Cách nay 34 năm Tàu đỏ đã đánh CSVN ở Lão sơn thuộc khu vực Hà giang
Ngày 28
tháng 04, 1984
·
1984 – Bắt đầu trận
Lão Sơn giữa Quân Giải phóng Nhân dân Trung
Quốc và Quân đội Nhân dân Việt Nam ở khu vực biên giới Văn Sơn-Hà
Giang.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xung_%C4%91%E1%BB%99t_Vi%E1%BB%87t%E2%80%93Trung_1979%E2%80%931990#Năm_1984:_Xâm_lấn_biên_giới_ở_Vị_Xuyên
Xung đột Việt–Trung 1979–1990
A Chinese officer reports to his command after
a battle against Vietnamese forces on 14 October 1986
Xung đột Việt Nam – Trung Quốc 1979–1990 là một chuỗi các cuộc đụng độ trên biên
giới và hải đảo giữa hai nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, diễn
ra ngay sau cuộc chiến tranh năm 1979 và kéo dài cho đến năm 1990.
Khi Quân Giải phóng Nhân dân
Trung Quốc rút
khỏi Việt Nam tháng 3 năm 1979 sau cuộc chiến tranh biên giới, Trung Quốc tuyên
bố họ không tham vọng dù "chỉ một tấc đất lãnh thổ Việt Nam". Trên thực tế, quân Trung Quốc lấn chiếm
khoảng 60 km2 lãnh
thổ tranh chấp mà Việt Nam kiểm soát trước khi chiến sự nổ ra.
Tại một số nơi như khu vực quanh Hữu Nghị
Quan gần Lạng Sơn, quân Trung Quốc chiếm đóng các mảnh đất
không có giá trị quân sự nhưng có giá trị biểu tượng quan trọng.
Quan lâu Hữu
Nghị Quan
Khẩu ngạn Hữu
Nghị Quan
Lạng
Sơn
Tại các nơi khác, quân Trung Quốc chiếm giữ các vị trí chiến
lược quân sự làm bàn đạp để từ đó có thể tiến đánh Việt Nam.
Việc Trung Quốc chiếm đóng các lãnh thổ biên giới làm cho Việt
Nam căm giận, và giữa hai phía nổ ra một loạt trận giao tranh nhằm giành quyền
kiểm soát các khu vực đó.
Xung đột biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn tiếp diễn cho
đến năm 1988, đỉnh
điểm là các năm 1984-1985.
Tới năm 1990, cùng với việc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và
Liên Xô sụp đổ, giao tranh chấm dứt và quan hệ giữa hai nước dần trở lại bình
thường.
Với việc ký Hiệp định phân mốc lãnh thổ năm 2009, Trung Quốc dần
thực hiện việc rút quân khỏi các vị trí đã chiếm đóng của Việt Nam trong thời
gian trước.
Bối cảnh
Kể từ năm 1979, có ít nhất sáu đợt giao tranh lớn diễn ra tại
một số điểm trên biên giới Việt-Trung, là các đợt tháng 6 và tháng 10 năm 1980,
tháng 5 năm 1981, tháng 4 năm 1983, tháng 4 năm 1984, tháng 6 năm 1985 và đợt
từ tháng 10 năm 1986 đến tháng 1 năm 1987.
Tất cả các cuộc giao tranh trên đều do Trung Quốc khiêu khích
hay gây hấn trước, nhằm phục vụ cho các mục tiêu chính trị của họ.
Nguy cơ thường trực của một cuộc xâm lăng mới từ nước láng giềng
phía bắc buộc Việt Nam phải huy động một lực lượng cực lớn cho việc phòng thủ.
Trong thập niên 1980, ước tính phía Việt Nam có khoảng 600.000–800.000 quân chính quy và bán vũ trang hiện diện
tại khu vực biên giới, đối chọi với khoảng 200.000–400.000 quân Trung Quốc.
Mặt trận Vị Xuyên là mặt trận diễn ra các cuộc chạm trán ác liệt
nhất. Tại mặt trận này có gồm nhiều đơn vị quân của cả hai phía luân phiên tham
chiến.
Theo thống kê chưa đầy đủ, 7 sư đoàn (313, 314, 325, 328, 354,
356 và 411) và 1 trung đoàn (Trung đoàn 266 Sư đoàn 341) của Việt Nam đã từng
tham chiến tại mặt trận này trong khoảng giữa những năm 1980.
Về phía Trung Quốc, các lực lượng bao gồm nhiều quân đoàn thuộc
7 đại quân khu cũng được luân chuyển qua mặt trận này để "vuốt đuôi
hổ", tức huấn luyện trận mạc, theo chủ trương của Đặng Tiểu Bình.
Đặng Tiểu Bình
năm 1979
Từ năm 1984 đến năm 1989, ít nhất 14 quân đoàn Trung Quốc đã
thay nhau tham chiến tại khu vực này (bao gồm các Quân đoàn 1, 12, 13, 14, 16,
20, 23, 26, 27, 38, 41, 42, 47 và 67).
Bên cạnh sử dụng quân chính quy, Trung Quốc còn trang bị và huấn
luyện các nhóm vũ trang người thiểu số (đặc biệt là người H'Mông) chống lại chính phủ Việt Nam và Lào.
Từ năm 1985 trở đi, sự hỗ trợ của Trung Quốc đối với các lực
lượng này mới giảm dần, khi chính phủ Lào khởi động tiến trình bình thường hóa
quan hệ với Trung Quốc.
Năm 1980: Pháo kích
Cao Bằng
Từ đầu năm 1980, Việt Nam tiến hành các chiến dịch tấn công mùa
khô quy mô nhỏ nhằm càn quét các lực lượng Khmer Đỏ còn nằm rải rác trên biên giới Campuchia -
Thái Lan.
Đảng kỳ được
sử dụng từ những năm 1950, sau này có một số thay đổi
Đảng kỳ đầu
tiên (1951 - 1975).
Để gây sức ép lên Việt Nam nhằm buộc Việt Nam phải rút quân từ
Campuchia về, Trung Quốc tăng áp lực lên khu vực biên giới bằng cách triển khai
nhiều quân đoàn đối diện với biên giới Việt Nam. Trung Quốc cũng tiến hành huấn
luyện quân sự cho khoảng 5.000 quân thuộc các lực lượng người H'Mông chống đối
Lào tại tỉnh Vân Nam và sử dụng lực lượng này đánh phá khu vực Muong Sing ở tây
bắc Lào gần biên giới Trung Quốc.
Tuy nhiên Việt Nam cũng đã tăng cường lực lượng đồn trú tại biên
giới, và Trung Quốc không còn có được ưu thế áp đảo về quân số như khi họ tiến
hành chiến dịch tháng 2 năm 1979.
Tháng 6 năm 1980, Quân đội Nhân dân Việt Nam vượt biên giới Thái Lan trong khi truy kích
quân Khmer Đỏ tháo chạy. Dù quân Việt Nam nhanh chóng rút khỏi lãnh
thổ Thái Lan sau đó, thì việc này cũng khiến Trung Quốc cảm thấy họ phải hành
động để ứng cứu đồng minh Thái Lan và Khmer Đỏ. Trong các ngày từ 28 tháng 6
cho tới 6 tháng 7, bên cạnh lớn tiếng chỉ trích Việt Nam trên mặt ngoại giao,
quân Trung Quốc liên tục bắn pháo vào lãnh thổ Việt Nam tại tỉnh Cao Bằng.
Đụng độ ở quy mô nhỏ cũng diễn ra trong thời gian sau đó, với
bảy vụ việc xảy ra chỉ riêng trong nửa đầu tháng 10. Trung Quốc tố cáo Việt Nam
đã thực hiện nhiều đợt tập kích qua biên giới nhằm vào các vị trí của quân
Trung Quốc ở khu vực La Gia Bình, huyện Mã Quan, tỉnh
Vân Nam trong các ngày 30 tháng 9 và 1 tháng 10, giết chết ít nhất 5 người Trung
Quốc.
Mã Quan (tiếng Trung: 马关县 Mǎguān Xiàn) là huyện Tây Nam của châu tự trị dân tộc Choang, Miêu Văn Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.
Phía Trung Quốc sau đó đã đáp trả bằng một cuộc tấn công vào các
vị trí của Việt Nam trên cùng khu vực này vào ngày 15 tháng 10, và tuyên bố đã
tiêu diệt 42 lính Việt Nam trong đợt công kích này.
Các cuộc bắn phá của Trung Quốc không nhằm vào một mục tiêu quân
sự chiến lược nào cả, không có ảnh hưởng lớn lên Việt Nam và chỉ mang tính
tượng trưng. Việt Nam cảm thấy việc tiến hành các hoạt động quân sự quy mô lớn
trên biên giới nằm ngoài khả năng của Trung Quốc, nên Việt Nam có thể rảnh tay
tiến hành các hoạt động quân sự tại Campuchia. Tuy nhiên, các cuộc nã pháo của
Trung Quốc cũng định hình kiểu xung đột trên biên giới với Việt Nam trong suốt
10 năm sắp tới.
Năm 1981: Tấn công các cao điểm ở Lạng Sơn và Hà Giang
Vị trí giao tranh tại Cao điểm 400, Lạng Sơn,
tháng 5 năm 1981
Ngày 2 tháng 1 năm 1981, Bộ Ngoại giao Việt Nam đề nghị ngưng
bắn để đón năm mới. Đề nghị này bị phía Trung Quốc bác bỏ ngày 20 tháng 1. Tuy vậy, hai phía vẫn tiến hành trao đổi tù
binh. Tình hình mặt trận tương đối yên tĩnh trong mấy tháng tiếp theo.
Tới tháng 5, giao tranh ác liệt đột ngột bùng lên với việc quân
Trung Quốc ở cấp trung đoàn tiến công đánh chiếm một dải đất hẹp ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn được phía Việt Nam gọi là Cao điểm 400, còn
Trung Quốc gọi là Pháp Tạp Sơn (法卡山 hay
Fakashan).
Trên địa bàn tỉnh Hà Tuyên, Trung
Quốc tấn công và đánh chiếm một điểm cao chiến lược khác mang số hiệu 1688 vốn
được Trung Quốc gọi là Khấu Lâm Sơn (扣林山 hay
Koulinshan) và một số vị trí lân cận.
Tỉnh Hà Tuyên
trên bản đồ hành chính Việt Nam năm 1976
Hai trận đánh mở màn lần lượt vào các ngày 5 và 7 tháng 5; riêng
trận tại Cao điểm 400 kéo dài sang tới ngày 7 tháng 6 với một chuỗi các đợt
phản công của phía Việt Nam nhằm giành lại ngọn đồi này. Để biện minh cho các hoạt động quân sự này,
Trung Quốc tuyên bố họ tấn công để đáp trả các hành vi gây hấn của Việt Nam
trong thời gian quý 1 năm đó.
Để trả đũa, bộ binh Việt Nam đột kích vào Trung Quốc ở hướng
tỉnh Quảng Tây trong các ngày 5 và 6 tháng 5. Một đại đội
quân Việt Nam cũng đánh vào khu vực hợp tác xã Mãnh Động, huyện Malipo, tỉnh Vân Nam.
Quảng Tây (Tiếng Tráng: Gvangjsih;
chính tả kiểu cũ: Gvaŋзsiƅ; chữ Hán giản thể: 广西; chữ Hán phồn thể: 廣西; bính âm: Guǎngxī), tên đầy đủ Khu tự trị
dân tộc Choang
Vân
Nam tỉnh
Trung Quốc tuyên bố đã đánh lui năm đợt tấn công xuất phát từ
Việt Nam và tiêu hao hàng trăm quân Việt Nam tấn công vào Quảng Tây. Tới ngày
22 tháng 5, họ lại tuyên bố tiêu diệt 85 quân Việt Nam đánh vào khu vực Khấu
Lâm thuộc tỉnh Vân Nam.
Tổng cộng Trung Quốc tuyên bố đã tiêu diệt khoảng 300 quân Việt
Nam trong các cuộc giao chiến qua lại trên biên giới. Con số này không bao gồm thương vong trong
các trận đánh tại Pháp Tạp Sơn và Khấu Lâm Sơn, mà theo phía Trung Quốc ghi
nhận đã có tổng cộng hơn 1.700 binh sĩ Việt Nam chết hoặc bị thương.
Dù chiến cuộc bùng phát dữ dội, Trung Quốc thực sự không muốn
leo thang và chỉ dùng các lực lượng biên phòng chứ
không huy động quân chủ lực cho các trận đánh. Các quan sát viên phương Tây
nhận định: "Dù tình hình căng thẳng tại biên giới gia tăng, khó có khả
năng diễn ra một 'bài học' của Trung Quốc cho Việt Nam. Cái giá sẽ phải trả
bằng nhân mạng, tiền của và uy tín chính trị (của Trung Quốc) là quá đắt, đặc
biệt là khi Việt Nam đã tăng cường lực lượng quân chính quy tại biên giới và
giành được ưu thế rõ rệt về trang thiết bị".
Các nhà phân tích khác chỉ ra rằng mùa mưa sắp tới, và việc
Trung Quốc mới cắt giảm ngân sách quốc phòng không cho phép họ tiến hành một cuộc
xâm lược quy mô lớn.]
Trung Quốc xâm lấn
biên giới ở Vị Xuyên 1984 - 1989
Từ tháng 4/1984 đến 5/1989, Trung Quốc lần lượt đưa hơn 50 vạn
quân của 8 trong 10 đại quân khu tiến công toàn diện biên giới Hà Giang, tập
trung là huyện Vị Xuyên với mục đích lấn chiếm đường biên giới tới phía Bắc
suối Thanh Thủy.
Mặt trận Vị Xuyên - Thanh Thuỷ được xác định là vùng
chiến sự ác liệt nhất trong cuộc chiến tranh chống lấn chiếm biên giới phía Bắc
1984-1989. Phía Việt Nam, 9 sư đoàn chủ lực cùng nhiều trung đoàn, tiểu đoàn bộ
đội Việt Nam trực tiếp tham chiến.
Từ ngày 2 đến ngày 27 tháng 4 năm 1984, để hỗ trợ cho các lực
lượng phiến quân tại Campuchia, Trung Quốc tiến hành đợt pháo kích lớn nhất
nhằm vào khu vực biên giới Việt Nam kể từ sau năm 1979, với 60.000 quả đạn pháo
bắn vào 16 huyện thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên và Hoàng Liên Sơn.
Tỉnh Hoàng
Liên Sơn trên bản đồ hành chính Việt Nam năm 1976
Phối hợp với cuộc pháo kích này là hàng loạt đợt tấn công bộ
binh ở cấp tiểu đoàn vào các vị trí của Việt Nam trong ngày 6 tháng 4. Cuộc tấn
công lớn nhất diễn ra tại huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, với nhiều tiểu đoàn quân
Trung Quốc đánh vào các cao điểm 820 và 636 gần đường tiến quân năm 1979 tại Hữu Nghị
Quan. Dù lực lượng hùng hậu, nhưng tới ngày hôm sau, các đợt tấn
công của họ đều bị đánh lui hoặc phải bỏ các vị trí đã chiếm được. Các tài liệu Trung Quốc sau này công bố
rằng các đợt tấn công bộ binh này chủ yếu mang ý nghĩa nghi binh, và có quy mô
nhỏ hơn nhiều so với mô tả của nguồn tin phương Tây.
Tại Hà Tuyên, trong tháng 4 đến tháng 7 năm 1984,
quân Trung Quốc đánh vào dải đồi thuộc huyện Vị Xuyên, mà Trung Quốc gọi là Lão
Sơn (老山 hay Laoshan), gần cột mốc biên giới số 13.
Lão Sơn thực ra là một dãy đồi chạy từ tây sang đông, từ ngọn đồi ở bình độ
1800 ở phía tây tới đồi bình độ 1200 ở phía đông. Ngọn đồi 1200 này phía Trung
Quốc gọi là Đông Sơn (东山 hay Dongshan) hoặc với
tên gọi khác là Giả Âm Sơn (者阴山 hay
Zheyinshan), và đây cũng là ngọn đồi duy nhất nơi chiến sự xảy ra ở phía đông sông Lô. Tất
cả các cuộc giao tranh khác tại Vị Xuyên đều diễn ra ở phía tây của sông Lô
chảy vào Việt Nam.
Sông Lô,
đoạn chảy qua Phú Thọ
Trung Quốc mở màn cuộc tấn công lúc 5 giờ sáng ngày 28 tháng 4
năm 1984 sau một đợt pháo kích ác liệt. Sư đoàn 40 thuộc Quân đoàn 14 của Trung
Quốc vượt biên giới theo bờ tây sông Lô, còn Sư đoàn 49 (có lẽ thuộc Quân đoàn
16 từ Quân khu Nam Kinh), tấn công và đánh chiếm Cao điểm 1200. Lực lượng phòng ngự Việt Nam bao gồm bộ
binh từ Sư đoàn 313 và khẩu đội pháo binh từ Lữ đoàn pháo binh 168 đành rút lui
khỏi các ngọn đồi này.
Quân Trung Quốc chiếm được ấp Na La và các cao điểm 226, 685 và
468, tạo nên một vùng lồi kéo dài khoảng
2,5 km hướng về phía Việt Nam. Vị trí này được bảo vệ bởi vách đá dựng
đứng có rừng bao phủ và dòng suối Thanh Thủy ở phía nam, chỉ có thể tiếp cận
được bằng cách băng qua khoảng đất trống thung lũng sông Lô ở phía đông, và như
vậy rất thuận lợi cho phòng ngự.
Tuy nhiên tại các nơi khác, chiến sự diễn ra giằng co từ ngày 28
tháng 4 cho tới 15 tháng 5, và các cao điểm 1509 (tức Núi Đất, Trung Quốc gọi
là Lão Sơn), 772,
233, 1200 (tức Giả Âm Sơn) và 1030 liên tục đổi chủ. Từ ngày 15 tháng 5, chiến
sự tạm dừng sau khi phía Trung Quốc bước đầu kiểm soát được các ngọn đồi này;
đến ngày 12 tháng 6 và sau đó là 12 tháng 7, giao tranh lại bùng lên khi quân
Việt Nam tổ chức phản công tái chiếm các vị trí đã mất. Sau đó chiến sự dừng hẳn, chỉ có các cuộc
chạm trán hoặc đọ pháo lẻ tẻ.
Theo tin tình báo Hoa Kỳ, Việt Nam không thành công
trong nỗ lực tái chiếm 8 mỏm núi. Kết quả, quân Trung Quốc chiếm được một số
ngọn đồi thuộc dải đồi này, gồm 29 điểm trong lãnh thổ Việt Nam. Trong số các
vị trí mà quân Trung Quốc chiếm được có các cao điểm 1509, 772 ở phía tây sông
Lô và các cao điểm 1250 (Núi Bạc), 1030
và đỉnh Si Cà Lá ở phía đông sông Lô. Chiến sự diễn ra dọc tuyến biên giới dài
khoảng 11 km, và nơi quân Trung Quốc chiếm được sâu nhất trong lãnh thổ
Việt Nam là các cao điểm 685 vầ 468, nằm cách biên giới khoảng 2 km. Giao tranh kéo dài dai dẳng, nhưng không có
nơi nào quân Trung Quốc tiến sâu được hơn vào lãnh thổ Việt Nam quá 5 km,
dù quân đông hơn nhiều. Hai bên vẫn tiếp tục giành giật các cao
điểm này trong một loạt các đợt xung đột khác diễn ra cho đến sau năm
1986.
Để phòng ngự các khu vực chiếm được, Trung Quốc duy trì hai quân
đoàn tại khu vực Vị Xuyên, bao gồm bốn sư đoàn bộ binh, hai sư đoàn pháo binh
và vài trung đoàn xe tăng. Sư đoàn pháo binh Trung Quốc bố trí tại khu vực này
gồm pháo 130 mm và bích kích pháo (lựu pháo)
152 mm, cũng như hỏa tiễn 40 nòng. Các trung đoàn bộ binh có pháo
85 mm và súng cối loại 100-D. Trong một số trận đụng độ, Trung Quốc đưa cả
xe tăng vào giao chiến.
Theo công bố chính thức của Việt Nam vào tháng 6, họ đã tiêu
diệt một trung đoàn và 8 tiểu đoàn quân Trung Quốc, "loại khỏi vòng chiến
đấu" 5.500 quân Trung Quốc. Tới tháng 8, Việt Nam tuyên bố nâng tổng số
quân Trung Quốc bị loại ra khỏi vòng chiến đấu lên đến 7.500 quân trong vòng 4
tháng. Đổi lại, Trung Quốc tuyên bố loại khỏi vòng
chiến khoảng 2.000 quân Việt Nam, còn về phía mình Trung Quốc có 939 lính và 64
dân công chết trong vòng 5 tuần của chiến dịch tiến công Lão Sơn. Phía Việt Nam xác nhận trong các trận đánh
ngày 12 tháng 7, Sư đoàn 356 của họ đã có gần 600 binh sĩ thiệt mạng. Ngoài ra còn có 820 binh sĩ Việt Nam khác
bị thương trong đợt xung đột này.
Năm 1986-1987:
"Chiến tranh giả"
Nếu như trong năm 1985, Trung Quốc bắn khoảng 800.000 phát đạn
pháo vào Vị Xuyên, trong tổng số khoảng 1 triệu phát đạn pháo trên toàn biên
giới, thì số vụ bắn phá trong năm 1986 cho tới đầu năm 1987 giảm hẳn, chỉ còn
chừng vài chục ngàn viên đạn pháo một tháng. Đây có lẽ là kết quả của việc Liên
Xô, mà cụ thể là Tổng bí thư Gorbachev kêu gọi bình thường hóa quan hệ Việt Nam -
Trung Quốc trong bài diễn văn tại Vladivostok.
Mikhail
Gorbachev vào năm 2010
Vladivostok (phiên âm tiếng Việt: Vla-đi-vô-xtốc; tiếng Nga: Владивосто́к (giúp đỡ·thông tin) ) là trung tâm hành chính của Primorsky Krai, Nga, tọa lạc gần biên giới
Nga - Trung Quốc và Bắc Triều Tiên.
Hải cảng Vladivostok
Tới tháng 10 năm 1986, Trung Quốc cũng thành công trong việc
thuyết phục Liên Xô tiến hành đàm phán về vấn đề Campuchia trong vòng đàm phán
thứ 9 giữa Liên Xô và Trung Quốc.
Tuy nhiên, giữa lúc các tín hiệu ngoại giao đang có xu thế trở
nên tích cực, thì tình hình biên giới đột nhiên trở lại căng thẳng.
Ngày 14 tháng 10 năm 1986, Việt Nam tố cáo Trung Quốc bắn 35.000
phát đạn pháo vào Vị Xuyên, và có những hành động lấn chiếm lãnh thổ. Việt Nam
cho biết đã đẩy lui ba đợt tấn công của quân Trung Quốc tại Cao điểm 1100 và
cầu Thanh Thủy. Đây có thể là phản ứng của Trung Quốc trước việc Liên Xô từ
chối gây sức ép đòi Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia, hoặc để đáp lại các hoạt động quân sự mùa
khô mà Việt Nam đang chuẩn bị tại Campuchia. Trong tháng 1 năm 1987, Việt Nam
cho biết Trung Quốc tăng cường bắn phá và đưa quân xâm lấn lãnh thổ. Quân Trung
Quốc đã bắn hàng chục ngàn phát đạn pháo (60.000 phát pháo riêng trong ngày 8
tháng 1) và mở 15 đợt tấn công với lực lượng tham gia cỡ sư đoàn đánh vào các
vị trí quân Việt Nam tại các mỏm 233, 685, 1100 và 1509. Phía Việt Nam cho biết
đã gây 1.500 thương vong vào quân Trung Quốc. Ngược lại, Trung Quốc cũng tuyên
bố đã gây 500 thương vong vào quân Việt Nam, và cho rằng tuyên bố của Việt Nam
là phóng đại. Trung Quốc cho biết tổng số thương vong của họ thấp hơn 500. Ngày 5 tháng 10 năm 1987, một máy bay chiến
đấu MiG-21 của Không quân Nhân dân Việt Nam bị phía Trung Quốc bắn rơi trên vùng trời
huyện Long Châu, tỉnh Quảng Tây.
Theo Carlyle A. Thayer nhận định, giao tranh lần này chỉ mang
tính một cuộc "chiến tranh giả". Dù chiến sự diễn ra kịch liệt tại Vị Xuyên,
tình hình tại các tỉnh biên giới khác của Việt Nam khá yên tĩnh, và quân Trung
Quốc không huy động các đơn vị quân chủ lực trong suốt thời gian xung đột bùng
nổ. Tương quan quân sự của hai nước tại vùng biên giới không thay đổi trong
thời gian này.
Năm 1988: Hải chiến
Trường Sa
Hải chiến Trường Sa 1988 là tên gọi của cuộc chiến trên biển
Đông năm 1988 khi Hải quân Quân Giải phóng
Nhân dân Trung Quốc đưa
quân chiếm đóng một số đảo, đảo chìm, bãi ngầm thuộc quần đảo Trường Sa và Hải
quân Nhân dân Việt Nam đưa quân ra bảo vệ, đánh trả và cuộc chiến nổ ra vào
ngày 14 tháng 3 năm 1988. Kết quả thắng lợi thuộc về Trung Quốc, phía Việt Nam
mất 3 tàu vận tải hải quân, 64 thủy thủ Việt Nam đã hy sinh và quan trọng hơn
cả là kể từ đó Trung Quốc đã chiếm đóng thêm một số lãnh thổ mà Việt Nam luôn
cho là chủ quyền của mình. Trong các tài liệu của Hải quân Nhân dân Việt Nam, sự
kiện này được biết đến với tên gọi CQ-88 (Chủ quyền-88).
64 Liệt
sĩ hy sinh ở Trường Sa 14-3-1988 là bởi quân đội nước nào giết hại?
Tướng
Vĩnh: Lê Đức Anh 'phản quốc' trong trận Gạc Ma
[video] https://www.youtube.com/watch?v=84lNFfQrCVU&t=78s[/video]
Kết quả
Kể từ tháng 4 năm 1987, quân Trung Quốc giảm quy mô các hoạt
động quân sự tại Việt Nam, dù quân của họ tiếp tục tuần tra tại Lão Sơn và Giả
Âm Sơn. Từ tháng 4 năm 1987 tới tháng 10 năm 1989 họ chỉ tiến hành 11 cuộc tấn
công, chủ yếu là pháo kích. Tới năm 1992, Trung Quốc chính thức hoàn tất việc
rút quân khỏi Lão Sơn và Giả Âm Sơn.
Hàng vạn người thuộc cả hai phía thương vong trong cuộc chiến.
Tại nghĩa trang quân đội Vị Xuyên ở tỉnh Hà Giang, có hơn 1.600 nấm mộ liệt sĩ
Việt Nam hy sinh trong suốt các giai đoạn cuộc chiến cho tới tận năm 1990. Trong hơn 5 năm chiến đấu, Việt Nam tổn
thất khoảng 4.000 chiến sĩ hy sinh (hơn 2.000 chưa tìm được hài cốt), hơn 9.000
cán bộ chiến sĩ bị thương. Tổn thất của Trung Quốc hiện chưa được nước
này công bố, trong khi Việt Nam ước tính họ gây thương vong cho khoảng 15.000
lính Trung Quốc.
Trung Quốc dần thực hiện việc rút quân khỏi các vị trí đã chiếm
đóng của Việt Nam trong thời gian trước. Từ năm 1989, Trung Quốc rút khỏi một
số điểm ở phía bắc suối Thanh Thủy. Ngày 13 tháng 3 năm 1989, họ rút khỏi 20 vị
trí và đến tháng 9 năm 1989, họ rút khỏi 9 điểm còn lại. Tại Cao điểm 1509 mà
Trung Quốc gọi là Lão Sơn (lưu ý có 2 cao điểm cùng tên là 1509, 1 mỏm thuộc
Việt Nam và 1 thuộc Trung Quốc theo Hiệp ước Pháp - Thanh), họ
cho tiến hành xây cất công sự bê tông tại các vị trí thuộc phần lãnh thổ của
mình sau khi chiến sự kết thúc, chỉ để lại các công sự đất tại phần thuộc Việt
Nam, được trao trả theo hiệp định biên giới năm 2009 giữa hai nước.
No comments:
Post a Comment