Cách nay đúng 49 năm, Mỹ chuyển hướng chiến tranh ở Việt-Nam bằng chương trình
“Viêt-Nam hoá chiến tranh”
Ngày 03
tháng 04, 1969
·
1969 – Chiến tranh Việt Nam: Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ
Melvin Laird thông báo Hoa Kỳ sẽ bắt đầu nỗ lực "Việt Nam hóa chiến tranh".
Việt Nam hóa chiến tranh
Việt Nam hóa chiến tranh hay Đông
Dương hóa chiến tranh là
chiến lược của Chính phủ Hoa Kỳ dưới
thời Tổng thống Richard
Nixon trong Chiến tranh Việt Nam, được bắt đầu từ năm 1968, áp
dụng toàn diện trên toàn Đông Dương từ ngày 8 tháng 6 1969 nhằm
từng bước chuyển trách nhiệm tiến hành chiến tranh cho chính quyền và quân lực Việt Nam Cộng hòa để Mỹ có thể rút dần quân về nước nhưng vẫn giữ
được miền Nam Việt Nam, và cả bán đảo Đông Dương trong
tầm ảnh hưởng của Mỹ.
Hoàn cảnh ra đời
Ngày 14 tháng 10 năm 1966, Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara,
người chịu trách nhiệm chính cho cuộc chiến chống cộng sản tại Nam Việt Nam, đã
thừa nhận thất bại của mình.
Chỉ hơn một năm trước khi ông chính thức từ chức Bộ trưởng, ông
đã gửi một báo cáo dài đến Tổng thống Lyndon Johnson, khéo léo thừa nhận rằng
ông và Lầu Năm Góc không có chiến lược nào để kết thúc chiến tranh theo hướng
có lợi cho chính quyền Sài Gòn.
Ra đời do thất bại trong chiến tranh cục bộ, đặc
biệt sau tết Mậu Thân, dân Mỹ thúc ép chính phủ sớm chấm dứt chiến tranh đưa
quân Mỹ về nước.
Thất bại này đã tác động sâu sắc đến tình hình chính trị nước
Mỹ, tổng thống Nixon trong ngày nhậm chức Tổng thống Mỹ (20-1-1969)
đã phải phát biểu:
"Nước Mỹ đang có khủng hoảng về tinh thần, mắc kẹt trong
chiến tranh, cấu xé và chia rẽ nội bộ. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã gây ra căng
thẳng gay gắt với nước Mỹ không riêng về mặt kinh tế, quân sự mà cả xã hội cũng
như chính trị. Sự bất đồng cay đắng đã xé rách cơ cấu đời sống tinh thần nước
Mỹ và bất kể kết quả chiến tranh như thế nào, vết xé rách vẫn còn lâu mới
lành".
Để cứu vãn tình hình bi đát của Mỹ ở Việt Nam, Tổng thống Nixon
sau nửa năm cầm quyền đã đề ra "Học thuyết Nixon"
và chiến lược quân sự toàn
cầu "Răn đe thực tế" thay thế cho chiến lược "Phản ứng linh
hoạt" thời Lyndon
Johnson. Việt Nam hóa chiến tranh là một điểm quan trọng trong chiến lược này.
Laird - Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ coi Việt Nam hóa chiến tranh là
"Học thuyết Nixon trong hành động", là "biện pháp kết
thúc sự tham gia của Mỹ, bước mở đầu tăng cường lực lượng đồng minh ở châu Á",
Việt Nam hóa nghĩa là chuyển dần trách nhiệm cho người Việt.
Nixon đánh giá: "Chính
sách này thỏa mãn được mục tiêu của chúng ta (Mỹ) là giảm bớt sự dính líu của
Mỹ".
Nguồn gốc tên gọi Việt Nam hóa chiến tranh cũng khá phức tạp.
Vào khoảng tháng 3 năm 1971, lúc tổng thống Nixon mới đắc cử, tướng Andrew Goodpaster lúc đó là phụ tá của tướng Abrams (tướng
Abrams là tổng tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam) có tham dự một buổi
thuyết trình của Hội đồng An Ninh Hoa Kỳ.
Trong buổi thuyết trình, tướng Goodpaster loan báo rằng Quân lực
Việt Nam Cộng hòa bây giờ đã đủ mạnh, đến độ Hoa Kỳ có thể "Phi Mỹ hóa"
(De-Americanization) cuộc chiến tại Việt Nam.
Ban đầu Nixon và các cố vấn chấp nhận danh từ này. Nhưng sau đó
một số cố vấn, trong đó có bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Melvin Laird, kiến
nghị cái tên này sẽ gây ra rắc rối chính trị và ngoại giao, do nó sẽ gián tiếp
khẳng định Mỹ đã can thiệp vào Việt Nam, gây thêm sự bất bình cho người dân Mỹ
và sẽ tạo cơ hội tuyên truyền cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam.
Bộ trưởng Laird đề nghị chỉ nên dùng một danh từ nào đó gián
tiếp có ý nghĩa là Hoa Kỳ sẽ rút chân khỏi Việt Nam, nhưng tránh không đả động
gì tới Mỹ.
U.S.
Secretary of Defense
Do đó cái tên mới "nhẹ nhàng" hơn là "Việt Nam
hóa chiến tranh" (Vietnamization) được chấp nhận.
Tương tự như chiến lược Da vàng hóa chiến tranh mà quân Pháp áp dụng trong Chiến tranh Đông Dương, Việt Nam hóa chiến tranh có
đường lối chiến lược cơ bản là hỗ trợ tăng cường sức mạnh của quân đội bản xứ
(cụ thể là quân đội Việt Nam Cộng hoà) để giảm sức ép và thay thế dần cho quân
đội ngoại quốc. Tuy vậy, Việt Nam hóa chiến tranh là bước phát triển cao hơn,
phối hợp cả ba mũi hoạt động: Quân sự - bình định với hoạt động ngoại giao để
vừa tiêu diệt, vừa cô lập đối phương trên trường quốc tế.
Theo quan điểm của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam, cũng như Da vàng hóa chiến tranh, chiến lược này thực chất là "Lấy chiến
tranh nuôi chiến
tranh, dùng người Việt đánh người Việt", dùng
chiêu bài "quốc gia giả hiệu" để bù đắp những tổn thất của lực lượng
xâm lược, khắc phục những mâu thuẫn gay gắt giữa tổn hao to lớn của chiến tranh
với khả năng có hạn của lực lượng xâm lược và phong trào chống chiến tranh ở
chính quốc.
Có sở tay lên gáy không?
Nội dung
Việt Nam hóa chiến tranh thực hiện song song với rút quân đội Mỹ, thương lượng ở Paris (Pháp), chia
rẽ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam với các
nước xã hội chủ nghĩa, là một chiến lược nhằm giành thắng lợi với giá chấp nhận
được.
Ngày 18 tháng 2 năm 1970, Nixon công bố nội dung chính sách Việt
Nam hóa chiến tranh là một chương trình 3 giai đoạn:
·
Giai đoạn 1: Từng bước chuyển giao nhiệm vụ chiến đấu trên bộ
cho quân đội Sài Gòn, rút dần
quân chiến đấu trên bộ của Mỹ ra khỏi Nam Việt Nam.
·
Giai đoạn 2: Chuyển giao nhiệm vụ trên không cho quân lực Việt Nam Cộng hòa, trang
bị cho quân lực Việt Nam Cộng hòa đủ sức đương đầu với lực lượng quân Giải phóng, giữ vững
được Nam Việt
Nam và Đông Dương trong
vòng ảnh hưởng của Mỹ hay nói cách khác là trong quỹ đạo của Mỹ và
không rơi vào tay cộng sản.
không rơi vào tay cộng sản.
Huy Hiệu của QLVNCH
·
Giai đoạn 3: Hoàn tất những mục tiêu của Việt Nam hóa chiến
tranh. Củng cố kết quả đã đạt được, quân Giải phóng sẽ suy yếu đến mức không thể
tiếp tục chiến đấu và chiến tranh sẽ kết thúc, 2 miền Việt Nam sẽ trở thành 2
quốc gia riêng biệt.
Trong ba giai đoạn đó, theo Mỹ, giai đoạn 1 (dự kiến thực hiện
từ năm 1969 đến giữa năm 1972) là giai đoạn quan trọng nhất được chia làm ba
bước để thực hiện:
·
Bước 1 (từ năm 1969 đến giữa năm 1970): Bình định một số vùng
đông dân quan trọng. Xóa bỏ hoàn toàn các cơ sở cách mạng ở vùng quân Giải
phóng kiểm soát. Rút một số đơn vị chiến đấu của Mỹ ra khỏi chiến trường Việt
Nam. Khống chế và đẩy lùi quân Giải phóng, làm cho quân Giải phóng không hoạt động
được ở quy mô từ đại đội trở lên.
·
Bước 2 (từ giữa những năm 1970 đến giữa năm 1971): Bình định được
tất cả các vùng đông dân quan trọng. Làm cho quân Giải phóng bị phân tán nhỏ,
không hoạt động được từ cấp đại đội trở lên ở những vùng căn cứ. Hoàn thành kế
hoạch hiện đại hóa quân lực Việt Nam Cộng hòa, rút
phần lớn quân Mỹ về nước.
·
Bước 3 (từ giữa năm 1971 đến giữa năm 1972): Cơ bản bình định
xong cả miền Nam. Lực lượng vũ trang quân Giải phóng không
còn hoạt động được ở các vùng căn cứ trên biên giới Lào, Campuchia, quân lực Việt Nam Cộng hòa đủ sức đương đầu với khối chủ lực Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam.
Trung Ương cục Miền
Nam tại Campuchia
Rút hết lực lượng chiến
đấu trên bộ của Mỹ về nước, chỉ duy trì cố vấn quân sự và sĩ quan chỉ huy tác
chiến.
Thực hiện kế hoạch chiến lược trên, Mỹ đề ra năm biện pháp cụ
thể:
·
Xây dựng quân lực Việt Nam Cộng hòa thành một lực lượng mạnh, hiện đại, đủ sức
đương đầu với lực lượng vũ trang quân Giải phóng.
·
Củng cố chính quyền các cấp của Việt Nam Cộng hòa, tăng cường viện
trợ kinh tế.
·
Tập trung sức hoàn thành chương trình bình định, phản kích ra
ngoài lãnh thổ miền Nam Việt Nam (sang Lào và Campuchia).
·
Chặn đứng các nguồn tiếp tế chi viện cho quân Giải phóng miền
Nam, xúc tiến hoạt động ngoại giao để kiềm chế, cô lập, đẩy lùi cuộc đấu tranh
của nhân dân Việt Nam.
Triển khai
Tăng cường
trang bị cho quân đội Sài Gòn
Việt Nam hóa chiến tranh thực chất không phải là sự rút lui chịu
thua để tìm một lối thoát gọn ghẽ cho Mỹ mà là tìm mọi cách giành giật để kết
thúc chiến tranh trên thế mạnh.
[color=red]Nói cách khác, với chiến lược mới này, Mỹ không hề từ
bỏ các mục tiêu theo Mỹ là ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam còn theo
người cộng sản là thực dân mới, mà thực hiện nó trong điều kiện buộc phải
rút dần quân viễn chinh Mỹ ra khỏi miền Nam, giảm dần chi phí chiến tranh mà
theo dự tính của Mỹ sẽ chỉ còn ở mức thấp nhất, khoảng 5 tỉ đôla/năm
thay vì 30 tỉ đôla/năm trong chiến tranh cục bộ. [/color]
Với mức chi phí này, theo tính toán của chính quyền Nixon, ngân
sách Chính phủ liên bang có thể chịu được, nhân dân Mỹ có thể chấp nhận và quên
đi lời hứa của Nixon khi tranh cử tổng thống là "sẽ chấm dứt chiến tranh Việt
Nam trong sáu tháng sau ngày lên cầm quyền", ổn định được tình hình
chính trị nội bộ nước Mỹ.
Thực hiện kế hoạch của chiến lược "Việt Nam hóa chiến
tranh", Mỹ gấp rút củng cố và phát triển quân đội Việt Nam Cộng hòa có
đủ sức đảm nhận toàn bộ trách nhiệm về an ninh của Việt Nam Cộng hòa để thay
thế dần cho quân viễn chinh Mỹ, cũng như làm lực lượng nòng cốt cho
"Khơ-me hóa", "Lào hóa" chiến tranh của Mỹ; đồng thời đẩy
mạnh chương trình bình định, mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào.
Việc phát triển quân đội Việt Nam Cộng hòa, Mỹ và Việt Nam Cộng hòa dự kiến
cứ mỗi năm tăng từ 50.000 đến 100.000 quân cho đến khi quân đội này đạt
1.100.000 vào cuối năm 1971. Trong kế hoạch này, Mỹ chú trọng phát triển cả ba
quân chủng Hải, Lục, Không quân, nhưng ưu tiên củng cố và phát triển Lục quân.
Nếu năm 1969, Lục
quân Việt Nam Cộng hòa chia thành bốn loại lực lượng xung kích, lực lượng chống
xâm nhập; lực lượng bảo vệ đô thị; lực lượng yểm trợ xây dựng nông thôn thì từ
năm 1970 trở đi, lực lượng này được tổ chức thành
hai loại:
1. "Lực lượng lưu động" làm nhiệm vụ thường xuyên đánh
phá căn cứ, hệ thống tiếp vận của quân Giải phóng, đẩy lùi, ngăn chặn chủ lực
quân Giải phóng trở lại hoạt động trong nội địa.
2. "Lực lượng lãnh thổ" làm nhiệm vụ bảo đảm an ninh
nội địa, bình định nông thôn.
Các sư đoàn chủ lực bộ binh được bổ sung quân số, hoàn thiện
biên chế: một sư đoàn có 12 tiểu đoàn, một trung đoàn có 4 tiểu đoàn.
Các đơn vị biệt kích được cải tổ thành các tiểu đoàn biệt
động quân biên phòng (37 tiểu đoàn). Hỏa lực yểm trợ cho Lục quân cũng được
tăng cường. Trong 3 năm, lục quân Việt Nam Cộng hòa trang bị tăng lên 1.300
khẩu pháo và 10.000 súng cối các loại, 700.000 súng M16 - loại súng trường hiện đại nhất của quân
Mỹ lúc bấy giờ, 30.000 súng phóng lựu, 10.000 đại liên các loại. Tăng-thiết giáp từ 1.037 chiếc
năm 1968 lên 1.879 chiếc năm 1972. Mỹ rất quan tâm xây dựng khối bộ binh cơ
động, dù, thủy quân Lục chiến. Khối bộ binh cơ động năm 1968 mới có 50 tiểu
đoàn, đến cuối năm 1970 tăng lên 90 tiểu đoàn.
Với sự phát triển Lục quân như trên, đến tháng 6 năm 1970, theo
Mỹ, quân Việt Nam Cộng hòa có thể đảm nhiệm hầu hết nhiệm vụ chiến đấu trên bộ.
Ngày 1 tháng 7 năm 1970, bộ tư lệnh Lục quân Việt Nam Cộng hòa
chính thức được thành lập.
Cùng với Lục quân, Hải quân cũng được phát triển. Cuối năm 1971,
đầu năm 1972 lực lượng đã lên đến gần 50.000 quân, với 1.600 tàu các loại hoạt
động trên biển và trên sông.
Không quân Việt Nam Cộng hòa được củng cố và kiện toàn, quân số tăng
nhanh từ 35.000 năm 1968 lên hơn 50.000 năm 1971. Với lực lượng đã được tăng
cường, năm 1970, không quân Việt Nam Cộng hòa được tổ chức lại thành 6 sư đoàn,
1 phi đoàn liên lạc, 1 phi đoàn vận tải, 5 phi đoàn trực thăng, 3 phi đoàn khu
trục, tổng cộng gần 1.500 máy bay các loại.
Nhìn chung sau 3 năm thực hiện kế hoạch "phát triển và hiện
đại hóa quân đội", Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã thu được kết quả
đáng kể.
Quân số Việt Nam Cộng hòa tăng nhanh, vũ khí trang bị được hiện
đại hóa với tỷ lệ khá cao (vũ khí đạt 98,7%, quân xa cơ giới đạt 100%, thiết
giáp, chiến xa đạt 99,5%, vô tuyến điện các loại đạt 75%), cơ cấu, tổ chức được
củng cố thêm một bước.
Từ năm 1968 đến năm 1972, quân số Việt Nam Cộng hòa tổng cộng
tăng 28%, từ 820 ngàn lên 1,05 triệu quân.
Trong đó, Không quân tăng quân số tới 163%, Hải quân tăng 110%,
Lục quân tăng gần 8% quân số.
Bình định
nông thôn
Trong "Việt Nam hóa chiến tranh", Nixon coi bình định là "trận cuối cùng, ai
thắng trận này sẽ thắng cuộc chiến tranh". Theo Mỹ và chính quyền Sài Gòn
thì bình định, dồn dân vào các ấp Tân sinh đời mới là biện pháp chiến lược
quyết định sự tồn vong của chế độ Sài Gòn và sự
thành, bại của Việt Nam hóa chiến tranh.
Cho nên, Mỹ chia bình định làm nhiều giai đoạn để thực hiện:
Bình định cấp tốc từ tháng 11 năm 1968 đến tháng 6 năm 1969; bình định phát
triển nông thôn từ tháng 7 năm 1969 đến tháng 6 năm 1970; bình định đặc biệt
(7-1970 đến 2-1971) rồi chương trình "cộng đồng tự vệ" và "phát
triển nông thôn" (3-1971 đến 3-1972).
Biện pháp cơ bản hàng đầu để thực hiện bình định là tăng cường
mở rộng và đẩy mạnh quy mô, mật độ hành quân càn quét. Từ năm 1969, các cuộc
hành quân càn quét của quân đội Mỹ-Việt Nam Cộng hòa tăng lên một cách đột ngột
so với các năm trước đó, nhất là chiến trường Nam Bộ. Năm 1968 có 2.192 cuộc hành quân càn quét, năm 1969 tăng lên
4.344 cuộc, song chỉ riêng 10 tháng đầu năm 1970 đã có tới 745 cuộc hành quân
từ cấp tiểu đoàn trở lên. Nếu tính cả hoạt động dưới cấp tiểu đoàn, thì năm
1969 có 10.980 cuộc, năm 1970 tăng lên 23.783 cuộc hành quân càn quét.
Cùng với tăng cường và đẩy mạnh hành quân càn quét, Mỹ còn sử
dụng chiến dịch Phượng Hoàng do phân cục tình báo CIA Mỹ ở Sài Gòn lập
ra từ cuối năm 1967 dưới danh nghĩa là Văn phòng phụ tá đặc biệt (OSA) để hỗ
trợ cho chương trình bình định. Từ năm 1969, tổ chức này phát triển nhanh với
quy mô to lớn và sâu rộng từ trung ương đến địa phương với phương thức hoạt
động đa dạng như sử dụng các tổ chức tình báo, cảnh sát chìm kết hợp khai thác
những đối tượng đầu hàng, đầu thú, điều tra phân loại hạ tầng cơ sở cộng sản.
Trên cơ sở đó phát hiện cán bộ cộng sản nằm vùng hoặc những người dân có cảm
tình với cộng sản để bắt giam và tiêu diệt.
Theo đánh giá của chính quyền Sài Gòn, từ năm 1969 đến giữa năm
1970 là thời kỳ bình định đạt kết quả tốt nhất. Nhưng từ tháng 6 năm 1970,
chương trình bình định bắt đầu bị chặn lại. Cuối năm 1971, theo báo cáo, chính
quyền Sài Gòn đã kiểm soát được 7.194 ấp, chiếm 4,4% tổng số ấp loại A và B
(loại ấp có an ninh vững), song theo đánh giá của Thompson, cố vấn bình định
của Nixon sau khi đi kiểm tra 117 xã ở miền Nam thì: "An ninh bấp bênh, 70% số xã
có cộng sản tồn tại. Nếu không giải quyết ngăn chặn thì ngày nào đó cộng sản sẽ
lật đổ chế độ".
Ngoại giao
quốc tế
Trong bối cảnh Liên Xô-Trung Quốc đang có mâu thuẫn gay gắt, Hoa
Kỳ tích cực dùng các biện pháp ngoại giao để đào sâu chia rẽ, nhằm khiến 2 nước
này chấm dứt viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Các nhà lãnh đạo quan trọng của chính phủ và giới học thuật Mỹ
lập luận ủng hộ cái mà họ cho là một chính sách thực tế hơn là chấp nhận hợp
tác với chính phủ Trung Quốc.
Ngày 26-6 năm 1969, Tổng thống Mỹ quyết định thay đổi một vài
điều kiểm soát mậu dịch đối với
nước Trung Hoa của Mao Trạch Đông. Ngay sau đó, Nixon cũng đề
nghị Tổng thống Pakistan Agha Muhammad Yahya Khan và lãnh tụ România Ceaucescu chuyển cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa biết ý muốn nối lại Ngoại giao của mình.
Ngày 27 tháng 4/1971, Đại sứ Pakistan chuyển cho Henry Kissinger
một thông điệp của Chu cho biết "Chính phủ Trung Quốc xác nhận lại sự sẵn
sàng đón tiếp công khai ở Bắc Kinh một phái viên đặc biệt của Tổng thống Mỹ
hoặc Ngoại trưởng hoặc thậm chí bản thân Tổng thống Mỹ".
Một vấn đề quan trọng 2 bên cần bàn thảo là về cuộc chiến tại
Việt Nam. Washington hy vọng giành được sự giúp đỡ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa để sớm chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam một cách thuận lợi, cho phép Hoa Kỳ
"luồn lách trong danh dự" ra khỏi Việt Nam. Theo tính toán, Tổng
thống Mỹ phải cố gắng thuyết phục Mao-Chu ép Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận một giải pháp nhanh chóng cho
cuộc chiến.
Kết quả quan trọng của Mỹ là bản Thông cáo Thượng Hải. Những
nội dung cơ bản liên quan tới Việt Nam là:
1. Trung Quốc cam kết không can thiệp quân sự vào Đông Dương;
đổi lại, Hoa Kỳ cam kết cùng Trung Quốc phối hợp chống "bá quyền"
Liên Xô.
2. Trung Quốc chấp nhận kiềm chế Việt Nam, không tiếp tục viện
trợ hay ủng hộ sự thống nhất của Việt Nam; đổi lại, Hoa Kỳ giảm dần đi đến
triệt thoái các căn cứ quân sự và quân đội Hoa Kỳ ở Đài Loan.
3. Trung Quốc đồng ý công nhận Việt Nam Cộng hoà; không ủng hộ các hành động
quân sự của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam; không chấp nhận thành lập chính phủ liên hiệp ở miền Nam sau
khi có hiệp định hòa bình; đổi lại, Hoa Kỳ ủng hộ Trung Quốc giữ ghế Thành viên
cố định tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp
Quốc thay
thế Đài Loan (Trung Hoa Dân quốc).
Sau khi bản thông cáo được chấp thuận, Trung Quốc đã ngừng cung
cấp viện trợ mới cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kể từ sau 1972.
Phía Liên Xô do không muốn đẩy cao căng thẳng với Trung Quốc,
đồng thời đang trong quá trình đàm phán với Hoa Kỳ về vấn đề hạn chế vũ khí hạt
nhân chiến lược giai đoạn 1 (SALT I).
Do đó từ cuối năm 1971, người Nga đã giảm bớt cung cấp vũ khí
hạng nặng cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đạn tên lửa SA-2 giảm từ 45 cơ số/năm xuống 12 cơ số/năm.
Phụ tùng MiG-21 từ 50
đơn vị/năm xuống còn 20 đơn vị/năm. Các loại vũ khí mới hơn như: Xe tăng T-62, tên
lửa SA-3, máy bay MiG-23... không được viện trợ cho Việt Nam, dù những vũ khí này đã
không còn mới mẻ và đã được Liên Xô viện trợ cho khối Ả Rập Tổng hợp lại, lượng viện trợ mà Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa nhận được từ sau 1972 đã giảm 60% so với trước.
Suy yếu và phá sản
Đối sách của
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
nam
Trước tình hình mới, tháng 1 năm 1969, Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp bàn biện pháp tháo gỡ khó khăn. Bộ
Chính trị nhận định: "Lợi
dụng lúc ta có khó khăn địch tập trung lực lượng phản kích quyết liệt trên
nhiều hướng làm cho lực lượng vũ trang, chính trị của ta bị tiêu hao, vùng giải
phóng bị thu hẹp. Tuy vậy, địch không mạnh mà là hành động điên cuồng trong thế
thua, vì thất bại, suy yếu buộc phải xuống thang chiến tranh, nhưng lại muốn
xuống thang trên thế mạnh, thế chủ động là một mâu thuẫn vốn có trong chiến
lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ".
Cắt bớt vì bài quá dài
Trên mặt trận
ngoại giao
Theo tác giả Hà Minh Hồng trong bài viết Năm 1972 trong lịch sử Kháng chiến
chống Mỹ cứu nước thì mưu đồ
của Mỹ trong chính sách ngoại giao nước lớn là: Buộc Trung Quốc cắt giảm viện trợ cho Việt Nam (tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam), hòng ngăn chặn cuộc chiến
tranh cách mạng của nhân dân ta (tức Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam) ở miền Nam.
Cắt bớt vì bài quá dài
Như vậy dù Hoa Kỳ giành được nhiều kết quả trên mặt trận ngoại
giao, nhưng hiệu quả thu được không như mong đợi. Cả Liên Xô và Trung Quốc đều
không có ảnh hưởng nhiều tới Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam như Hoa
Kỳ nghĩ. Cho dù có bị các đồng minh cắt viện trợ hay gây sức ép, Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa-Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam vẫn
quyết tâm tiếp tục chiến tranh cho tới thắng lợi cuối cùng.
Trên mặt trận
quân sự
Để tiếp tục thực hiện các mục tiêu của Việt Nam hóa chiến tranh,
trước mắt Mỹ phải củng cố tình hình ở Campuchia không xấu thêm và giằng co đất
ở Lào. Để đạt được mục tiêu trên, Mỹ cho rằng phải cắt đứt được hoàn toàn tuyến
vận tải chiến lược làm cho các lực lượng chiến đấu của quân Giải phóng ở chiến
trường không còn nguồn chi viện về người và vật chất kỹ thuật. Lúc đó quân Giải phóng miền Nam sẽ tan rã, Việt Nam hóa chiến tranh sẽ
thành công.
Một trong những trọng điểm mà Mỹ nhằm vào là khu vực Đường 9 -
Nam Lào. Vì vậy, Mỹ sử dụng một lực lượng lớn mở cuộc hành quân lớn mang tên chiến dịch Lam Sơn 719 đánh vào khu vực này, huy động 30 ngàn quân
Việt Nam Cộng hòa được yểm trợ hỏa lực bởi hàng trăm trực thăng, phi cơ và hơn
10 ngàn quân Mỹ.
Bản đồ kế hoạch
Lam Sơn 719.
Cùng với cuộc hành quân Lam Sơn 719, Mỹ còn mở cuộc hành quân
"Toàn thắng 1-1971" đánh sang vùng đông bắc Campuchia và cuộc hành
quân "Quang Trung 4" đánh ra Vùng 3 biên giới tại tỉnh Kon Tum.
Cùng một lúc mở 3 cuộc hành quân tại 3 địa điểm trên tuyến hành
lang chiến lược Bắc - Nam, mục tiêu của Mỹ là phân tán lực lượng chủ lực quân
Giải phóng để tập trung đánh sang Nam Lào; đồng thời thực hiện chia cắt
"kép" tuyến hành lang chiến lược ở điểm Sê Pôn, A-tô-pơ, Mỏ Vẹt -
Lưỡi Câu, trọng điểm là Sê Pôn.
Tuy nhiên thông tin về cuộc hành quân Lam Sơn 719 đã bị đoán
biết ngay từ đầu. Nhờ chủ động chuẩn bị trước một bước về lực lượng và vật chất
nên ngay sau khi cuộc hành quân mở màn (30-1-1971), Bộ Chính trị Đảng Lao động
đã chỉ thị cho Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng:
"Nhất
thiết phải đánh thắng trận này vì đây là một trong những trận có ý nghĩa chiến
lược, thắng trận này, không những ta giữ được tuyến vận tải chiến lược, tiêu
diệt được một bộ phận quan trọng quân chủ lực địch, làm thất bại cố gắng cao
nhất trong quá trình thực hiện "Việt Nam hóa chiến tranh", tạo chuyển
biến căn bản có tính chiến lược cho phong trào cách mạng ba nước Đông
Dương".
Kết quả, quân lực Việt Nam Cộng hòa bị sa vào thế trận mà Quân Giải phóng miền
Nam Việt Nam bố trí sẵn và bị thiệt hại nặng.
Đến ngày 23-3 năm 1971, toàn bộ bị đánh bật trở về biên giới. Số
phương tiện bị mất cũng rất lớn, 118 trực thăng bị bắn rơi và hơn 550 chiếc bị
bắn hỏng, 1.138 xe quân sự (có 528 xe tăng và xe bọc thép), 112 khẩu pháo và súng cối cỡ lớn bị mất.
Việc các đơn vị tinh nhuệ nhất của quân đội Việt Nam Cộng hòa
thất bại nhanh chóng ở Nam Lào đã báo hiệu sự thất bại trong nỗ lực hiện đại
hóa quân đội này để thay thế cho quân viễn chinh Mỹ.
Cùng với đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Lào, trên hướng
Campuchia, cuộc hành quân "Toàn thắng 1-1971" cũng bị đánh bại. Sau
thất bại của cuộc hành quân "Toàn thắng 1-1971", quân lực Việt Nam Cộng hòa tập trung lực lượng cố giữ cho được Snun hòng
duy trì bàn đạp tiến công lấn chiếm vùng căn cứ quân Giải phóng, hạn chế mọi
hoạt động của lực lượng vũ trang quân Giải phóng trong mùa mưa năm 1971. Tuy
nhiên, sau khi liên tục bị công kích, trưa 30 tháng 5 năm 1971, quân Việt Nam
Cộng hòa cũng phải bỏ Snun theo đường 13 về Việt Nam. Khu căn cứ ở Mỏ Vẹt - Lưỡi Câu của quân Giải phóng được củng cố
vững chắc.
Cuộc hành quân Quang Trung 4 trên địa bàn Tây Nguyên bắt đầu từ
ngày 27 tháng 2 năm 1971. Song vừa ra quân đã bị tổn thất nặng, quân lực Việt Nam Cộng hòa phải rút khỏi Ngọc Tô Ba về phòng ngự trên
tuyến Plây-cu - Đắc Mót - Tân Cảnh. Quân đoàn 2 Việt Nam Cộng hòa vội mở cuộc
hành quân "Quang Trung 6" nhằm giải toả khu vực này. Liên tục từ ngày
1 đến ngày 16 tháng 4 năm 1971, 20 tiểu đoàn thuộc các Sư đoàn 22, 23, liên
đoàn 2 biệt động quân, lữ đoàn 2 dù ra phản kích song không chiếm lại được vị
trí đã mất, ngược lại còn bị diệt thêm 3 tiểu đoàn, 9 tiểu đoàn khác bị đánh
thiệt hại nặng.
Cắt bớt vì bài quá dài
Từ cuối năm 1971, quân Việt Nam Cộng hòa đã bị đẩy về thế phòng
ngự bị động, quân Giải phóng chuyển sang thế chủ động tấn công. Một loạt chiến
dịch thất bại cho thấy quân Việt Nam Cộng hòa dù được tăng cường trang bị hiện
đại nhưng vẫn không đương đầu được với chủ lực quân Giải phóng, lực lượng trụ
cột thực hiện chiến lược Việt Nam hóa đã không thực hiện được nhiệm vụ đề ra.
Trên mặt trận
chống bình định
Theo nhận định của Bộ Chính trị năm 1971, quân Việt Nam Cộng hòa
tập trung lực lượng đánh sang Lào và Campuchia, ở trong nước, quân chủ lực còn
lại mỏng và sơ hở. Đây là điều kiện thuận lợi để phá chương trình bình định. Bộ
Chính trị đã điện cho Trung ương Cục miền Nam, Quân ủy Miền và các khu ủy
miền Nam "đẩy mạnh tiến
công và nổi dậy, đập tan kế hoạch bình định của địch".
Cắt bớt vì bài quá dài
Về "Việt Nam hoá chiến tranh", Bộ Quốc phòng Mỹ nhận xét, "Mục
tiêu của Mỹ nhằm tăng cường các lực lượng quân sự Việt Nam Cộng hòa và khả năng
đẩy lùi kẻ địch thông qua chương trình Việt Nam hoá, cuối cùng đã bị thất bại,
vì quân đội Việt Nam Cộng hòa ngày càng phụ thuộc vào viện trợ quân sự và giúp
đỡ kỹ thuật của Mỹ"; "Những
cố gắng ban đầu của chính phủ Việt Nam Cộng hòa nhằm định ra chương trình bình
định và phát triển nông thôn đã thất bại, vì đó là những chương trình đầu đuôi
lẫn lộn được vạch ra một cách vụng về"[9]
Thất bại
Quá trình sụp đổ của chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh được
thể hiện của việc Quân lực Việt Nam Cộng hòa thất bại trong Chiến dịch Lam Sơn 719. Trong chiến dịch này, Quân
lực Việt Nam Cộng hòa không những không đạt được những mục tiêu đã đề ra mà còn
bị thất bại năng nề. Điểm yếu về tình thần và khả năng tác chiến của Quân lực
Việt Nam Cộng hòa đã được bộc lộ hết qua kết quả trận đánh. Bất chấp được trang
bị vượt trội về số lượng và chất lượng vũ khí, quân số đông hơn nhưng quân lực
Việt Nam Cộng hòa vẫn bị đánh bại.
Sau khi giành lại thế chủ động chiến lược, Quân Giải phóng miền
Nam Việt Nam tập trung lực lượng rồi tung ra đòn tổng tấn công năm 1972, huy
động 14 sư đoàn và 26 trung đoàn độc lập. Do đã bảo vệ được hành lang Đường mòn Hồ Chí Minh, lượng hàng tiếp tế tăng, nên
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam lần đầu tiên đã được cung cấp những trang bị
hạng nặng như xe tăng và pháo xe kéo. Phương thức tác chiến cũng
thay đổi, từ bộ binh vận động chiến như trước kia chuyển sang hiệp đồng binh
chủng quy mô lớn.
Đường mòn HCM
Cắt bớt vì bài quá dài
Kết thúc chiến cục năm năm 1972, quân Giải phóng kiểm soát thêm
10% lãnh thổ miền Nam, một thành công khiêm tốn về quân sự. Nhưng kết quả chính
trị, ngoại giao lại rất khả quan: dư luận Hoa Kỳ trở nên quá mệt mỏi, đòi chấm
dứt mọi dính líu đến Việt Nam.
Hiệp định Paris được ký kết, trong đó điều khoản quan trọng nhất là quân Mỹ rút hết khỏi miền Nam, trong khi Quân đội Nhân dân Việt Nam được phép ở lại các vị trí tại miền Nam, điều mà Hoa Kỳ trước đó từ chối ký kết.
Những thất bại về quân sự đã khiến thế thượng phong trên bàn đàm
phán chuyển từ phái đoàn Hoa Kỳ sang phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-Chính
phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Phía Hoa Kỳ ký
kết Hiệp Định Paris
Phái đoàn quân
sự Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia cuộc họp đầu tiên của Ủy ban liên hiệp
quân sự 4 bên tại Trại Davis - Tân Sơn Nhất ngày 2 tháng 2 năm 1973
Nhượng bộ này được chính phủ Mỹ chấp nhận bất chấp việc chính
quyền Sài Gòn ra sức phản đối, có thể coi là dấu chấm hết cho các mục tiêu Việt
Nam hóa chiến tranh. Mỹ đã tìm được lối thoát danh dự khỏi Việt Nam. Do trách
nhiệm với đồng minh Việt Nam Cộng hòa, Mỹ vẫn duy trì viện trợ và cố vấn quân
sự, song sự tồn vong của chính phủ này chủ yếu là do khả năng của họ tự quyết
định, bởi Mỹ sẽ không cử quân viễn chinh sang tham chiến nữa. Tuy nhiên, đây
vẫn là những điều bị coi là vi phạm Hiệp định khi Hiệp định nghiêm cấm cung cấp
vũ khí nước ngoài vào miền Nam Việt Nam.
Việt Nam sau đó
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, ngay trong đêm 27 rạng sáng
28/01/1973, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã tổ chức chiến dịch Tràn ngập lãnh
thổ nhằm lấn đất, chiếm dân của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam. Tới giữa tháng 10/1973, sau khi có nhiều nỗ lực chính trị không đạt
được thành công trong việc yêu cầu chính quyền Nguyễn Văn Thiệu thực thi nghiêm
chỉnh Hiệp định Paris, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
chuyển hướng sang phản kích. Tình hình chiến sự rơi vào trạng thái giằng
co trong năm 1974 nhưng cho tới cuối năm 1974 mới có những trận đánh lớn xảy
ra. Tới tháng 7/1974, để phản kích trước việc Hiệp định liên tục bị vi phạm tại
khu vực Quảng Nam - Đà Nẵng, Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam tiến
hành tấn công và kiểm soát toàn bộ căn cứ Thượng Đức của Quân lực Việt Nam Cộng
hòa. Tới tháng 12/1974, với lý do buộc phải có
hành động vũ trang để buộc chính quyền Nguyễn Văn Thiệu thực thi Hiệp định, Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam tiến
hành Chiến dịch Đường 14 - Phước
Long. Chiến dịch này đã giúp QGP đánh giá tương
quan lực lượng hai bên và cho thấy Mỹ sẽ không can thiệp trở lại vào Việt Nam.
Tới năm 1975, với những nhận định từ cuối năm 1974, Chính phủ
Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 với mục đích ban đầu là tạo điều kiện để
thành lập Chính phủ liên hiệp ba thành phần ở miền Nam nhưng tới cuối chiến
dịch, mục tiêu chuyển sang là buộc chính quyền Sài Gòn đầu hàng vô điều kiện để
tránh thương vong và cũng do không còn tin tưởng vào thái độ của chính quyền
Sài Gòn.
Phía Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa cũng nhanh
chóng chấp nhận đầu hàng để loại bỏ khả năng các cường quốc can thiệp vào quá
trình tái thống nhất của Việt Nam..
Tới tháng 4/1976, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành Tổng tuyển cử năm 1976 trên
phạm vi cả nước để tiến hành thống nhất hai miền.
Đánh giá
Theo Ngoại trưởng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam, sau này là Phó Chủ tịch nước của nước Việt Nam thống nhất cho
rằng:
“
|
"Nói về cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước vừa qua, mọi
người đều hiểu đó là cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam từ Nam chí Bắc chống
sự xâm lược của Mỹ, để giải phóng dân tộc, giành độc lập và thống nhất đất nước.
Cũng có người cho rằng cuộc chiến tranh có yếu tố nội chiến là do chính sách
"Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ đã đẩy một số người Việt Nam chống
lại nhân dân của mình".
|
”
|
https://www.youtube.com/watch?v=9ojZ9y3pwQ8&list=PLVdUDj5QwzYbIaxPqk0p8bMa2miDY7CgQ
No comments:
Post a Comment