lượng chiếm
được Gia Định và đến năm 1780, ông xưng vương.
Trong mùa hè năm 1781, quân đội của Nguyễn Ánh lên đến khoảng 3 vạn người với 80
chiến thuyền đi biển, 3 thuyền lớn và
2 tàu Bồ Đào Nha do giám mục Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Ánh mời được. Ông
tổ chức tấn công Tây Sơn đánh tới tận đất Phú Yên nhưng
sau cùng phải rút chạy vì gặp bộ binh rất mạnh của Tây Sơn. Tức
giận vì tốn kém nhưng không thu được kết quả, quan lại Gia Định để cho một
người phụ việc của Bá Đa Lộc là cai cơ Manuel (Mạn Hòe) lập
mưu giết chết các tay lính đánh thuê Bồ Đào Nha và cướp tàu của họ.
Tháng 3 năm 1782, Nguyễn Huệ cùng vua Thái Đức mang quân thuỷ bộ Nam tiến. Tây Sơn
đụng trận dữ dội ở sông Ngã Bảy, cửa Cần Giờ với
quân Nguyễn do chính Nguyễn Ánh chỉ huy. Dù lực lượng thuyền của Tây Sơn yếu
hơn, nhưng nhờ lòng can đảm của mình, họ đã phá tan quân Nguyễn, buộc Manuel tự
sát, tuy vậy cũng thiệt hại khá nhiều binh lực.
Nguyễn Ánh bỏ chạy về Ba
Giồng, rồi có khi trốn sang tận rừng Romdoul, Chân
Lạp. Vua
Thái Đức khi tấn công Nam bộ do cướp bóc Cù lao
Phố nên gặp phải sự chống đối mạnh của người
Hoa ủng hộ Nguyễn Ánh tại đây khiến cho một thân tướng là Đô
đốc Phạm
Ngạn tử trận, binh lính thương vong nhiều, nên ông rất đau đớn
rồi nổi giận ra lệnh tàn sát người Hoa ở Gia Định để trả thù. Việc
này đã cản chân Tây Sơn trong việc truy bắt Nguyễn Ánh, khiến cho Nguyễn Ánh có
cơ hội quay trở về Giồng Lữ, một
đô đốc Tây Sơn là Nguyễn Học đem quân đuổi theo Ánh bị quân Nguyễn bắt giết
khiến cho Nguyễn Ánh có được 80 thuyền của Tây Sơn. Nguyễn Ánh thấy vậy định
kéo về chiếm lại Gia Định nhưng đụng Nguyễn Huệ dàn binh quay lưng ra sông đánh
bại khiến Nguyễn Ánh phải chạy về Hậu
Giang, Rạch
Giá, Hà Tiên rồi theo thuyền nhỏ trốn ra Phú
Quốc.
Sau khi chiến thắng quân Thanh, vua Quang Trung đang chuẩn bị phối hợp với Nguyễn
Nhạn đem quân vào Nam đánh Gia Định thì đột ngột qua đời (1792), con là Nguyễn Quang Toản còn nhỏ tuổi lên nối
ngôi, hiệu là Cảnh Thịnh. Loạn lạc liền nổ ra ở Bắc Hà, sĩ phu trung thành với
nhà Lê nổi lên tôn Lê Duy Cận làm
minh chủ, Duy Cận liên lạc với Nguyễn Ánh để cùng đánh Tây Sơn, việc
này góp phần làm cho nhà Tây Sơn nhanh chóng suy yếu. Nội bộ Tây Sơn xảy ra
tranh chấp, quyền hành rơi vào tay ngoại thích Bùi Đắc Tuyên. Từ
đó, Nguyễn Ánh ra sức mở các đợt tấn công ra Quy Nhơn theo nguyên tắc đã định
trước đó: "Gặp nồm thuận thì tiến, vãn thì về, khi phát thì quân lính
đủ mặt, về thì tản ra đồng ruộng". Ngoài
ra, Nguyễn Ánh còn định cho sứ đi ngoại giao với Trung Quốc, lợi dụng mâu thuẫn
và thù hằn của quốc gia này với Tây Sơn, và cả sự có mặt của Lê Chiêu Thống bên đó để khiến Trung
Quốc giúp mình, nhưng việc không thành do khi sứ của Nguyễn Ánh là Ngô Nhơn Tĩnh và Phạm Thận sang
đến nơi thì Lê Chiêu Thống đã mất.
Năm 1793, Nguyễn Ánh cùng các tướng Võ Duy
Nguy, Nguyễn Văn Trương, Võ Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Phước Hội, Philippe
Vannier, Nguyễn Văn Hòa, Chưởng cơ Cố đem
quân đánh Nha Trang, Diên
Khánh, Phú Yên rồi
tranh thủ đánh tới tận thành Quy
Nhơn của Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc cầu cứu quân ở Phú Xuân. Vua
Cảnh Thịnh sai Ngô Văn Sở, Phạm Công Hưng, đô đốc Hố và Chưởng cơ Thiêm
đem 17.000 quân, 80 thớt voi,và 30 chiếc thuyền chia nhiều đường tiến
vào cứu, quân Nguyễn Ánh rút lui, trên
đường về ông sai quân đắp thành Diên Khánh để lợi dụng địa thế nơi
này làm bàn đạp chống Tây Sơn. Cùng thời gian, quân Phú Xuân của Tây Sơn nhân
dịp đánh chiếm luôn thành Bình Định và kho tàng của Nguyễn Nhạc. Lúc đó Nguyễn
Nhạc đang bệnh trên giường, nghe tin gia sản mà ông để lại cho con mình là
Quang Bảo bị chiếm mất, uất quá thổ huyết mà qua đời. Quang
Toản cho an trí Quang Bảo ra
huyện Phù Ly và cai quản toàn
bộ đất đai của Nguyễn Nhạc.
Từ năm 1794 đến năm 1795, Tây Sơn phản công, họ cho quân nhiều
lần vào đánh Phú Yên,
vây thành Diên Khánh, quân
Nguyễn cũng ra sức chống cự, nhiều lần kìm hãm, thậm chí là đánh lại được quân
Tây Sơn. Tuy
nhiên nội bộ Tây Sơn lại mâu thuẫn, các tướng tranh quyền. Vũ Văn Dũng giết Bùi Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở, Quang Toản nhỏ tuổi không làm gì
được. Trần Quang Diệu đang đi đánh Nguyễn Ánh,
nghe tin đành rút quân về, suýt giao tranh với Vũ Văn Dũng may nhờ có Quang
Toản sai quan ra khuyên giải Trần Quang Diệu mới đồng ý hòa. Nhưng sau đó Quang
Toản lại nghe lời gièm pha tước mất binh quyền của Trần Quang Diệu, Tây Sơn từ
đó cứ lục đục mãi, các quan nghi kị giết hại lẫn nhau tạo điều kiện thuận lợi
cho Nguyễn Ánh. Năm
1797, Nguyễn Ánh cho quân ra đánh Phú Yên, riêng ông thì cùng Nguyễn Phúc Cảnh chỉ huy thủy quân ra tận
Quy Nhơn giao chiến với tướng Tây Sơn là Lê
Trung tại Thị Nại thu được nhiều khí giới, nhưng
khi tới Quy Nhơn thấy thế lực Tây Sơn thủ mạnh quá đành vòng lên đánh Quảng
Nam nhưng được mấy tháng lại rút về vì
thuyền chở quân lương từ Gia Định bị ngược gió không lên kịp.
Nguyễn Ánh chiêu dụ Nguyễn Quang Bảo nhưng việc chưa thành vì
Quang Toản ra tay trước, bắt và giết được Quang Bảo. Nhưng
Tây Sơn lại rơi vào lục đục, Quang Toản nghi ngờ giết hại nhiều triều thần, võ
tướng, khiến cho sức chiến đấu suy giảm, thêm nhiều người sang hàng Nguyễn Ánh. Năm
1799, Nguyễn Ánh cho sứ yêu cầu vua Xiêm La cho
một đạo quân Chân Lạp và Vạn Tượng đi đến sát biên giới Nghệ An để nghi
binh và vua Xiêm đồng ý làm theo. Cũng
trong năm 1799, Nguyễn Ánh tự cầm quân đi đánh thành Quy Nhơn, tướng
giữ thành của Tây Sơn là Vũ Tuấn đầu
hàng dù trước đó Quang Toản đã sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem quân vào
cứu. Sau
đó, Nguyễn Ánh đổi tên Quy Nhơn thành Bình Định, rồi
cho quân tới trấn giữ thành. Tây Sơn ngay lập tức tìm cách chiếm lại; tháng 1
năm 1800, hai danh tướng Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng kéo đến vây thành Quy Nhơn.
Nguyễn Ánh cho quân ra cứu nhưng bị bộ binh Tây Sơn chặn lại, ông chia quân đi
đánh các nơi và thắng nhiều trận, trong đó có một trận lớn ở Thị Nại. Thấy
thế Tây Sơn vây Quy Nhơn còn mạnh, Nguyễn Ánh cho người lẻn mang thư đến bảo
tướng quân Nguyễn giữ thành là Võ Tánh mở
đường máu mà trốn ra nhưng Võ Tánh quyết tử thủ để tạo điều kiện cho Nguyễn Ánh
đánh Phú Xuân, việc
này khiến thời gian hai danh tướng Tây Sơn bị cầm chân lên hơn một năm. Năm
1801, Nguyễn Ánh nhận thấy tinh binh Tây Sơn đều tập trung cả ở chiến trường
Quy Nhơn nên mang quân chủ lực vượt biển ra đánh Phú Xuân. Tháng 5 năm 1801,
Nguyễn Ánh kéo quân giao chiến dữ dội với Tây Sơn ở cửa Tư Dung; rồi
đụng Quang Toản ở cửa Eo, Quang
Toản thua trận bỏ chạy ra Bắc và
đến ngày 3 tháng 5 Nguyễn Ánh giành được Phú Xuân.
Cùng thời gian nghe tin Phú Xuân bị tấn công, Trần Quang Diệu
đang vây Quy Nhơn sai binh về cứu nhưng bị quân Nguyễn chặn đánh nên quân không
về được, ông chỉ còn cách cố gắng đốc binh chiếm thành. Đầu
năm 1802, Tây Sơn mới chiếm lại thành Quy Nhơn, Võ Tánh tự vẫn để xin tha mạng
cho binh sĩ. Trần
Quang Diệu tha cho binh lính Nguyễn, an táng Võ Tánh và thuộc tướng rồi
bỏ thành Quy Nhơn; cùng Vũ Văn Dũng mang quân cứu viện ra Nghệ An, bị quân
Nguyễn chặn đường, phải vòng qua đường Vạn Tượng. Lúc
tới Nghệ An thì thấy thành đã mất, quân sĩ bỏ chạy gần hết, vợ chồng Trần Quang
Diệu và Bùi Thị Xuân bị bắt, Vũ
Văn Dũng không rõ số phận.
Cũng trong thời gian này, sau khi chiến thắng quân Tây Sơn, hoàn
toàn chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế ngày 1 tháng 6 (âm lịch)
năm Nhâm Tuất (1802). Để
tượng trưng sự thống nhất Nam-Bắc lần đầu tiên sau nhiều năm, Nguyễn Ánh chọn
niên hiệu là Gia Long, chữ Gia lấy từ Gia
Định và Long lấy từ Thăng
Long. Sau
đó ông cho người đem toàn bộ ấn sách nhà
Thanh trao cho Tây Sơn trả lại và xin phong, rồi sai Lê Văn
Duyệt kéo quân tiếp ra Bắc Hà diệt hoàn toàn nhà Tây Sơn.
Tổ chức bộ máy
Quan chế và tổ chức chính quyền trung ương
Bài chi tiết: Quan chế nhà Nguyễn
Phẩm phục của quan văn (trái) và quan võ
(phải).
Ngay từ sớm, Nguyễn Ánh đã phong vương, đặt quan lại cho những
người theo phò tá mình. Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn và trở thành hoàng đế Gia
Long, ông lại tiếp tục kiện toàn lại hệ thống hành chính và quan chế của chính
quyền mới. Nhà Nguyễn về cơ bản vẫn giữ nguyên hệ thống quan chế và cơ cấu
chính quyền trung ương giống như các triều đại trước đó. Đứng đầu nhà nước là
vua, nắm mọi quyền hành trong tay. Giúp vua giải quyết giấy tờ, văn thư và ghi
chép có Văn thư phòng (năm 1829 đổi là Nội các). Về việc quân quốc trọng sự thì có 4 vị
Điện Đại học sĩ gọi là Tứ trụ Đại thần, đến năm 1834 trở thành viện Cơ mật.
Ngoài ra còn có Tông nhân phủ phụ trách các công việc của Hoàng gia[40].
Bài quá dài, phải cắt bớt
Phân chia hành chính
Bài chi tiết: Hành chính Việt
Nam thời Nguyễn
"An Nam Đại Quốc Họa Đồ" do giáo
sĩ Jean-Louis Taberd vẽ vào triều vua Minh Mạng, in lại trong sách Dictionarium
Latino-Annamiticum completum et novo ordine dispositum(Từ điển Việt-La) năm
1838.
Bản đồ vương quốc Đại Nam năm 1844 (trích từ
bản đồ vùng Viễn Ấn (Hinter Indien) của Carl Christian Franz (1788-1874).).
Quần đảo Hoàng Sa trên bản đồ của Đức năm
1876 vẽ vùng Viễn Ấn Hinter-Indien với lời ghi rõ quần đảo
thuộc xứ "Annam"
Nước Đại Nam của nhà Nguyễn vào
thời điểm kết thúc độc lập năm 1883-1884, lãnh thổ chính bị chia thành 3
xứ Nam Kỳ thuộc
địa (Cochinchina), Trung Kỳ (Annam), Bắc Kỳ (Tonkin) thuộc
Pháp. Lãnh thổ cực đại của nhà Nguyễn thời độc lập tương đương với 3 xứ này và
những vùng hay vương quốc mà nhà Nguyễn từng sáp nhập ở xung quanh: Trấn Ninh, Tây Nguyên (Pays de Mois), và Trấn Tây (Cambodge 1834-1840).
Bài quá dài, phải cắt bớt
Quân đội
Bài chi tiết: Quân đội Nhà Nguyễn
Binh lính người Việt thời Nguyễn
Một trong những thành quả Gia Long đạt được sau nhiều năm nội
chiến với Tây Sơn là quân đội tương đối mạnh với trang bị và tổ chức kiểu
phương Tây. Sau khi quản làm chủ toàn bộ quốc gia, nhà Nguyễn xây dựng quân đội
hoàn thiện hơn, chính quy hơn. Để sung binh ngạch mới, vua Gia Long cho thực
hiện phép giản binh, theo hộ tịch tuỳ nơi mà định, lấy 3, 5 hay 7 suất đinh
tuyển 1 người lính.[49] Quân
chính quy đóng tại kinh thành và những nơi xung yếu; các địa phương đều có lực
lượng vũ trang tại chỗ làm nhiệm vụ trị an. Quân chính quy có 14 vạn người,[50] ngoài ra còn có quân trừ
bị. Quân đội còn được tổ chức thành 4 binh chủng: bộ binh, tượng
binh, thủy
binh và pháo
binh, trong đó bộ binh và thuỷ binh được chú trọng xây dựng để tác
chiến độc lập. Trình độ chính quy thống nhất cao. Ngoài vũ khí cổ truyền, quân
chính quy được trang bị hoả khí mua của phương Tây như đại bác, súng
trường, thuyền máy, thuốc
nổ...Các loại súng thần công, đại bác được đúc với kích thước,
trọng lượng thống nhất; thành luỹ, đồn to nhỏ cũng được quy định cho từng cấp
với số lượng quân nhất định.
Một khẩu đại bác của quân đội nhà Nguyễn ở
thành Gia Định xưa
Sự quan tâm tới khoa học quân sự phương Tây của Gia Long được
xem là do tình thế bắt buộc thì với Minh
Mạng lại hoàn toàn tự nguyện. Minh Mạng lấy phương Tây làm kiểu
mẫu cho việc tổ chức quân đội, hướng đến việc quân cần tinh nhuệ, không cần
nhiều, bỏ bớt số lượng người cầm cờ từ 40 người xuống 2 người trong đội ngũ đơn
vị 1 vệ (500 người).[51]Phương
thức tác chiến được các học giả Mãn Thanh ghi nhận là giống hệt kiểu Pháp, do
trong quân đội Minh Mạng có thuê các sĩ quan huấn luyện đến từ phương Tây.[51] Có
thể nói, quân đội nhà Nguyễn thời Minh Mạng là lực lượng quân sự tân tiến hiện
đại nhất ở khu vực Đông Á, vượt trội các nước láng giềng như Trung Hoa, Thái
Lan, Campuchia.[52]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Thuế khóa và lao dịch
Việc sinh hoạt quốc gia đòi hỏi phải có đủ tài chính để duy trì
bộ máy triều đình nên sau khi lên ngôi, vua Gia
Long đã tổ chức lại vấn đề đăng tịch, bắt buộc mỗi làng xã phải
ghi vào sổ đinh trong làng số đàn ông từ
18-60 tuổi[53]. Các
đinh bộ không bao giờ kê khai hết tất cả số đàn ông trong làng vì ngoài dân
đinh còn có một số người là dân ngoại tịch, dân lậu, những người bần
cùng, vô sản, không thể đánh thuế cũng
như những người mới tới làng định cư[54].
Bài quá dài, phải cắt bớt
Trong dân gian đã xuất hiện các bài vè, bài ca miêu tả sự nặng
nề của chế độ lao dịch, ví dụ bài "Tố khuất khúc" của dân Sơn Nam Hạ có
câu:
Binh tài hai việc đã xong,
Lại còn lực dịch thổ công
bao giờ.
Một năm ba bận công trình,
Luật pháp
Cờ lệnh của Hoàng đế (đế kỳ).
Lúc đầu, nhà Nguyễn chưa có một bộ luật rõ ràng, chi tiết. Vua
Gia Long chỉ mới lệnh cho các quan tham khảo bộ luật Hồng Đức để rồi từ đó tạm
đặt ra 15 điều luật quan trọng nhất[57]. Năm 1811, theo lệnh của Gia
Long, tổng trấn Bắc Thành là Nguyễn Văn Thành đã chủ trì biên soạn một
bộ luật mới và đến năm 1815 thì nó đã được vua Gia Long ban hành với tên Hoàng Việt luật lệ hay còn gọi là luật Gia Long. Bộ luật Gia Long gồm 398 điều
chia làm 7 chương và chép trong một bộ sách gồm 22 cuốn, được in phát ra khắp
mọi nơi. Theo lời tựa, bộ luật ấy hình thành do tham khảo luật Hồng Đức và luật nhà Thanh nhưng
kỳ thực là chép luật của nhà
Thanh và chỉ thay đổi ít nhiều. Chương "Hình luật"
chiếm tỉ lệ lớn, đến 166 điều trong khi những chương khác như "Hộ
luật" chỉ có 66 điều còn "Công luật" chỉ có 10 điều. Trong bộ
luật có một số điều luật khá nghiêm khắc, nhất là về các tội phản nghịch, tội
tuyên truyền "yêu ngôn, yêu thư".[57] Tuy
nhiên, bộ luật cũng đề cao việc chống tham nhũng và đặt ra nhiều điều luật
nghiêm khắc để trừng trị tham quan. Tất nhiên, đến các đời vua sau Gia Long, bộ
luật này cũng được chỉnh sửa và cải tiến nhiều, nhất là dưới thời Minh Mạng.[57]
Ngoại giao
Với các nước lân bang
Cũng như các triều đại trước, nước đầu tiên mà Gia Long tiến
hành ngoại giao là Trung
Quốc. Tháng 5 năm 1802, sau khi lên ngôi vua, Gia Long cho một đoàn
sứ giả đem đồ cống sang Quảng Đông cầu phong triều đình Trung quốc. Dẫn
đầu đoàn sứ giả là Trịnh Hoài Đức chánh sứ, Ngô Nhân Tĩnh và Hoàng Ngọc Uẩn là phó sứ. Đoàn sứ giả
sang Quảng Tây, quan lại nhà Thanh ở đây nhận chuyển đồ
cống lên Bắc Kinh, còn giữ đoàn sứ ở lại Quảng
Tây chờ lệnh triều đình có cho sứ giả lên Bắc
Kinh triều yết hay không. Sứ đoàn này chưa hồi hương thì cuối
năm đó vua Gia Long tiếp tục cử Binh bộ Thượng thư là Lê Quang Định sang cầu phong vua Gia
Khánh nhà Thanh đổi quốc hiệu là Nam Việt.[58] Sau
những tranh luận về tên gọi, vì nhà Thanh ngại nhầm lẫn với nước Nam
Việt xưa nằm ở Lưỡng Quảng và cuối cùng đồng ý đảo ngược lại
thành Việt Nam, vua Thanh cho Tổng đốc Quảng
Tây là Tề Bố Xâm sang làm lễ tấn phong cho Gia Long là Việt
Nam quốc vương, ấn định thể lệ tiến cống hai năm một lần và cứ bốn năm một
lần Việt Nam sẽ phái sứ bộ sang làm lễ triều kính.[59]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Với phương Tây
Năm 1803, Anh Quốc sai
sứ là Robert sang xin cho mở cửa hàng buôn bán ở Trà Sơn,
thuộc Quảng Nam. Vua Gia Long không nhận đồ, và cũng không
cho mở cửa hàng. Sau người Anh còn đưa thư sang hai ba lần nữa, nhưng vẫn bị từ
chối. Đối với nước Pháp, vua Gia Long có thiện cảm hơn do khi ông còn gian truân có nhờ
ông Bá Đa Lộc giúp đỡ. Khi chiến tranh kết thúc,
các ông Chaigneau, Vannier và Despiau làm quan tại triều, Gia Long cho mỗi
người 50 lính hầu và khi chầu thì không cần lạy Hoàng đế. Năm 1817, chính phủ
Pháp phái tới Việt Nam chiếc tàu Cybèle để thăm dò bang giao. Thuyền trưởng
là Achille De Kergariou nói
rằng vua Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước
do Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Gia
Long sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi
hành thì nay bỏ, không nói đến nữa[62].
Bài quá dài, phải cắt bớt
Kinh tế
Thương mại
Bài chi tiết: Thương mại Việt
Nam thời Nguyễn
Đồng tiền đúc ở thời Gia
Long. Hai mặt trước sau với bốn chữ "Gia
Long thông bảo" (嘉隆通寶) và "Thất phân" (七分).
Thương mại Việt Nam sau khi đất nước được thống nhất vẫn không
phát triển lắm[66], tổ chức thương mại của người Việt sơ sài, trong phạm vi gia
đình. Nếu có những hội buôn lớn
thì cũng chỉ là những phường họp vài thương
gia hùn vốn với nhau để kinh doanh rồi chia tiền ngay, không
liên kết lại thành những hội buôn làm ăn lâu dài. Nhiều người Việt Nam dùng
tiền của để mua ruộng đất chứ không đầu tư kinh doanh, khuếch trương thương mại
hay công nghệ.[66] Việc buôn bán ở các chợ quy
mô lớn do thương nhân Hoa
kiều chi phối, dù những người này chỉ là thiểu số.[66] Các
mặt hàng tiêu dùng họ kinh doanh gồm có: mua thổ sản như gạo, lúa, bắp, đường, hạt
tiêu... và bán và nhập cảng trà, thuốc
Bắc, vải, đồ đồng, giấy. Trong
vùng nông thôn, hoạt động thương mại cũng chỉ nhằm trao đổi nông sản và
hàng tiểu thủ công ở các chợ. Ở đó, ngoài những cửa hàng tạp hóa quy
mô nhỏ hay các cửa tiệm bán thuốc
Bắc, còn có những nông dân bán thổ sản và nông
sản địa phương và một số thương
nhân nhỏ bán vải vóc, hàng xén, cau thuốc, đi rong từ chợ này
sang chợ khác. Theo sử gia Trần Trọng Kim, người Việt
Nam chỉ quanh quẩn trong nước, buôn bán những hàng hóa lặt
vặt, nên bao nhiêu mối lợi lớn về tay người ngoài mất.[67]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Thủ công nghiệp
Bài chi tiết: Thủ công nghiệp
Việt Nam thời Nguyễn
Áo hoàng bào bằng vóc được thêu thùa tinh xảo
Thủ công nghiệp Nhà nước thời Nguyễn chế tạo tất cả những đồ
dùng cho hoàng gia, tham gia đóng thuyền cho quân đội, đúc vũ khí, đúc tiền,...[75]
Nhà Nguyễn cũng tập trung xây dựng hệ thống các xưởng thủ công
Nhà nước, nhất là ở kinh đô và các vùng phụ cận. Năm 1803, Gia Long thành lập
xưởng đúc tiền Bắc Thành tiền cục ở Thăng
Long.[75] Nhà Nguyễn cũng lập các
Ti trông coi các ngành thủ công, như ti Vũ khố chế tạo quản lý
nhiều ngành thủ công khác nhau, gồm 57 cục: làm đất, đúc, làm đồ vàng bạc, vẽ
tranh, làm ngói, làm đồ pha lê, khắc
chữ, đúc súng, làm trục xe, luyện đồng,... Ti Thuyền chịu
trách nhiệm về các loại thuyền công và thuyền chiến, gồm 235 sở trên toàn quốc[75]. Ngoài ra còn có các ti Doanh
kiến, ti Tu tạo, ti Thương bác hoả dược.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Nông nghiệp
Triều Nguyễn có những chính sách ưu đãi để phát triển nông nghiệp, như là cấm mua bán ruộng đất công, lập
kho Thường bình, Sở Tịch điền, Sở Diễn canh, kho Bình thiếu, Sở Đồn điền, Đàn Xã tắc,... Năm
1828, Minh Mạng giao cho bộ Lễ soạn
thảo chu đáo các điển lễ khôi phục lại nghi lễ Tịch điền và làm thành luật lệ lâu
dài, cũng như quy định rất nghiêm túc, cụ thể.[80]
Về vấn đề ruộng đất, ngay khi mới lên ngôi, Gia Long đã phải ra
lệnh cấm bán ruộng đất công và quy định chặt chẽ việc cầm cố loại công điền
công thổ này để bảo đảm đất cày cho mọi người nông dân.[81] Trải
qua nội chiến, nhân dân lại gặp mất mùa liên tiếp. Triều đình thường phải giảm
thuế, miễn thuế và phát chẩn. Thời Minh Mạng định lại phép quân cấp ruộng
khẩu phần, quan lại, binh lính, công tượng (thợ làm quan xưởng) cùng các hạng
dân đinh, không kể phẩm trật cao thấp đều được hưởng một phần khẩu phần nhưng
quan lại, cường hào cũng giành được những phần tốt hơn. Người già, người tàn
tật thì được nửa phần. Cô nhi, quả phụ được 1/3.[82]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Văn hóa và giáo dục
Giáo dục
Bài chi tiết: Giáo dục khoa cử
thời Nguyễn
Lễ xướng danh trường thi Hương tại Nam Định
năm Mậu Tý (1888)
Bài quá dài, phải cắt bớt
Trong dân chúng, việc học tập có tính chất tự do hơn. Bất kỳ
người nào có học lực kha khá cũng có thể mở trường
tư thục để dạy học. Mỗi làng có vài ba trường tư thục, hoặc ở
nhà thầy, hoặc ở nhà người hào phú nuôi
thầy cho con học và cho con các nhà lân cận đến học. Theo ông Trần Trọng Kim thì người Việt Nam vốn
chuộng sự học, cho nên người đi học cũng nhiều.[92]Dù vậy, việc học tập càng lúc
càng thoái hóa do nội dung học chỉ tập trung vào thơ phú và các tác phẩm cổ,
không áp dụng được gì nhiều trong thực tế. Nhiều người học chỉ để đi thi, mong
được làm quan. Trần Trọng Kim cho rằng:
“Bao nhiêu
công phu của người đi học chú trọng vào sự học cho nhớ những sách Tứ Thư, Ngũ Kinh cùng những lời thể chú của tiền
nho trong những sách ấy và học thêm mấy bộ sử nước Tàu. Còn sự luyện tập hàng
ngày, thì cốt tập cho thạo thuộc các lề lối ở chỗ khoa trường là: kinh nghĩa, tứ
lục, thi phú, văn sách. Ấy là dùng hư văn mà xét tài thực dụng, đem sự hoa mỹ
làm mực thước đo tài kinh luân. Bởi vậy ai hay kinh nghĩa đã nghĩ mình hơn người,
ai tài thi phú đã tưởng mình giỏi nghề trị nước. Việc đời thì tối tăm mờ mịt mà
lại tự phụ và kiêu căng, cho thiên hạ như rơm rác, coi mình như thần thánh.
Sự học của mình đã hư hỏng như thế, những hủ tục lại ăn sâu vào trí não, thành ra
một thứ cố tật không sao chữa được...Đại khái, cái trình độ của bọn sĩ phu ở
nước ta lúc bấy giờ là thế, cho nên vận nước suy đến nơi mà hồn người vẫn mê
muội ở chỗ mơ màng mộng mị. Bọn sĩ phu là người có học, làm tai làm mắt cho mọi người mà còn kém cỏi như thế,
thì bảo dân gian khôn ngoan làm sao được”
Thời vua Minh
Mạng, ông muốn canh tân việc học hành thi cử nhưng lại không biết
tiến hành ra sao bởi triều thần của ông phần nhiều chỉ là những hủ nho lạc hậu, không
giúp đỡ được nhà vua một kế hoạch nào cho quốc phú dân cường, ông nói rằng:
“Lâu nay cái học khoa cử làm
cho người ta sai lầm, Trẫm nghĩ văn chương vốn không có quy củ nhất định, mà
nay những văn cử-nghiệp chỉ câu nệ cái hư sáo khoe khoang lẫn với nhau, biệt
lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó. Khoa tràng lấy hay bỏ
cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi.
Song tập tục đă quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần dần đổi lại”
Văn học
Xem thêm: Văn học Việt Nam thời Pháp thuộc
Cảnh vườn Thư quang trong cuốn Ngự đề
Đồ Hội Thi Tập, tập thơ ngự chế Thần kinh nhị thập cảnh của vua Thiệu Trị.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Thời kỳ nhà Nguyễn, văn học phát triển trong cả Hán văn, lẫn một
cách mạnh mẽ ở chữ Nôm với nhiều thành tựu lớn, trong đó tác phẩm chữ nôm tiêu
biểu nhất là Truyện Kiều và Hoa Tiên. Hai
thể theo được dùng phổ biết ở thời kỳ này là lục bát và lục bát gián cách, sử dụng
một thứ tiếng Việt mới có một trình độ rất cao[100]. Ở miền Nam Việt Nam, thành
hình một lãnh thổ văn chương mới với nhiều nét độc đáo riêng so với các vùng cũ[100]. Về nội dung, ngoài các nội
dung văn chương mang đậm tư tưởng Nho giáo truyền thống thì số phận con người
và phụ nữ cũng được đề cập đến[100].
Khoa học, kỹ thuật
Sử học
Ngay từ cuối thế kỷ XVIII, Sử học là
một trong những ngành khoa học rất phát triển. Sang đầu thế kỷ XIX, dưới thời
nhà Nguyễn, ngành này lại càng phát triển hơn, có thể nói đó là ngành phát
triển nhất thời vương triều Nguyễn. Đặc biệt khi cơ quan phụ trách sử học
là Quốc sử quán ra
đời năm 1820 dưới thời vua Minh
Mạng với nhiệm vụ thu thập các bộ sử xưa, in lại Quốc sử thời
Lê và biên soạn các bộ sử mới. Quốc sử quán phải nói là được tổ chức kỷ cương,
hoạt động một cách đầy hiệu quả. Vương triều Nguyễn đã cho lập các kho tàng lưu
trữ các sáng tác từ cổ chí kim.[101]
Sử học nhà Nguyễn có các thành tựu sau:
2/ Biên soạn nhiều bộ sử khổng lồ và các
công trình sử học có giá trị lớn như: Khâm định Việt sử Thông giám
Cương mục, Đại Nam liệt truyện, Đại Nam Thực lục - Tiền biên và chính biên[102], Khâm
định tiễu bình lưỡng kỳ phỉ khẩu phương lược, Bản triều bạn nghịch
liệt truyện... Các nhà sử học cũng cho ra đời nhiều công trình của cá nhân
như Lịch triều tạp kỷ của Ngô Cao
Lãng, Sử học bị khảo của Đặng Xuân Bản, Quốc
sử dĩ biên của Phan Thúc Trực,... và nhất là Lịch triều hiến chương loại chí của Phan
Huy Chú[103]. Trong
đó, Đại Nam thực lục chính biên có
tới 587 quyển.
3/ Các công trình địa phương chí,
và gia phả các dòng họ cũng xuất hiện rất nhiều.
Việc biên soạn các bộ địa phương chí gần
như thành phong trào: từ các tỉnh lớn cho đến tận các huyện xã cũng có chí.
Trong đó có rất nhiều bộ chí được biên soạn khá công phu với nhiều chi tiết quý
mà các bộ sử lớn không có. Tiêu biểu cho địa phương chí là Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, Nghệ An
kýcủa Bùi Dương Lịch
4/ Ngoài ra còn có các tác phẩm soạn theo
kiểu quy cách nhiều vấn đề khác nhau của lịch sử, nổi bật của thể loại này là
bô Lịch
triều Hiến chương loại chí của ông Phan
Huy Chú[104].
Năm 1942, Giám đốc Nhà lưu trữ Đông Dương Paul Boudet cho
biết rằng các tài liệu trước thế kỷ XIX (thời Nguyễn) chỉ còn lưu lại được
khoảng 20 bản. Từ triều vua Minh Mạng, công tác lưu trữ mới được quan tâm. Cũng
năm 1942, số lượng địa bạ ở Tàng thư lâu giữ được có tới 12.000 quyển.[105]
Địa lý và Lịch sử
Thời Nguyễn cũng là thời có nhiều tác phẩm địa lý học lớn như
bộ Hoàng
Việt Nhất thống dư địa chí do Thượng thư Lê Quang Định soạn theo lời của
vua Gia Long. Sau đó cơ quan Quốc sử quán triều Nguyễn cũng
soạn tiếp nhiều công trình khác gồm Đại Nam nhất thống toàn đồ, Đại Nam nhất thống chí. Ngoài ra, còn có nhiều tác
phẩm có giá trị cao khác ngoài Quốc sử quán như Bắc Thành địa dư chí và Hoàng Việt dư địa chí của Phan
Huy Chú; Phương Đình dư địa chí của Nguyễn Văn Siêu[104]; Đại
Việt cổ kim duyên cách địa chí khảo và Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức; Nam Hà tiệp lục của
Quốc sử quán,...[103] Ngoài
ra thời Minh Mạng cũng xuất hiện rất nhiều bản đồ về các địa phương của
nước Đại Nam thời kỳ đó.
Nhìn chung, theo nhận xét của Dương Quảng Hàm thì tuy có nhiều giá trị
nhưng do vẫn còn thiếu một phương pháp nghiên cứu khoa học tốt nên các tác phẩm
về sử học và địa lý thời kỳ này vẫn có nhiều khuyết điểm. Dù vậy, các triều đại
trước cũng không khá hơn nhà Nguyễn trong việc này.[106]
Kỹ thuật công nghệ
Từ các cuộc nội chiến ở Đại Việt trước, kỹ thuật công nghệ của
phương Tây đã được các vua chúa đem vào Việt Nam rất nhiều đặc biệt trong lĩnh
vực quân sự. Thời nhà Nguyễn vẫn kế thừa những thứ đã du nhập ấy, nhiều công
trình được xây dựng theo kiểu kiến trúc Vauban của phương Tây như thành Bát Quái, kinh thành Huế, thành Hà Nội...Thời Gia Long đã từng cho đóng một loại
thuyền lớn bọc đồng để tuần tra biển[107].
Bài quá dài, phải cắt bớt
Kiến trúc
Nhà Nguyễn là triều đại có nhiều đóng góp trong lịch sử Việt
Nam, đặc biệt là một kho tàng kiến trúc đồ sộ, mà tiêu biểu là quần thể kinh
thành Huế và nhiều công trình quân sự khác[109]
Kinh thành Huế nằm ở bờ Bắc sông Hương với tổng diện tích hơn 500 ha và 3
vòng thành bảo vệ. Kinh thành do vua Gia Long bắt đầu cho xây dựng năm 1805 và
được Minh Mạng tiếp tục hoàn thành năm 1832 theo
kiến trúc của phương Tây kết hợp kiến trúc thành quách phương Đông. Trải qua gần 200 năm khu kinh thành hiện
nay còn hầu như nguyên vẹn với gần 140 công trình xây dựng lớn nhỏ. [109] Kiến
trúc cung đình Huế đã tiếp thu và kế thừa kiến trúc truyền thống thời Lý, Trần,
Lê đồng thời tiếp thu tinh hoa của Mỹ thuật Trung Hoa nhưng
đã được Việt Nam hóa. Huế
cũng đã được hiện đại hóa bởi những công trình sư người
Pháp phục vụ dưới thời vua Gia Long. Khi xây dựng hệ thống thành quách và cung
điện, các nhà kiến trúc dưới sự chỉ đạo của nhà vua đã bố trí trục
chính của công trình theo hướng Tây Bắc- Đông Nam. Yếu tố Ngũ hành quan trọng trong bố cục
mặt bằng của kiến trúc cung thành tương ứng với ngũ phương.[110]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Các phong trào khởi nghĩa chống triều đình
Nhà Nguyễn cũng là triều đại chứng kiến các cuộc nổi dậy của
nông dân cũng như các tầng lớp khác bùng nổ dữ đội, nhất là ở Bắc Hà. Các nhà
sử học tính rằng số lượng các cuộc nổi dậy nửa đầu thế kỷ 19 còn nhiều hơn toàn
thế kỷ 18. Từ năm 1802 cho tới năm 1862, tại Bắc Hà có từ 350 cho tới 400 cuộc
nổi dậy của nông dân nổ ra. Trong số đó có 50 cuộc diễn ra dưới thời Gia Long
từ 1802-1820, 254 cuộc dưới thời Minh Mạng (1820-1840), 58 cuộc dưới thời Thiệu
Trị (1840-1847) và 40 cuộc nổi dậy dưới thời Tự Đức (1847-1862). Dù vậy, trong
số này cũng đã tính luôn cả các vụ nổi dậy liên quan tới vấn đề Công
giáo, các phong trào phù Lê diệt Nguyễn của dân Bắc Hà, các toán
cướp nổi lên hùng cứ địa phương, các toán tàn quân Thái Bình Thiên Quốc vượt biên vào cướp và cả
những vụ bạo loạn như của Lê Duy Phụng do
thực dân Pháp kích động để rảnh tay xâm chiếm Việt Nam.[112]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Các cuộc khởi nghĩa cuối cùng đều bị thất bại, nhưng đã khiến
cho nhà Nguyễn suy yếu, lâm vào tình trạng bất ổn triền miên.[113]
Tại Bắc Kỳ
Ngay từ khi mới cầm quyền, nhà Nguyễn đã gặp phải sự chống đối
hết sức quyết liệt từ nhiều lực lượng xã hội khác nhau. Năm 1803, một số tướng
lĩnh cũ của nhà Tây Sơn do Nguyễn Văn Tuyết cầm đầu đã nổi dậy ở Kinh
Môn, Hải Dương. Sau là cuộc khởi nghĩa của Vũ Đình Lục và Đặng Trần Siêu ở
Sơn Nam (Thượng du Thanh Hoá), liên tục hoạt động cho đến năm 1824. Tiếp theo
là phong trào nông dân ở miền xuôi, vùng đồng bằng Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ:
Nguyễn Đức Khoa, Tổng Thái, Tú Bích ở Kinh Bắc, Trần Lệ Quyên, Đỗ Hoàng Thân ở
Sơn Tây, Nguyễn Thế Chung ở Sơn Nam, Nguyễn Trấn, Lê Hữu Tạo, Ninh Đãng Tạo,
Phan Bô ở Nghệ An.[115]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Tại Nam Kỳ
Tại Nam Kỳ ít xảy ra các cuộc nổi dậy chống triều đình hơn,
nhưng số vụ nổi dậy cũng khá nhiều.
Cuộc Nổi dậy ở Đá Vách đã nổ ra, kéo dài ngay từ
buổi đầu triều đại vua Gia
Long đến suốt hơn nửa thế kỷ.[122]. Ngay từ khi lên ngôi,
vua Gia Long đã ký ban hành các loại thuế đánh vào
lâm thổ sản ở vùng này, làm cho "dân Man quanh năm nộp thuế không
lúc nào rỗi[123], hậu quả là: "dân
phải nhặt củ rau và quả ở núi để ăn cho no bụng" [124]. Các
vua đầu thời Nguyễn còn mắc sai lầm khi cho rằng: Bọn man mọi ngu dại
chưa thấm nhuần phong hóa, cần buộc họ cắt tóc, ăn mặc và sinh hoạt giống như
người miền xuôi.[125] Tất
cả đã làm cho người dân Đá Vách nung nấu căm thù, dẫn đến nhiều cuộc giao chiến
suốt hơn 50 năm, bất chấp mọi biện pháp trấn áp và chia rẽ của triều đình nhà
Nguyễn. Các vụ nổi dậy vào các năm 1803, 1804, 1806, 1807 đã
làm cho quan quân nhà Nguyễn thiệt hại không ít.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Thời
kỳ bị Pháp xâm lăng và đô hộ
Cuộc chiến chống Pháp xâm lăng
Tình trạng của nhà Nguyễn
Do những việc cấm đạo và tàn sát giáo dân của vua Minh
Mạng mà ngay trong năm 1838 đã có sĩ quan Hải quân Fourichon đề
nghị nước Pháp gửi Hải quân tới can thiệp nhưng bị Ngoại trưởng Pháp là Guizot bác bỏ.[128] Dư
luận Pháp thì sôi động vì sự ngược đãi giáo dân của Minh Mạng nên
ủng hộ đề nghị dùng vũ lực. Khi Thiệu
Trị nối ngôi có thái độ mềm mỏng hơn, cho thả một số linh mục
bị bắt và tỏ ý sẽ cho tàu sang Châu Âu mua
bán nhưng sự kiện đụng độ tại Đà Nẵng năm 1847 giữa tàu Pháp và Việt khiến nhà
vua tức giận và ông ra lệnh xử tử ngay tại chỗ tất cả người Âu bắt được tại
Việt Nam.[129]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Phong trào Cần Vương
Năm 1885, phải chủ chiến trong triều đình dậy tấn công quân Pháp đóng ở kinh đô Huế nhưng
thất bại. Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết chạy ra Tân Sở thuộc Quảng Trị, tại
đây Tôn Thất Thuyệt mượn danh nghĩa vua Hàm Nghi phát chiếu Cần Vươngkêu gọi người Việt nổi dậy đánh
Pháp giúp vua. Hưởng ứng lời kêu gọi này, nhiều cuộc nổi dậy đã nổ ra trong đó
tiêu biểu là những cuộc khởi nghĩa ở Ba Đình của Phạm
Bành và Đinh Công Tráng, khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy, khởi nghĩa Hương
Khê của Phan Đình Phùng và Cao
Thắng, khởi nghĩa ở Hưng Hóa do Nguyễn Quang Bích lãnh đạo... Phong trào
vẫn tiếp tục phát triển cả sau thời gian vua Hàm Nghi bị Pháp bắt giữ (năm
1888); nó chỉ thực sự chấm dứt khi lãnh đạo cuộc nổi dậy ở Hương Khê là Phan Đình Phùng chết cuối năm 1895.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Thời Pháp thuộc
Bài chi tiết: Pháp thuộc
Bản đồ Đông Dương năm 1886
Theo các Hòa ước Harmand và Hòa ước Patenôtre thì chính sách ngoại giao, quân sự và tài
chánh do nước Pháp kiểm soát nhưng không có sự hợp nhất giữa 2
quốc gia Đại Nam và Pháp. Nước
Pháp sau khi không mua chuộc được vua Hàm Nghi bèn cho ông đi an trí ở Algérie. Sau
đó anh trai vua là Nguyễn Phúc Ưng Biện kế vị, lấy niên hiệu là Đồng Khánh.[140] Vua Đồng Khánh bị trách là đã lên ngôi trong những
điều kiện quá nhục nhã đối với quốc gia. Bị cô lập và thiếu kinh nghiệm, ông
phải nhượng bộ cho người Pháp để đổi lấy sự giúp đỡ về mặt hành chính và quân
sự. Năm 1887, Liên bang Đông Dươngđược thành lập gồm thuộc
địa Nam Kỳ, 2 xứ bảo hộ Trung
Kỳ và Bắc Kỳ cùng Lào và Cao
Miên đều đặt dưới 1 viên quan Toàn quyền Đông Dương người Pháp. Năm 1888, vua
Đồng Khánh còn phải nhường cho nước Pháp mọi
quyền hành trên 3 thành phố Hà Nội, Hải
Phòng và Đà Nẵng, 3 khu vực này cũng trở thành 3 thuộc địa.[141]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Sụp
đổ
Hoàng Đế Bảo Đại, vị vua cuối cùng của nhà
Nguyễn và thời phong kiến ở Việt Nam
Khi trở về nước năm 1932, Bảo Đại đã mong muốn cải cách xã hội Việt Nam
nhưng phong trào này đã chết yểu bởi sự đối địch với các quan Thượng thư của ông như Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khả, cũng như sự chống đối của giới bảo thủ và
chính phủ bảo hộ Pháp. Nhà vua nản lòng sớm, chuyển sang tiêu khiển bằng bơi
thuyền và săn bắn. Trước thực tế nhà Nguyễn không còn khả năng chống Pháp,
nhiều đảng phái cách mạng được tổ chức để đánh đuổi người Pháp. Việt Nam chi bộ
của hội Á
Tế Á Áp Bức Nhược Tiểu Dân tộc do Nguyễn Ái Quốc thành lập ở Quảng Đông. Năm 1926, Tân Việt Cách mạng Đảnghoạt động ở Hà Tĩnh và Sài Gòn. Năm 1927, Phạm Tuấn Tài, Hoàng Phạm Trân, Nguyễn Thái Học lập ra Việt Nam Quốc dân Đảng. Năm 1928, Tạ Thu Thâu và Nguyễn An Ninh lập Đệ Tứ Quốc tế. Năm 1930, Việt
Nam Cách mạng Đồng Chí Hội đổi ra Đông Dương Cộng sản Đảng.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Di
sản
Văn hóa
Thời kỳ nhà Nguyễn đã để lại nhiều di sản văn hóa cho dân
tộc Việt Nam, một số di sản đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới
như Nhã nhạc cung đình Huế, Quần thể di tích Cố đô Huế hoặc Mộc bản triều Nguyễn. Giáo sư sử học Việt Nam Phan
Huy Lê nhận xét rằng: "Chưa có một thời kỳ lịch sử
nào để lại cho dân tộc ba di sản văn hoá được thế
giới công nhận và tôn vinh với những giá trị mang ý nghĩa toàn
cầu như vậy"[151]}}
Nhà Nguyễn cũng để lại hệ thống thư tịch rất lớn Châu bản triều Nguyễn; hệ thống giáo
dục, hàng ngàn đình, chùa miếu, nhà
thờ... trải dài từ Nam chí Bắc... Nhiều di sản trong số này có thời kỳ dài bị
lãng quên và bị coi như một thứ "tàn dư của phong kiến thối nát".[152]
Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công
nhận là Di sản văn hóa phi vật
thể của nhân loại trong năm 2003.[153]
Quần thể di tích Cố đô Huế
Lăng Khải Định.
Quần thể di tích Cố đô Huế được
UNESCO công nhận là Di sản
Văn hóa Thế giới vào ngày 11 tháng 12 năm 1993. Phần lớn các di tích này
hiện nay thuộc sự quản lý của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô
Huế. Trong lịch sử Việt Nam thời cận đại, công trình
xây dựng Kinh thành Huế có lẽ là công trình đồ
sộ, quy mô nhất với hàng vạn lượt người tham gia thi công, hàng triệu mét
khối đất đá, với một khối lượng công việc khổng lồ như đào hào,
lấp sông, di
dân, dời mộ, đắp thành... kéo dài từ thời điểm tiến hành khảo sát dưới triều
vua Gia Long năm 1803 đến khi hoàn chỉnh triều
vua Minh Mạng vào năm 1832.[154] Phong
cách kiến trúc và cách bố phòng khiến Kinh thành Huế thực sự là một pháo
đài vĩ đại và kiên cố nhất từ trước đến nay ở Việt
Nam mà một thuyền trưởng người
Pháp là Le Rey khi tới Huế năm
1819 phải thốt lên: "Kinh Thành Huế thực sự là pháo đài đẹp nhất,
đăng đối nhất ở Đông Dương, thậm chí so với cả pháo đài William ở Calcutta và
Saint Georges ở Madras do người Anh xây
dựng".[154]
Mộc bản và bảo vật
Mộc bản triều Nguyễn được UNESCO công
nhận là di sản tư liệu thế giới đầu tiên tại Việt
Nam ngày 31 tháng 7 năm 2009. Bộ Mộc bản này gồm 34.618 tấm,
là những văn bản chữ Hán-Nôm được
khắc ngược trên gỗ để in ra các sách tại Việt Nam vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ
20, và hiện đang được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV- Đà Lạt, Lâm
Đồng (xưa và nay vẫn là Biệt điện Trần Lệ Xuân [155] -
Khu Di tích của TP. Đà Lạt).[156]
Con dấu "Hoàng đế tôn thân chi bảo"
bằng ngà (1885) của triều Nguyễn, hiện đang trưng bày trong Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (Thành phố Hồ Chí Minh)
Ngoài những di tích lịch sử như đền đài, dinh thự, thời đại nhà
Nguyễn cũng để lại nhiều bảo vật, là dấu tích của mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 18
và 19, trong đó có nhiều kim ấn, ngọc tỷ truyền quốc, bửu tỷ, bảo kiếm, hàng thủ công nghệ và mỹ thuật. Cuối năm 2010, lần
đầu tiên sau 50 năm được bảo quản tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, những
báu vật này đã được đem ra trưng bày [157]. Riêng
quốc ấn (nặng khoảng 10 kg vàng) và quốc kiếm của vua Bảo Đại, trao lại
cho Trần Huy Liệu, Trưởng đoàn Đại biểu chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào
năm 1945 [158][159] đã
bị mất trộm tại viện bảo tàng Việt Nam và thất lạc [160][161]. Cả ấn
tín của hoàng hậu Nam Phương cũng bị trộm mất[162]
Lệ
bất khả
Trong giới sử học hiện nay hình thành 2 luồng ý kiến khác nhau
về lệ bất khả của nhà Nguyễn. Nguyễn Phan Quang và Trương Hữu Quýnh cho rằng:
để đề cao uy quyền nhà vua và ngăn chặn nạn quyền thần lấn át hoàng đế, vua Gia
Long đã đặt ra lệ Tứ bất: Trong triều không lập Tể tướng, thi đình không lấy Trạng nguyên, trong cung không lập Hoàng
hậu, không phong tước vương cho người ngoài họ vua[40][163].
Lê Nguyễn có ý kiến ngược lại về vấn đề này, tuy nhiên ông chỉ
đề cập tới "tam bất" chứ không phải "tứ bất":
"Trong khi triều Nguyễn
có một Quốc sử quán làm việc thật hiệu quả, đã cho ra đời những bộ sử... lớn
lao, thì không thấy ai viện dẫn một chỉ dụ nào của các vua Nguyễn quy định những
điều bất khả đó..."[164].
Bất khả trạng nguyên
Bài quá dài, phải cắt bớt
Bất khả hoàng hậu
Bài quá dài, phải cắt bớt
Bất khả tể tướng
Bài quá dài, phải cắt bớt
Nhận
định
Về vấn đề tổ chức hành chính
Nhà Nguyễn là vương triều đã hoàn thành việc chấm dứt chia cắt,
phân chia Đàng
Trong, Đàng Ngoài dù rằng phong trào Tây Sơn là những
người đầu tiên thực hiện quá trình này (thậm chí cuối thời Tây Sơn cũng đang có
nguy cơ phân liệt).[Ghi chú
1] Triều Nguyễn từ Gia
Long đến Minh
Mạng đều lo củng cố vương quyền đồng thời củng cố chủ quyền dân
tộc, chống mọi sự vi phạm, xâm phạm từ bên ngoài và bên trong, kể cả bằng những
biện pháp như trấn áp quyết liệt Công
giáo thời kỳ Minh Mạng và Tự Đức.[Ghi chú
2]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Vấn đề cải cách
Theo Nguyễn Quang Trung Tiến (Trường Đại học Khoa học Huế), đối
với những đề xướng cải cách, thái độ của nhà Nguyễn là tiếp nhận các điều trần
chứ không quay lưng. Vua Tự Đức và triều thần dường như đã đọc không bỏ sót một
bản điều trần nào của các nhà cải cách gửi về Huế;... đồng thời đã tổ chức thực
hiện việc cải cách ở một số lĩnh vực. Tuy nhiên, nhà Nguyễn đã thất bại trong
việc cải cách, những công việc tiến hành chưa nhiều và không đồng bộ, không thể
tạo ra một cuộc cải cách thực sự như "Minh Trị duy tân" ở Nhật
Bản, để rồi dang dở bất thành[175]. Những
nguyên nhân cơ bản là:
Bài quá dài, phải cắt bớt
Quan điểm đánh giá
Bài quá dài, phải cắt bớt
Nguyên nhân mất nước vào tay Pháp
Người dân Bắc Kỳ (Tonkinese) sụp lạy các binh
sĩ Pháp năm 1884. Tranh vẽ trong cuốn La guerre du Tonkin(phát hành
tại Paris, 1887) của L. Huard
Có những ý kiến khác nhau về trách nhiệm của các vua nhà Nguyễn
đối với việc Việt Nam mất vào tay người Pháp.
Sự trì trệ của đất nước và việc mất lòng dân
Trong Việt Sử tân biên, Phạm Văn Sơn cho
rằng Việt Nam mất vào tay thực dân Pháp là một tất yếu lịch sử, hoặc ít ra cũng
do trình độ dân trí Việt Nam quá thấp kém so với người Pháp.[183][Ghi chú 3]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Việc Gia Long từng cầu viện Pháp
Bài quá dài, phải cắt bớt
Thái độ của vua quan nhà Nguyễn
Sự lạc hậu của nước Việt thời nhà Nguyễn là một nguyên nhân mất
nước vào tay Pháp. Tuy nhiên, nguyên nhân này không phải là duy nhất, một
nguyên nhân khác được phân tích tỉ mỉ là thái độ bạc nhược, chỉ mong cắt đất
cầu hòa của vua quan nhà Nguyễn thời Tự Đức.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Các
vua nhà Nguyễn
Xem thêm: Danh sách hoàng đế nhà Nguyễn
Trong 143 năm tồn tại kể từ khi thành lập năm 1802 đến khi sụp đổ 1945,
nhà Nguyễn có 13 vị vua cai trị thuộc 7 thế hệ. Tính theo Đế hệ thi của Minh Mạng thì
dòng họ nhà Nguyễn chỉ truyền đến chữ thứ 5 (Vĩnh) hết dòng thơ thứ
nhất, tương đương với thế hệ thứ 5 kể từ các con Minh Mạng.
No comments:
Post a Comment