Cách nay 32 năm, nhà máy điện nguyên tử của Liên Xô ở Chernobyl
bị nổ
Ngày 26
tháng 04, 1986
·
1986 – Một trong các lò phản ứng của nhà máy điện hạt nhân tại Chernobyl, Ukraina, Liên Xô phát
nổ (hình), gây nên thảm hoạ hạt nhân nghiêm trọng nhất trong lịch
sử.
Thảm họa Chernobyl
Thảm họa Chernobyl
Đài
tưởng niệm vụ nổ lò phản ứng hạt nhân Chernobyl sau thảm họa. Lò phản ứng số 4
phía bên phải.
The nuclear reactor after
the disaster. Reactor 4 (centre). Turbine building (lower left). Reactor 3
(centre right).
Tên gọi khác Vụ nổ nhà máy điện nguyên
tử Chernobyl năm 1986
Thảm hoạ nguyên tử Chernobyl xảy ra vào ngày 26 tháng 4 năm 1986 khi nhà
máy điện nguyên tử Chernobyl ở Pripyat, Ukraina (khi
ấy còn là một phần của Liên bang Xô viết) bị nổ. Đây được coi là vụ tai nạn
hạt nhân trầm trọng nhất trong lịch sử năng lượng hạt nhân. Do không có tường chắn, đám mây bụi phóng xạ tung
lên từ nhà máy lan rộng ra nhiều vùng phía tây Liên bang Xô viết, Đông và Tây Âu, Scandinavia, Anh quốc, và đông Hoa Kỳ. Nhiều
vùng rộng lớn thuộc Ukraina, Belarus và Nga bị ô
nhiễm nghiêm trọng, dẫn tới việc phải sơ tán và tái định cư cho hơn 336.000
người. Khoảng 60% đám mây phóng xạ đã rơi xuống Belarus . Theo bản báo cáo năm 2006 của TORCH, một nửa lượng
phóng xạ đã rơi xuống bên ngoài lãnh thổ ba nước cộng hoà Xô viết .
Thảm hoạ này phát ra lượng phóng xạ lớn gấp bốn trăm lần
so với quả bom nguyên tử được ném xuống Hiroshima.
Vụ tai nạn làm dấy lên những lo ngại về
sự an
toàn trong ngành công nghiệp năng lượng
hạt nhân Xô viết, làm đình trệ sự phát triển của ngành này trong nhiều năm,
đồng thời buộc chính phủ Xô viết phải công bố một số thông tin. Các quốc gia:
Nga, Ukraina, Belarus, ngày nay là các quốc gia độc lập, đã phải chịu chi phí
cho nhiều chiến dịch khử độc và chăm sóc sức khoẻ cho những người bị ảnh hưởng
từ vụ Chernobyl. Rất khó để kiểm kê chính xác số người đã thiệt mạng trong tai
nạn này, bởi vì sự che đậy thông tin thời Xô viết gây khó khăn cho việc truy ra
những nạn nhân. Danh sách này không đầy đủ, và chính quyền Xô viết sau đó đã
cấm các bác sĩ được ghi chữ "phóng xạ" trong giấy chứng tử [cần dẫn
nguồn]. Tuy nhiên, đa số những căn bệnh nguy hiểm về lâu dài có
thể dự đoán trước như ung thư, trên
thực tế vẫn chưa xảy ra, và sẽ rất khó để gắn nó có nguyên nhân trực tiếp với
vụ tai nạn. Những ước tính và những con số đưa ra khác nhau rất xa. Một bản báo
cáo năm 2005 do Hội nghị Chernobyl, dưới quyền lãnh đạo của Cơ
quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA)
và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đưa ra cho rằng có 56 người chết ngay lập
tức; 47 công nhân và 9 trẻ em vì ung thư tuyến giáp, và ước tính rằng có khoảng 9.000 người, trong số gần
6.6 triệu, cuối cùng sẽ chết vì một loại bệnh ung thư nào đó. Riêng tổ chức Hoà bình xanh ước tính tổng số người chết là 93.000 nhưng đã ghi
trong bản báo cáo của họ rằng "Những con số được đưa ra gần đây nhất cho
thấy rằng chỉ riêng ở Belarus, Nga và Ukraina vụ tại nạn có thể đã dẫn tới cái
chết thêm của khoảng 200.000 người trong giai đoạn từ 1990 đến
2004."
Tổ chức Hòa bình xanh
(tên tiếng Anh: Greenpeace) được thành lập ở Vancouver, British Columbia, Canada năm 1971
Nhà máy
Vị trí của nhà máy điện hạt nhân Chernobyl
Nhà máy điện nguyên tử Chernobyl mang tên V. I. Lenin
(Чернобыльская АЭС им. В.И.Ленина; Chernobyl'skaya AES im. V.I.Lenina)
(51°23′14″B 30°06′41″Đ) nằm ở
thị trấn Pripyat, Ukraina, cách 18 km về
phía tây bắc thành phố Chernobyl, 16 km từ biên giới Ukraina và Belarus,
và khoảng 110 km phía bắc Kiev. Nhà
máy có bốn lò phản ứng, mỗi lò có thể sản xuất ra 1 gigawatt (GW) điện (3,2
gigawatts nhiệt điện), và cả bốn lò phản ứng sản xuất ra khoảng 10% lượng điện
của Ukraina ở thời điểm xảy ra vụ tai nạn. Việc xây dựng nhà máy được bắt đầu
từ thập kỷ 1970, lò phản ứng số 1 bắt đầu hoạt động năm 1977, tiếp theo là lò
phản ứng số 2 (1978), số 3 (1981), và số 4 (1983). Thêm hai lò phản ứng nữa (số
5 và số 6, mỗi lò cũng có khả năng sản xuất 1 gigawatt) đang được xây dựng ở
thời điểm xảy ra tai nạn. Bốn tổ máy phát điện đó sử dụng lò phản ứng
kiểu RBMK-1000.
Nhà máy điện hạt nhân Chernobyl vẫn tiếp tục sản xuất điện thêm
14 năm sau thảm hoạ và chỉ đóng cửa hoàn toàn vào năm 2000 do
sức ép của quốc tế. Một vùng cách ly có bán kính 30 km được thiết lập
quanh Chernobyl và đây là một trong những điểm nhiễm phóng xạ đậm đặc nhất trên
hành tinh hiện nay.
Vụ tai nạn
Các thành phố bị bỏ hoang Pripyat cùng với
nhà máy hạt nhân Chernobyl
Thứ bảy ngày 26 tháng
4 năm 1986, lúc
1:23:40 sáng giờ địa phương, tại lò phản ứngsố 4
nhà máy điện Chernobyl, năng lượng đột ngột tăng vọt ở mức cao gây ra hàng loạt
các vụ nổ và làm tan chảy lõi lò phản ứng hạt nhân. dẫn
đến phát tán một lượng lớn các chất đồng vị phóng xạ vào khí quyển.
Các
nguyên nhân
Có hai giả thuyết chính thức xung đột với nhau về nguyên nhân
gây tai nạn.
Giả thuyết đầu tiên được đưa ra vào tháng 8 năm 1986 và chỉ buộc
tội những người điều hành nhà máy điện.
Giả thuyết thứ hai do Valeri Legasov ủng
hộ và được đưa ra năm 1991, coi nguyên nhân vụ tai nạn là do những yếu kém
trong thiết kế lò RBMK, đặc biệt là các thanh điều khiển.
Valery Alexeyevich Legasov (Russian: Валерий Алексеевич Легасов; born
September 1, 1936 in Tula, Russia, Soviet Union; died
April 27, 1988 in Moscow, Soviet
Union) was a prominent Soviet inorganic chemist and a member of the Academy of Sciences
of the USSR
Cả hai giả thiết này đều được nhiều nhóm ủng hộ, gồm cả các nhà thiết kế lò
phản ứng, những người điều hành nhà máy điện Chernobyl, và chính phủ.
Một số chuyên gia độc lập hiện nay tin rằng không một giả thiết
nào trong số hai giả thiết trên là hoàn toàn chính xác.
Một nhân tố quan trọng góp phần vào vụ tai nạn là những người
điều hành không được thông báo về những vấn đề của lò phản ứng. Theo một người
trong số họ, Anatoliy Dyatlov, những người thiết kế đã biết rằng lò phản ứng sẽ
gặp phải nguy hiểm ở một số điều kiện nhưng đã cố tình che đậy thông tin đó.
Anatoly Stepanovich Dyatlov (Russian: Анатолий Степанович Дятлов; March 3,
1931 – December 13, 1995) was vice chief-engineer of the Chernobyl Nuclear
Power Plant, and the supervisor of the fatal
experiment which resulted in the Chernobyl disaster.
Một lý do khác là ban quản lý nhà máy điện phần lớn gồm những
người chưa được đào tạo về kiểu lò RBMK: giám đốc, V.P. Bryukhanov, có kinh
nghiệm và đã được đào tạo về nhà máy nhiệt điện dùng than.
Kỹ sư trưởng của ông, Nikolai Fomin, cũng là người đã làm việc
tại một nhà máy phát điện thông thường. Chính Anatoliy Dyatlov, phó kỹ sư
trưởng của các lò phản ứng số 3 và số 4, chỉ có "một số kinh nghiệm về
những lò phản ứng hạt nhân loại nhỏ", cụ thể là những lò phản ứng nhỏ
kiểu VVER được thiết kế cho
các tàu ngầm hạt nhân của Liên Xô. Đặc biệt:
·
Lò phản ứng có một hệ số trống dương
lớn rất nguy hiểm. Theo cách hiểu thông thường, điều này có nghĩa là nếu các
bong bóng hơi nước hình thành trong nước làm mát của
lò phản ứng, phản ứng hạt nhân sẽ tăng tốc, dẫn tới việc phản ứng xảy ra dễ
dàng hơn nếu không có một cơ chế kiểm soát khác. Một điều tồi tệ hơn, khi lò phản
ứng sản xuất điện ở mức thấp, hệ số trống dương này không được bù đắp bằng những
nhân tố khác, nó làm lò phản ứng mất ổn định và nguy hiểm. Việc lò phản ứng gặp
nguy hiểm khi nó sản xuất điện ở mức thấp là điều hoàn toàn xa lạ với trực giác
của những người điều hành và họ cũng chưa từng biết đến điều đó.
·
Một chỗ yếu kém đáng lưu ý khác của lò phản ứng là thiết kế các
thanh điều khiển. Trong một lò phản ứng hạt nhân, các thanh điều khiển được đưa
vào trong lò để làm chậm quá trình phản ứng. Tuy nhiên, trong thiết kế lò RBMK,
đầu mút của thanh điều khiển được làm bằng graphit, những
phần kéo dài ra (phần thuộc thanh điều khiển ở bên trên các đầu mút, dài khoảng
1 mét) là rỗng và chứa đầy nước, trong khi sự cân bằng của thanh điều khiển -
phần thực sự hoạt động, hấp thụ các nơtron và do đó ngăn chặn phản ứng - được
làm bằng cacbua bo. Trong
vài khoảnh khắc đầu tiên khi các thanh điều khiển kiểu này được đưa vào trong
lò, nước làm mát bị những đầu mút bằng graphit chiếm chỗ. Vì thế, (nước) làm
mát, một chất hấp thụ nơtron, bị
graphit chiếm chỗ, một cơ cấu điều tiết nơtron –
là một vật chất có tác dụng làm tăng phản ứng hạt nhân chứ không phải làm chậm
nó lại. Trong vài giây đầu tiên khi vận hành, các thanh điều khiển "làm
tăng" tốc độ phản ứng, chứ không phải làm giảm như mong muốn. Những người
điều hành nhà máy điện không hề biết tới điều đó.
·
Những người điều hành đã thiếu cẩn trọng và vi phạm các quy
trình quản lý nhà máy, một phần vì họ thiếu thông tin về những điểm yếu trong
thiết kế của lò. Nhiều hành động trái quy tắc khác cũng góp phần vào nguyên
nhân gây ra tai nạn. Một nguyên nhân là sự thiếu trao đổi thông tin giữa những
nhân viên phụ trách an toàn và những người điều hành lò vào tối hôm đó.
Cũng cần phải chú ý rằng những người điều hành đã tắt nhiều hệ
thống an toàn của lò phản ứng, điều này nói chung là bị cấm ngặt theo những
hướng dẫn kỹ thuật điều hành nhà máy.
Theo báo cáo của Uỷ ban chính phủ được đưa ra tháng 8 năm 1986,
những người điều hành đã rời ít nhất 204 thanh điều khiển khỏi tâm lò (trong tổng
số 211 thanh của kiểu lò này), chỉ còn để lại bảy thanh. Những hướng dẫn kỹ
thuật như vừa đề cập ở trên cũng cấm điều hành lò RBMK-1000 khi có ít hơn 15
thanh điều khiển bên trong vùng tâm lò
phản ứng.
Các sự kiện
Một sơ đồ của lò phản ứng RBMK
Ngày 25 tháng
4 năm 1986, lò
phản ứng số 4 được dự định dừng hoạt động cho công việc bảo dưỡng thông thường.
Và vì thế, người ta đã muốn tận dụng cơ hội này để thử nghiệm khả năng tua bin phát
điện của lò vẫn cấp đủ điện cho hệ thống an toàn của lò phản ứng (đặc biệt là
các bơm nước) trong trường hợp nhà máy bị cắt nguồn điện từ bên ngoài. Các lò
phản ứng như kiểu Chernobyl có hai máy phát điện diesel luôn để dự phòng, nhưng chúng không thể hoạt động ngay lập
tức, vì thế lò phản ứng được dùng để phát động tua bin, tới khi tua bin có thể
cắt khỏi lò phản ứng và tự chạy theo lực quay quán tính của
nó, và mục đích của việc thử nghiệm này là kiểm tra xem các tua bin khi đang ở
tình trạng chạy theo quán tính có thể cung cấp đủ điện cho các máy bơm hay
không trong khi khởi động các máy phát điện dự phòng. Cuộc thử nghiệm này trước
đó từng thành công ở một lò phản ứng khác (với đầy đủ mọi quy chuẩn an toàn) và
dòng xuất là âm (có nghĩa là, các tua bin phát ra đủ điện trong tình trạng chạy
theo quán tính để cung cấp cho các máy bơm), nhưng những cải tiến thêm đã được
thực hiện để các tua bin có thể cung cấp đủ năng lượng cho một kiểm nghiệm
khác.
Công suất của lò phản ứng Chernobyl-4 được giảm từ mức thông
thường 3.200 MW nhiệt xuống 1.000 MW nhiệt
để có thể tiến hành thử nghiệm ở mức độ năng lượng thấp hơn và an toàn hơn. Tuy
nhiên, vì có sự chậm trễ trong quá trình thử nghiệm thực tế và lỗi của những
người điều hành nên công suất đã giảm xuống quá nhanh, và công suất thực tế
giảm xuống còn 30 MW nhiệt. Vì thế, sự tập trung sản phẩm chất thành tạo hạt nhân là xenon-135
tăng lên (sản phẩm này thường chỉ được dùng trong lò phản ứng hạt nhân ở những
điều kiện phát năng lượng lớn). Dù tỷ lệ giảm năng lượng gần tới mức tối đa do
các quy định an toàn đề ra, những người điều hành lại không ngừng hoạt động của
lò mà tiếp tục thực nghiệm. Hơn nữa, họ đã quyết định ‘làm tắt’ cuộc thực
nghiệm và chỉ tăng công suất lên 200 MW. Nhằm thoát khỏi tình trạng hấp thụ hạt
nhân dư thừa xenon-135, các thanh điều khiển được
kéo ra khỏi lò nhiều hơn so với mức cho phép trong các quy định an toàn. Lúc
1:05 sáng ngày 26 tháng
4, như một phần thực nghiệm, các máy bơm nước được dẫn động bằng
máy phát tua bin được bật lên; dòng nước do chúng tạo ra vượt quá mức các quy
định an toàn cho phép. Dòng nước tăng lên lúc 1:19 sáng—bởi vì nước cũng hấp
thu nơtron, nó càng làm tăng dòng nước cần thiết để có thể kéo các thanh điều
khiển ra một cách thủ công, tạo ra một tình trạng hoạt động rất không ổn định
và nguy hiểm. Luồng hơi phóng xạ được tạo ra ngay sau vụ nổ ban đầu, bằng chứng
ở đây là do nhiệt phân hủy. Những mái che lớn của tuabin bị hư hỏng nặng (giữa
ảnh). Nóc nhà của lò phản ứng 3 liền kề (phía dưới bên trái) cho thấy có đám
cháy nhẹ. Lúc 1:23:04 sáng, cuộc thực nghiệm bắt đầu. Tình trạng không ổn định
của lò không hề được thể hiện theo bất kỳ cách nào trên thanh điều khiển, và có
lẽ không một ai trong đội điều hành biết rõ hoàn toàn về mức độ nguy hiểm. Điện
cấp cho các máy bơm nước bị ngắt, và khi chúng đang chạy nhờ vào máy phát điện
tua bin chạy theo quán tính, dòng nước bơm giảm đi. Tua bin bị ngắt khỏi lò
phản ứng, làm tăng lượng hơi trong lõi lò. Khi nước làm mát nóng lên, các bong
bóng hơi hình thành bên trong dòng nước làm mát. Thiết kế đặc biệt điều khiển
phản ứng bằng graphit của lò RBMK ở
Chernobyl có hệ số trống dương
rất lớn, có nghĩa là năng lượng của lò phản ứng tăng lên nhanh chóng khi không
có hiệu ứng hấp thu neutron của nước, và trong trường hợp đó, hoạt động của lò
phản ứng dần trở nên bất ổn định và nguy hiểm. Lúc 1:23:40 sáng, những người
điều hành ấn nút AZ-5 ("Bảo vệ nguy hiểm khẩn cấp 5") điều khiển một
"SCRAM" — một thiết bị ngắt của
lò phản ứng, đưa toàn bộ các thanh điều khiển, gồm cả các thanh điều khiển vận
hành thủ công vốn đã được rút ra một cách khinh suất từ trước vào trong lò phản
ứng. Vẫn chưa biết rõ liệu đây có phải là một hành động phản ứng khẩn cấp, hay
nó chỉ đơn giản là một biện pháp thông thường để ngắt lò phản ứng khi đã hoàn
thành một thực nghiệm (lò phản ứng đã được định giờ ngắt cho bảo dưỡng thông
thường). Thường mọi người cho rằng SCRAM được dùng để đối phó với trường hợp
tăng năng lượng quá nhanh. Mặt khác, Anatoly Dyatlov, là kỹ sư trưởng nhà máy
điện nguyên tử Chernobyl khi xảy ra tai nạn, đã viết trong cuốn sách của ông:
Vì tốc độ chậm chạp của cơ cấu đưa thanh điều khiển vào trong
(18–20 giây để hoàn thành), những đầu rỗng của các thanh và sự chiếm chỗ tạm
thời của nước làm mát, SCRAM làm cho mức độ phản ứng tăng lên. Năng lượng được
sản xuất ra tăng lên gây ra biến dạng đường dẫn thanh điều khiển. Các thanh
điều khiển bị tắc lại sau khi mới chỉ được đưa vào trong một phần ba, và vì thế
không thể dừng phản ứng lại được. Lúc 1:23:47 lò phản ứng nhảy lên mức 30 GW,
gấp mười lần công suất hoạt động thông thường. Các thanh nhiên liệu bắt đầu
chảy ra và áp lực hơi nhanh chóng tăng lên gây ra một vụ nổ hơi lớn, làm bắn tung và phá
huỷ nắp lò phản ứng, làm vỡ các ống dẫn nước làm mát và sau đó thổi bay một
mảng trần.
Để giảm giá thành xây dựng và vì kích cỡ to lớn của lò phản ứng,
nó chỉ được xây dựng tường chắn một phần. Điều này làm cho chất ô nhiễm phóng
xạ thoát ra ngoài không khí sau khi vụ nổ thổi bay lớp vỏ đầu tiên. Sau đó, một
phần mái sụp xuống, ôxy tràn vào — cộng với nhiệt độ cực cao của nhiên liệu lò
phản ứng và graphit của bộ phận điều tiết — gây cháy
graphit. Đám cháy này góp phần lớn vào sự lan tràn nhiên liệu phóng xạ và các
nguyên tố gây ô nhiễm ra các vùng xung quanh.
Có một số mâu thuẫn về những sự kiện chính xác đã xảy ra sau
1:22:30 (theo giờ địa phương) vì có sự trái ngược giữa những lời kể của nhân
chứng và những thông tin lưu trữ của nhà máy. Giả thuyết được chấp nhận rộng
rãi là những sự kiện được liệt kê ở trên. Theo giả thuyết này, vụ nổ đầu tiên
xảy ra vào khoảng 1:23:47, bảy giây sau khi những người vận hành lò phản ứng
kích hoạt "SCRAM". Thỉnh thoảng cũng có ý
kiến cho rằng vụ nổ đã xảy ra ‘trước khi’ hay ngay lập tức sau khi vận hành
SCRAM (đây cũng là quan điểm của Uỷ ban Xô viết điều tra vụ tai nạn). Sự phân
biệt này là quan trọng, bởi vì nếu lò phản ứng đạt tới tình trạng tới hạn trong
vài giây sau khi vận hành SCRAM, thì lý do có thể bị gán cho thiết kế của các thanh
điều khiển, trong khi nếu vụ nổ xảy ra lúc vận hành SCRAM thì lỗi sẽ được quy
cho những người điều hành. Quả thực, vụ nổ giống như với một trận động đất yếu,
tương đương với cường độ của một trận động đất 2,5 độ, đã được ghi lại lúc 1:23:39 ở
vùng Chernobyl. Tình hình càng phức tạp bởi sự thực là nút điều khiển đã được
ấn nhiều hơn một lần, và người bấm nút đó đã chết hai tuần sau
đó vì bị nhiễm độc phóng xạ.
Tháng 1, 1993, IAEA đưa
ra một phân tích đã sửa đổi về tai nạn Chernobyl, cho rằng lý do chính của vụ
này là thiết kế lò phản ứng chứ không phải lỗi của những người điều hành. Bản
phân tích của IAEA năm 1986 đã cho rằng những hành động của những người điều
hành là nguyên nhân chính gây ra tai nạn.
A simplified diagram of the major differences
between the Chernobyl RBMK and the most common nuclear reactor design,
the Light water reactor.
2. A positive steam void coefficient that
made the power excursion possible, which blew the reactor vessel.
3. The control rods were very slow, taking
18–20 seconds to be deployed. With the control rods having graphite tips that moderated and
therefore increased the fission rate in the beginning of the rod insertion.
Phát tán phóng xạ
Lượng gamma
ngoài đối với một người đứng không có vật chắn gần địa điểm Chernobyl.
Tại mỗi thời điểm khác nhau sau vụ nổ, những đồng vị phóng xạ
khác nhau đưa đến những cường độ phóng xạ khác nhau. Chỉ có thể đo lường được
độ ảnh hưởng phóng xạ tia gamma cho người đứng lộ thiên. Còn người núp trong
nhà thì khó dự đoán hơn.
Ảnh hưởng của các sản phẩm phân rã hạt nhân sẽ được tham khảo
nơi khác, bài này chỉ chú tâm đến các loại đồng vị phóng xạ tụng ra trong vụ nổ
Chernobyl.
Những loại đồng vị phóng xạ của nguyên liệu nguyên tử được phóng
thích theo nhiệt độ sôi của từng chất, phần lớn độ phóng xạ nằm trong lõi lò
nguyên tử được giữ yên trong đó.
·
Khoảng 55% chất phóng xạ iốt bị
tung ra trong thể hơi, thể đặc nhỏ li ti và trong thể các phân tử sinh hóa có iốt.
·
Có hai dạng tinh thể được phóng thích, loại nhỏ (0,3 - 1,5
micromet) và loại lớn (10 micromet). Loại lớn chứa 80-90% các chất phóng xạ khó
thành hơi (95Zr, 95Nb, 140La, 144Ce) và
các nguyên tố trên urani (neptuni, plutoni và
các actini phụ) đính
vào trong lưới ôxít urani.
-----------
Map of radiation levels in 1996 around
Chernobyl.
Đối phó thảm hoạ tức thời
Mức độ thảm họa vượt quá khả năng đối phó của các quan chức địa
phương không có sự chuẩn bị cũng như sự thiếu thốn thiết bị thích hợp. Hai
trong số bốn máy đo liều lượng tại
lò phản ứng số bốn đều có các giới hạn 1 milliröntgen trên
giây. Hai chiếc kia có giới hạn 1.000 R/s; sau vụ nổ mọi người không thể vào
tiếp cận một máy, còn chiếc kia bị hỏng khi được bật lên. Vì thế kíp kỹ thuật
viên tại chỗ chỉ biết chắc chắn rằng mức độ phóng xạ tại đa số các vị trí trong
lò phản ứng vượt quá 4 R/h (mức độ thật sự lên tới 20.000 roentgen trên giờ ở
một số vị trí; mức gây chết người ở khoảng 500 roentgen trên 5 giờ).
Điều này khiến người chỉ huy kíp kỹ thuật viên, Alexander Akimov, cho
rằng lò phản ứng còn nguyên vẹn.
Aleksandr Fyodorovich Akimov (6
May 1953 – 11 May 1986) was the shift supervisor of the night crew that worked
at the Chernobyl Nuclear Power Plant Unit #4 on the night of the Chernobyl
disaster, April 26, 1986.
Bằng chứng về các mảnh graphit và nhiên liệu rơi vung vãi quanh
khu vực bị bỏ qua, và những kết quả lấy được từ các máy đo liều lượng khác vào
lúc 4:30 sáng giờ địa phương bị gạt bỏ vì ông cho rằng các máy đo đã báo sai.
Akimov tiếp tục ở lại với kíp kỹ thuật viên tới sáng, tìm cách bơm nước vào
trong lò phản ứng. Không một ai trong số họ mặc quần áo bảo hộ. Đa số họ, gồm
cả chính Akimov, đều chết vì tiếp xúc phóng xạ ba tuần sau thảm hoạ.
Một thời gian ngắn sau vụ tai nạn, những người lính cứu hỏa tới
nơi và tìm cách dập lửa. Họ không được thông báo về mức độ nguy hiểm từ những
đám khói phóng xạ và các loại mảnh vụn ở đó. Tới 5 giờ sáng ngọn lửa được dập
tắt, nhưng nhiều lính cứu hỏa đã bị nhiễm phóng xạ liều cao. Ủy ban do chính
phủ thành lập điều tra vụ tai nạn tới Chernobyl vào buổi chiều ngày 26 tháng
4. Khi đó, 2 người đã chết và 52 người đang nằm trong bệnh viện.
Trong đêm ngày 26 tháng
4–27 tháng 4— hơn 24 giờ sau vụ nổ — Ủy ban đối mặt với
nhiều bằng chứng cho thấy mức độ phóng xạ rất cao và một số ca nhiễm phóng xạ,
nhận thức được sự cần thiết phải phá bỏ lò phản ứng và ra lệnh sơ tán dân cư ở
thành phố Pripyat lân cận. Để giảm bớt số hành lý mang
theo, người dân ở đó được thông báo rằng sự sơ tán chỉ là tạm thời, trong ba
ngày. Vì thế, tại Pripyat vẫn còn nhiều đồ đạc cá nhân không bao giờ được
chuyển đi nữa vì nhiễm phóng xạ. Theo những người lính cứu hỏa tận mắt chứng
kiến khi tham gia cứu nạn trước khi họ qua đời (như được đưa tin trong loạt
phim truyền hình Nhân chứng của BBC), một người cho rằng ông
thấy phóng xạ có "vị như kim loại", và thấy cảm giác tương tự cảm
giác của gim và kim đâm trên mặt.
Trong nỗ lực vô ích nhằm dập tắt đám cháy, số nước được vội vã
bơm vào lò phản ứng đã ngấm xuống mặt đất bên dưới lò. Vấn đề là các loại nhiên
liệu và nguyên liệu khác đã bắt đầu âm ỉ cháy theo cách của chúng thông qua sàn
lò, việc ném các loại nhiên liệu khác từ trực thăng xuống càng gây ủ kín đám
cháy khiến nhiệt độ tăng thêm. Nếu nguyên liệu này tiếp xúc với nước, nó có thể
gây ra một vụ nổ nhiệt có thể còn nguy hiểm hơn cả vụ nổ đầu tiên và theo ước
tính có thể biến một vùng đất có bán kính hàng trăm dặm từ nhà máy trở thành
nơi không thể ở được trong vòng ít nhất 100 năm.[cần dẫn
nguồn]
Để ngăn chặn trường hợp này, "đội xử lý"—các thành
viên quân đội và những công nhân khác— được chính phủ Xô viết gửi tới để dọn
sạch hiện trường. Hai trong số đó được trang bị đồ bảo hộ ướt để mở các cổng
xối nhằm thông hơi cho số nước nhiễm phóng xạ, nhờ thế ngăn chặn khả năng nổ
nhiệt. Những
người đó, và những người khác thuộc đội xử lý cũng như các lính cứu hỏa tham
gia dọn dẹp không được thông báo về sự nguy hiểm họ phải đối mặt.
Số rác phóng xạ nguy hiểm nhất được tập hợp bên trong phần còn
đứng vững của lò phản ứng. Chính lò phản ứng cũng được bao phủ ngoài bằng các
bao cát, chì và bo ném xuống từ máy bay trực thăng (khoảng 5.000 tấn trong
tuần lễ sau vụ tai nạn). Tới tháng 12 năm 1986 một quan tài bê
tông lớn đã được dựng lên, để phủ kín lò phản ứng và những rác phóng xạ bên
trong.(The Social Impact of the Chernobyl Disaster, 1988, p166, by
David R. Marples ISBN
0-333-48198-4)
Nhiều phương tiện do đội xử lý sử dụng bị bỏ lại rải rác xung
quanh vùng Chernobyl cho đến tận ngày nay.
Những ảnh hưởng của
vụ thảm hoạ
Những hậu
quả tức thời
Hiện tượng tan chảy hạt nhân gây ra một đám mây phóng xạ lan
rộng tới Nga, Belarus và Ukraina, ngoài
ra còn thêm những vùng khác tại châu Âu như một phần Thổ Nhĩ Kỳ, Moldova, Litva, Phần Lan, Na Uy, Thụy Điển, Áo, Cộng hòa Séc và Cộng hòa Slovakia, Slovenia, Thụy Sĩ, Đức, Italia, Pháp (gồm
cả Corsica )
và Anh .. Trên
thực tế, bằng chứng đầu tiên xuất hiện tại các nước khác là hiện tượng phát tán
phóng xạ đã xảy ra không chỉ từ Xô viết mà cả từ Thụy Điển, ngày 27 tháng
4 các công nhân làm việc
tại Nhà máy điện
nguyên tử Forsmark (gần 1.100 km từ Chernobyl) đã phát hiện thấy các hạt
phóng xạ trên quần áo của họ. Chính việc người Thụy Điển tìm kiếm nguồn gốc
phát tán phóng xạ và xác định rằng nhà máy điện nguyên tử của họ không bị rò rỉ
khiến bắt đầu có những ý kiến lo ngại về một tai nạn hạt nhân nghiêm trọng ở
phía tây Liên bang Xô viết. Tại Pháp, nước này cho rằng đám mây phóng xạ đã
dừng lại ở biên giới Đức, Italia. Vì thế, một số loại thực phẩm đã bị cấm sử
dụng ở Italia vì nguyên nhân phóng xạ (đặc biệt là nấm), chính quyền Pháp không
đưa ra bất kỳ một biện pháp đối phó nào, với mục đích ngăn chặn nỗi sợ hãi của
người dân.
Ô nhiễm từ tai nạn Chernobyl lan ra các vùng nông thôn xung
quanh ở mức độ khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện thời tiết. Các báo cáo từ
phía các nhà khoa học Xô viết và phương Tây cho thấy Belarus tiếp nhận 60%
lượng ô nhiễm của toàn bộ Liên bang Xô viết cũ. Tuy nhiên báo cáo TORCH 2006
cho thấy một nửa số hạt hay hơn đã rơi xuống bên ngoài Ukraina, Belarus và Nga.
Một diện tích đất đai rộng của Liên bang Nga phía
nam Bryansk và
nhiều vùng khác phía tây bắc Ukraina cũng bị ô nhiễm.
203 người phải vào viện ngay lập tức, trong số đó 31 người đã
chết (28 trong số này vì nhiễm phóng xạ cấp tính) [cần dẫn nguồn]. Đa số
họ là các nhân viên cứu hỏa và những người cứu nạn tìm cách kiểm soát vụ tai
nạn, họ không hiểu rõ mức độ nguy hiểm của việc bị nhiễm phóng xạ (từ
khói) (để thảo luận về những đồng vị quan trọng hơn trong bụi phóng xạ,
xem các sản phẩm
phân rã hạt nhân). 135.000 người phải sơ tán khỏi vùng, gồm 50.000 người từ thị
trấn Pripyat cạnh đó. Các quan chức y tế dự đoán
rằng trong vòng 70 năm tiếp theo tỷ lệ mắc bệnh ung thư sẽ tăng thêm 2% trong
số những người đã tiếp xúc 5–12 (tùy theo nguồn) EBq ô nhiễm phóng xạ thoát ra từ lò phản ứng.
Khoảng 10 người nữa cũng đã chết vì ung thư do nguyên nhân từ vụ tai nạn. [cần dẫn nguồn]
Các nhà khoa học Xô viết thông báo rằng lò phản ứng số 4 của nhà
máy Chernobyl chứa khoảng 180-190 tấn nhiên liệu và các sản phẩm phân rã hạt
nhân điôxít urani. Ước
tính số lượng đã phát tán chiếm từ 5 đến 30%, nhưng một số thành viên đội xử lý
đã vào trong quan tài bê tông che phủ ngoài và cả lò phản ứng - như Usatenko và
Karpan [cần dẫn nguồn] -
cho rằng không quá 5-10% nhiên liệu còn lại bên trong; quả thực, các bức ảnh
chụp vỏ lò phản ứng cho thấy nó hầu như trống rỗng. Bởi vì sức nóng mạnh liệt
của ngọn lửa, đa số nhiên liệu đã bị đẩy bay lên cao vào khí quyển (vì không
có tường chắn ô nhiễm để
giữ chúng lại).
Những người công nhân tham gia vào quá trình cứu chữa và dọn dẹp
sau tai nạn được gọi là "thành viên đội xử lý",
nhận những liều phóng xạ cao. Theo các ước tính của Liên Xô, khoảng từ 300.000
tới 600.000 thành viên đội xử lý tham gia vào việc sơ tán một vùng rộng
30 km quanh lò phản ứng, nhưng nhiều người trong số họ vẫn đi vào khu vực
này trong thời gian hai năm kể từ vụ tai nạn...
Một số trẻ em trong các vùng bị ô nhiễm bị nhiễm phóng xạ ở
mức cao tới 50 gray (Gy) vì nhiễm phóng xạ iốt-131, một
chất đồng vị có thời gian tồn tại khá ngắn, với thời gian bán rã 8 ngày, do sử dụng sữa bị
nhiễm phóng xạ sản xuất trong vùng. Nhiều cuộc nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ
mắc ung thư tuyến giáp trong trẻ em tại Belarus,
Ukraina và Nga đã tăng rõ rệt. Ngoài ra cũng có thể nhận thấy số lượng người bị
bệnh bạch cầu tăng
cao, nhưng điều này sẽ được coi thêm là một bằng chứng trong vài năm tới khi số
người mắc các chứng ung thư khác cũng tăng. Chưa có bằng chứng về bất thường
trong sinh sản hay những bệnh tật do phóng xạ khác trong dân chúng cả ở vùng bị
ô nhiễm hay các vùng lân cận được chứng minh liên quan trực tiếp tới vụ
Chernobyl [cần dẫn nguồn].
Những ảnh hưởng lâu dài đến sức khoẻ
Bản đồ thể hiệm ô nhiễm xezi-137 tại Belarus,
Nga, và Ukraina. Curie trên
mét vuông (1 curie bằng 37 gigabecquerels (GBq) hay chính xác 37 tỷ becquerels.
Ngay sau vụ nổ, người ta lo sợ về tác hại sức khỏe của chất
phóng xạ iốt, với chu kỳ bán rã là 8 ngày. Hiện nay thì có lo ngại về
chất stronti-90
và xezi-137 ô
nhiễm trong đất, với chu kỳ bán rã là 30 năm. Xezi-137 qua đất thấm vào cây cỏ,
sâu bọ, các giống nấm, lẫn vào thực phẩm địa phương. Nhiều khoa học gia tiên
đoán rằng ảnh hưởng phóng xạ sẽ có tác hại đền nhiều thế hệ trong tương lai.
36 tiếng đồng hồ sau vụ nổ, chính quyền Xô viết tổ chức di tản
dân cư sinh sống chung quanh nhà máy điện hạt nhân Chernobyl. Đến
tháng 5 1986, dân
cư trong vòng bán kính 30 km - khoảng 116.000 người - được di tản định cư
nơi khác. Khu vực bỏ trống gọi là "Khu vực xa lánh". Tuy nhiên, tác
hại phóng xạ đi xa hơn vòng bán kính 30 km này.
Vấn đề tác hại lâu dài với sức khỏe dân chúng hiện nay vẫn chưa
ngã ngũ. Ngoài 300.000 người tái định cư vì tai nạn này; hàng triệu vẫn sinh
sống trong khu vực bị nhiễm xạ. Tuy thế, phần lớn những người bị tác hại thường
bị ít và không có bằng chứng cụ thể chứng minh tăng số tử vong, quái thai và
bệnh tật bẩm sinh, ung thư trong những người này. Nếu có xét nghiệm một vài trường
hợp, không thể khẳng định nguyên nhân là do tai nạn lò nguyên tử.
Một điều đáng ghi nhận là nghiên cứu về tác hại sực khỏe dân
chúng trong thảm họa này bị cản trở bởi chính quyền Xô viết lúc bấy giờ, và các
khảo cứu khoa học thường thiếu minh bạch dân chủ. Tại Belarus năm 1999, khi
khoa học gia Yuri Bandazhevsky đặt
câu hỏi về ước tính chính thức hậu quả của thảm họa Chernobyl và sự xác đáng
của giới hạn tối đa chính thức 1.000 Bq/kg, ông đã bị đàn áp về mặt chính trị,
bị bỏ tù từ năm 2001 cho đến 2005 về
tội nhận hối lộ, sau khi ông công bố báo cáo năm 1999 phê phán nghiên cứu chính
thức đã bị dàn xếp đối với thảm họa Chernobyl.
Những hạn chế về thực phẩm
Hai mươi năm sau thảm hoạ, những quy định hạn chế về sản xuất,
vận chuyển và tiêu thụ thực phẩm bị ô nhiễm bụi phóng xạ Chernobyl vẫn có hiệu
lực. Tại Anh quốc, 374 trang trại với diện tích 750 km2 và
200.000 con cừu thuộc diện hạn chế này. Tại nhiều vùng tại Thụy Điển và Phần
Lan, các quy định được áp dụng cho các loại động vật nuôi, gồm cả tuần lộc,
trong tự nhiên và gần tự nhiên. Theo bản báo cáo TORCH 2006, "tại một số
vùng thuộc Đức, Áo, Italia, Thụy Điển, Phần Lan, Latvia và Ba Lan, các loại thú
hoang dã (gồm lợn lòi và hươu), các loại nấm rừng, trứng cá và cá ăn sâu bọ từ
có hàm lượng xezi-137 trên mỗi kg trọng lượng lên tới hàng ngàn Bq", trong
khi "tại Đức, mức độ xezi-137 trong thịt lợn lòi hoang ở mức 40.000 Bq/kg.
Mức độ trung bình là 6.800 Bq/kg, lớn gấp mười lần giới hạn của EU là 600
Bq/kg". Ủy ban châu Âu cho rằng "Vì thế các quy định đối với một số
loại thực phẩm từ một số quốc gia thành viên cần phải được duy trì trong nhiều
năm nữa".
Năm 2006, các trang trại nuôi cừu ở một số vùng tại Anh vẫn là
đối tượng thanh tra, có thể khiến chúng bị cấm tham gia thị trường thực phẩm
của con người bởi lượng ô nhiễm tăng lên do nguyên nhân vụ thảm hoạ:
Heo con bị đột biến gene tại triển lãm Bảo tàng Quốc gia
Chernobyl ở Ukraina.
"Một số chất phóng xạ, chủ yếu là xezi-137 phóng
xạ, đã tích tụ tại một số vùng cao nguyên nước Anh, nơi thường có các trang
trại nuôi cừu. Vì những đặc tính hóa học và vật lý đặc biệt của các kiểu
đất than bùn tại các vùng đó, xezi phóng xạ vẫn có thể dễ dàng chuyển từ đất
vào trong cây cỏ và vì thế tích tụ trong thịt cừu. Một giới hạn tối đa ở mức
1.000 Becquerel xezi phóng xạ trên 1
kilôgam (Bq/kg) đã được áp đặt trên thịt cừu để bảo vệ người tiêu dùng. Giới
hạn này được Anh quốc đưa ra năm 1986, dựa trên sự tư vấn từ nhóm chuyên gia
của Ủy ban châu Âu theo Điều 31. Theo quyền được quy định trong Luật Bảo
vệ Môi trường và Thực phẩm 1985 (FEPA), Các quy định
khẩn cấp đã được sử dụng từ năm 1986 để đưa ra những áp đặt giới hạn trên việc
vận chuyển và bán thịt cừu vượt mức giới hạn tại một số vùng của Cumbria, Bắc Wales, Scotland và Bắc
Ireland... Khi các quy định khẩn cấp được đưa ra áp dụng năm 1986, các
vùng hạn chế rất rộng, bao gồm tới 9.000 trang trại và hơn 4 triệu con cừu. Từ
năm 1986, các vùng buộc phải tuân theo quy định hạn chế đã giảm nhiều và hiện
chỉ còn 374 trang trại, hay một phần các trang trại với khoảng 200.000 con cừu.
Con số này có nghĩa số lượng trang trại đã giảm tới 95% kể từ năm 1986, chỉ một
số vùng tại Cumbria, Tây Nam Scotland và Bắc Wales, vẫn phải tuân thủ giới hạn
này.
Tại Na Uy, người
Sami bị ảnh hưởng bởi thực phẩm ô nhiễm (tuần lộc đã
bị nhiễm phóng xạ khi ăn địa y, vốn
là loài rất nhạy cảm với phóng xạ)
Tranh cãi
về những ước tính thương vong
Báo cáo
của Diễn đàn Chernobyl
Tháng 9 năm 2005, một bản thảo báo cáo vắn tắt của Diễn đàn
Chernobyl, gồm một số cơ quan Liên hiệp quốc như Cơ quan Năng lượng Nguyên tử
Quốc tế (IAEA), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Chương trình Phát triển
Liên hiệp quốc (UNDP), các tổ chức Liên hiệp quốc khác và các chính phủ
Belarus, Liên bang Nga và Ukraina, đưa ra con số dự đoán tổng số người chết vì
vụ tai nạn là 4.000 . Con
số do WHO đưa ra gồm 47 công nhân đã chết vì hội chứng
phóng xạ cấp tính là nguyên nhân trực tiếp của phóng xạ từ vụ thảm họa và 9
trẻ em chết vì ung thư tuyến giáp, trong tổng số 4.000 trường hợp ung thư được
xảy ra với tổng số 600.000 người bị phơi nhiễm ở mức độ cao nhất. Bản
báo cáo đầy đủ về các hiệu ứng với sức khỏe người dân của WHO được Liên hiệp
quốc chấp nhận và được xuất bản tháng 4 năm 2006, gồm có cả việc dự đoán thêm
5.000 trường hợp ảnh hưởng thêm từ những vùng bị ô nhiễm tại Belarus, Nga và
Ukraina và cho rằng, tổng số 9.000 sẽ chết vì ung thư trong 6,8 triệu người Xô
viết bị nhiễm độc nặng nhất .
Báo cáo
năm 2006 của TORCH
Thành viên Đảng Xanh Đức MEP (thành viên của Nghị viện
châu Âu) Rebecca Harms, đã
tiến hành lập một bản báo cáo (TORCH, The Other Report on Chernobyl) năm 2006
hưởng ứng theo bản báo cáo của Liên hiệp quốc; trong đó cho rằng:
"Về diện tích đất đai Belarus (với 22% tổng diện tích) và Áo
(13%) là những nước bị ảnh hưởng ô nhiễm ở mức cao nhất. Các nước khác cũng bị
ảnh hưởng trầm trọng; ví dụ như, hơn 5% diện tích Ukraina, Phần Lan và nhiều
vùng rộng lớn tại Thụy Điển bị ô nhiễm ở mức cao (> 40.000 Bq/m2 xezi-137).
Hơn 80% Moldova, phần tại châu Âu của Thổ Nhĩ Kỳ, Slovenia, Thụy Sĩ, Áo và Cộng
hoà Slovak bị ảnh hưởng ở mức độ thấp hơn (> 4.000 Bq/m2xezi-137).
44% nước Đức và 34% Anh quốc cũng bị ảnh hưởng ở mức độ tương tự." (Xem
bản đồ phân bố xezi-137 tại châu Âu)
IAEA/WHO và UNSCEAR lưu tâm tới những vùng bị ảnh hưởng ở mức
cao hơn 40.000 Bq/m2; bản báo cáo của TORCH cũng bao gồm những vùng
bị ảnh hưởng ở mức lớn hơn 4.000 Bq/m2 of Cs-137. Bản báo cáo
TORCH 2006 "ước tính rằng hơn một nửa lượng iốt-131 từ Chernobyl [làm tăng
nguy cơ ung thư tuyến giáp] rơi bên ngoài lãnh thổ Liên bang Xô viết cũ. Có lẽ
liên quan tới con số thông báo về những ca ung thư tuyến giáp tăng cao ở Cộng
hoà Czech và Anh quốc, nhưng vẫn cần tiến hành nghiên cứu thêm để
đánh giá về tác động gây ung thư tuyến giáp tại châu Âu". Bản báo cáo dự
đoán rằng sẽ có thêm 30.000 tới 60.000 vụ ung thư gây chết người và cảnh báo
rằng những dự đoán về con số thiệt hại nhân mạng do ung thư đó phụ thuộc nhiều
vào yếu tố nguy cơ được sử dụng; và dự đoán những ca ung thư tuyến giáp tăng
thêm sẽ ở trong khoảng 18.000 và 66.000 tại riêng Belarus phụ thuộc vào hình
mẫu phát sinh nguy cơ
Tổ chức
Hoà bình xanh
.
Bản đồ phân bố phóng xạ xezi-137 sau thảm họa
Chernobyl. Tính theo kilo Becquerel (kBq)
trên mét vuông. Bản quyền của J.Smith và N.A. Beresford, "Chernobyl: Thảm
họa và những Hậu quả" (Praxis, Chichester, 2005). Xem thêm ở đây để có tấm bản đồ phân bố phóng xạ xezi-137, của Viện bảo vệ phóng xạ và an toàn hạt nhân Pháp
Tổ chức Hòa bình xanh đã
chỉ ra những trái ngược trong các bản báo cáo của Diễn đàn Chernobyl, cho rằng
một cuộc nghiên cứu năm 1998 của WHO được trích dẫn trong bản báo cáo năm 2005,
đưa ra con số 212 người chết trong tổng số 72.000 người nhiễm . Trong
bản báo cáo của mình, Hòa bình xanh cho rằng sẽ có thêm 270.000 ca ung thư có
liên quan tới vụ Chernobyl và rằng 93.000 người trong số đó sẽ ở mức nguy hiểm,
nhưng cũng nói rõ trong bản báo cáo của họ rằng "Những con số được đưa ra
gần đây nhất cho thấy chỉ riêng tại Belarus, và Ukraina thảm họa có thể gây ra
khoảng 200.000 cái chết nữa trong giai đoạn 1990 và 2004.". Blake
Lee-Harwood, giám đốc điều hành của Hòa bình xanh, tin rằng ung thư dường như
là nguyên nhân của chưa tới một nửa những ca bệnh nặng và rằng "các vấn đề
về ruột, tim và hệ tuần hoàn, hô hấp, nội tiết, và đặc biệt là các hiệu ứng
trên hệ miễn dịch," cũng gây ra các ca bệnh nặng.
Báo cáo
tháng 4 năm 2006 của IPPNW
Theo một bản báo cáo tháng 4 năm 2006 của chi nhánh Các thầy
thuốc quốc tế ngăn chặn chiến tranh hạt nhân (IPPNW) tại Đức,
với tiêu đề "Hiệu ứng sức khỏe của Chernobyl", hơn 10.000 người hiện
bị ảnh hưởng với bệnh ung thư tuyến giáp và 50.000 ca khác sẽ xảy ra trong
tương lai. Bản báo cáo tin rằng hàng chục ngàn cái chết sẽ xảy ra trong số
những người nhiễm. Tại châu Âu, có lẽ 10.000 ca dị dạng đã
được quan sát thấy trong số trẻ mới sinh vì nguyên nhân phóng xạ từ vụ
Chernobyl, với 5.000 ca tử vong trong số trẻ sơ sinh. Họ cũng cho rằng hàng
trăm ngàn người làm việc tại địa điểm đó sau khi thảm họa xảy ra hiện đang bị
bệnh vì phóng xạ, và hàng chục nghìn người đã chết .
Các
nghiên cứu khác
·
Năm 2006 Bộ Y tế Ukraina cho rằng hơn 2,4 triệu người Ukraina,
trong đó có 428.000 trẻ em, gặp phải các vấn đề sức khỏe liên quan tới thảm hoạ
Chernobyl . Ảnh
hưởng tâm lý hậu thảm hoạ, như bản báo cáo năm 2006 của Liên hiệp quốc chỉ ra,
cũng ảnh hưởng tới những người rời chỗ nội bộ.
·
Theo Liên minh Chernobyl, tổ chức
chính của những người bị nhiễm phóng xạ, 10% trong số 600.000 người nhiễm hiện
đã chết, và 165.000 người tàn tật.
So sánh với các thảm
hoạ khác
Thảm họa Chernobyl đã được so sánh với Thảm họa Bhopal năm 1984. Ngày 3 tháng
12 năm 1984, một
nhà máy hóa chất của Union Carbide tại Bhopal, Ấn Độ đã
để rò rỉ 40 tấn khí độc isoxyanat metyl, gây
ra cái chết của ít nhất 15.000, và làm bị thương khoảng từ 150.000 tới 600.000
người khác.
Các thảm họa khác có nguyên nhân từ con người với số tử vong cao
gồm:
Các vụ
tai nạn hạt nhân và phóng xạ khác đã nhiều lần xảy ra,
dù không vụ nào đạt tới mức ảnh hưởng rộng lớn như thảm hoạ Chernobyl. Các vụ
tai nạn hạt nhân dân sự có gây thiệt hại nhân mạng đã xảy ra
tại Charlestown, đảo Rhode (Hoa
Kỳ) ngày 24 tháng 7 năm 1964 (một
vụ tai nạn nghiêm trọng đã
xảy ra tại nhà máy, giết chết một người) ;
tại Buenos Aires, Argentina,
ngày 23 tháng 9 năm 1983 (một
người chết) , và
gần đây nhất là tại nhà máy tái xử lý nhiên liệu hạt nhân Tokaimura Nhật
Bản ngày 30 tháng 9 năm 1999 (hai
người chết). Những
vụ tai nạn hạt nhân nghiêm trọng trước đây gồm vụ cháy lò phản ứng
Windscale 1957 tại Anh và vụ tan chảy hạt nhân năm 1979 tại
nhà máy hạt nhân Three Mile Island Hoa
Kỳ, cả hai đều không gây thiệt hại nhân mạng.
Chernobyl sau thảm hoạ
Vấn đề của nhà máy Chernobyl không chấm dứt với thảm họa tại Lò
phản ứng số 4. Lò phản ứng bị hư hại đã được hàn kín bằng 200 mét khối bê tông
đặt giữa nơi xảy ra thảm họa và các tòa nhà điều hành. Chính phủ Ukraina tiếp
tục cho ba lò phản ứng còn lại hoạt động vì tình trạng thiếu hụt năng lượng
trong nước. Một đám cháy đã bùng phát tại Lò phản ứng số 2 năm 1991; chính
quyền sau đó tuyên bố rằng lò phản ứng bị hư hại tới mức không thể sửa chữa và
cho nó ngừng hoạt động. Lò phản ứng số 1 được cho ngừng chạy tháng 11 năm 1996
như một phần của thỏa thuận giữa chính phủ Ukraina và các tổ chức quốc tế
như IAEA với
mục đích chấm dứt hoàn toàn hoạt động của cả nhà máy. Tháng 11 năm 2000, Tổng
thống Ukraina Leonid Kuchma đã đích thân bấm nút dừng
hoạt động của lò phản ứng hạt nhân số 3 trong một buổi lễ, chính thức chấm dứt
hoạt động của toàn bộ nhà máy.
Leonid
Kuchma Danylovych (tiếng Ukraina: Леонід Данилович Кучма, sinh ngày 9 tháng 8 năm
1938) là tổng thống thứ nhì của quốc gia Ukraina độc lập từ
19 tháng 7 năm 1994-23 tháng 1 năm 2005.
Nhu cầu
tái thiết tương lai
Quan tài bê tông không phải là một phương án hàn kín hữu hiệu
lâu dài cho lò phản ứng đã bị hủy hoại. Việc xây dựng vội vàng, và trong nhiều
trường hợp là do các rô bốt công nghiệp tiến hành, khiến nó nhanh chóng lão hoá, và
nếu nó sụp đổ, một đám mây bụi phóng xạ khác sẽ được giải phóng. Quan tài bê
tông đã hư hại nặng tới mức chỉ cần một rung động nhẹ của Trái Đất hay những
trận gió mạnh cũng có thể khiến trần của nó sụp đổ. Một số kế hoạch đã được
thảo luận nhằm xây dựng một bức tường bao phủ có độ tin cậy lớn hơn.
Theo những ước tính chính thức, khoảng 95% nhiên liệu (khoảng
180 tấn) trong
lò phản ứng tại thời điểm xảy ra vụ tai nạn vẫn còn lại bên trong quan tài bê
tông, với tổng lượng phóng xạ lên tới gần 180 triệu curie (670 PBq). Vật
liệu phóng xạ gồm các mảnh lõi, bụi và "những vật liệu chứa nhiên
liệu" (FCM) kiểu dung nham chảy qua lò phản ứng hạt nhân đã bị hư hại
trước khi cứng lại dưới dạng gốm. Theo những ước tính thận trọng, ít nhất có
bốn tấn bụi phóng xạ bên trong quan tài. Tuy nhiên, những ước tính gần đây đã
gây nghi ngờ lớn về những con số được đưa ra từ trước về số lượng nhiên liệu
còn lại trong lò. Một số ước tính hiệu nay cho rằng tổng lượng nhiên liệu trong
lò phản ứng chỉ khoảng 70% nhiên liệu nạp ban đầu, tuy nhiên IAEA vẫn cho rằng
chưa tới 5% nhiên liệu đã thất thoát do vụ nổ. Hơn nữa, một số người tham gia
vào việc cứu hộ ước tính rằng chỉ 5-10% nguyên liệu nạp ban đầu còn lại bên trong
quan tài bê tông.
Nước vẫn tiếp tục chảy vào trong quan tài, khiến các vật liệu
phóng xạ rò rỉ qua lò phản ứng đã bị hư hại và có thể cả vào trong nước ngầm
tại các khu vực quanh đó. Móng của lò phản ứng dần chứa đầy nước đã bị ô nhiễm
nhiên liệu hạt nhân và bị coi là loại rác có mức độ phóng xạ cao. Dù các công
việc sửa chữa đã được tiến hành tại một số lỗ lớn nhất bên trên mái quan tài,
nó vẫn không tài nào hàn kín được toàn bộ, và tình trạng mái sẽ ngày càng tồi
tệ thêm.
Quan tài bê tông, không hoàn toàn kín với không khí bên ngoài,
sẽ nóng lên nhanh hơn khi nó lạnh đi. Điều này khiến lượng ẩm bên trong quan
tài tăng lên. Lượng ẩm cao lại ăn mòn bê tông và cốt thép của nó.
Hơn nữa, bụi đang ngày càng trở thành một vấn đề bên trong quan
tài bê tông. Các nguyên tử phóng xạ ở mọi kích thước, lượng bụi tro chiếm tỷ lệ
lớn bên trong đó. Những dòng đối lưu hòa lẫn với dòng khí xâm nhập từ bên ngoài
ngày càng khuấy đảo và đưa thêm vào không khí các nguyên tử phóng xạ. Việc lắp
đặt các hệ thống lọc khí năm 2001 có làm giảm bớt nguy cơ này, nhưng không hoàn
toàn triệt tiêu được nó.
Những hậu
quả khi nó hư hỏng thêm trong tương lai
Quan tài bê tông hiện nay được xây dựng bên trên đống đổ nát của
lò phản ứng. Hai "Xà lớn" đỡ mái quan tài tựa trên kết cấu yếu ớt của
bức tường phía tây lò phản ứng vốn đã bị hư hại do vụ nổ. Nếu bức tường của lò
phản ứng và cả mái quan tài sụp đổ, những lượng bụi phóng xạ và nguyên tử lớn
sẽ được giải phóng trực tiếp vào khí quyển, gây ra một vụ phát tán phóng xạ lớn
khác vào môi trường xung quanh.
Một nguy cơ khác đối với quan tài là phiến bê tông hình thành
nên "Khiên sinh vật học bên trên" (UBS), và được đặt trên lò phản ứng
trước khi vụ tai nạn xảy ra. Tấm bê tông này đã bị vụ nổ đẩy lên cao và hiện
nằm nghiêng 15 độ theo chiều dọc. Vị trí của tấm khiên sinh vật học bị coi là
không an toàn, bởi nó chỉ được chống đỡ theo chiều gần thẳng đứng bởi bụi rác.
Nếu tấm sinh học này đổ nó sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng bụi bên trong quan
tài và có thể làm phát tán một lượng vật liệu phóng xạ ra ngoài, cũng như có
thể gây hư hại cho chính quan tài bê tông.
Quan tài bê tông không được thiết kế để tồn tại trong khoảng
thời gian 100.000 năm cần thiết để giữ lượng phóng xạ còn sót lại bên trong lò
phản ứng số 4. Những thiết kế hiện nay về một bức tường bao phủ mới chỉ có tuổi
thọ 100 năm, khoảng thời gian đó chỉ là một nháy mắt so với khoảng thời gian
tuổi thọ của vật liệu phóng xạ bên trong. Việc xây dựng một quan tài có khả
năng chôn vùi vĩnh viễn những thứ bên trong lò phản ứng số 4 rõ ràng là một
thách thức cho các kỹ sư ở nhiều thế hệ sau này.
Quỹ Chernobyl và Kế
hoạch xây dựng tường chắn mới
Quỹ Chernobyl được
thành lập năm 1997 trong cuộc họp thượng đỉnh G7 lần
thứ 23 ở Denver để cung cấp vốn cho Kế hoạch xây dựng tường chắn thay cho cấu
trúc bê tông được xây dựng vội vã. Kế hoạch
xây dựng tường chắn (SIP - Shelter Implementation Plan) có mục đích biến địa
điểm này thành nơi có điều kiện sinh thái học an toàn thông nhờ một quan tài ổn
định, sau đó là việc xây dựng thêm một lớp Vỏ bọc mới (NSC
- New Safe Confinement). Ước tính ban đầu cho NSC là 768 triệu đôla Mỹ, theo
ước tính năm 2006 là 1.2 tỉ đôla Mỹ. SIP hiện được một côngxoocxiom (consortium) gồm Bechtel, Battelle và Electricité de France điều
hành, với thiết kế ý tưởng cho NSC theo kiểu một mái vòm di động được nặng
20.000 tấn, được xây dựng tách biệt bên ngoài để tránh lượng bức xạ cao, và có
thể trượt trên vỏ cũ bằng cách sử dụng đường ray tàu hỏa. NSC được hi vọng là
sẽ được hoàn thành vào năm 2015, và sẽ là kết cấu di động lớn nhất từng được
xây dựng.
Kích thước
·
Rộng: 260 m
·
Cao: 105 m
·
Dài: 150 m
·
Nặng: 20.000 tấn
New Safe Confinement in
August 2016
Chernobyl trong ý
thức mọi người
Thảm hoạ Chernobyl đã lôi cuốn sự chú ý quốc tế. Trên khắp thế
giới, mọi người theo dõi và xúc động mạnh trước sự kiện. Vì thế,
"Chernobyl" đã đi vào tâm tưởng quần chúng theo nhiều cách khác nhau.
Xem thêm
Thông tin
chung
·
The
Chernobyl Catastrophe: Consequences on Human Health (PDF, 1.8MB)
by Greenpeace International, April 2006.
·
Photos
of a visit to the reactor of Chernobyl in April 2006 by a German
TV team joint by Research Center Juelich (tiếng Anh)(tiếng Đức)
·
Health, Environmental
and Socio-Economic Impacts – a summary for non-specialists of
the above report by GreenFacts
·
Western responsibility nếu regarding
the health consequences of the Chernobyl catastrophe in
Belyorussia, the Ukraine and Russia
·
The
Human Consequences of the Chernobyl Accident: A Strategy for Recovery - UN Report, 2002 (PDF, 350KB)
·
The
Chernobyl Disaster - including some discussion of the disagreements within
the UN organization about its publications, Stanford University
·
Chernobyl - A Canadian
Perspective (PDF 405KB) - A brochure describing nuclear reactors in general and the
RBMK design in particular, focusing on the safety differences between them
and CANDU reactors.
Published by the CANDU organization.
·
Tacis
Nuclear Safety Programme, Overview of Chernobyl related projects European
Union Chernobyl-related TACISProjects with Budget
estimates
Phân tích
sự kiện và kỹ thuật
·
(tiếng Anh)/(tiếng
Pháp) Surveillance
sanitaire en France en lien avec l’accident de Tchernobyl -Bilan actualisé sur
les cancers thyroïdiens et études épidémiologiques en cours en 2006, April
2006 report by the French Institut
de veille sanitaire on Chernobyl's consequences in France and thyroid cancers
·
(tiếng Pháp) Various
reports (Chernobyl 5 years after, 10 years after, 20 years after, etc. by
the Institut
de radioprotection et de sûreté nucléaire
·
Another take on
the sequence of events at Chernobyl, Uranium Information Centre (nuclear power
industry group), Melbourne, Australia.
·
Technical
information concerning the accident, as well as a contrast between
the RBMK reactor design that of American reactors, University of Pittsburgh
·
(tiếng Nga) Alternative
opinion about the Chernobyl catastrophe reasons -
The English version is being prepared.
·
Lessons A
global perspective and knowledgeable comments on the lessons to be learnt,
honestly pro-nuclear
·
WNC
reactor Issue Brief - Short technical analysis of the RBMK reactor design and
changes made after accident, World
Nuclear Association
Những lời
kể của nhân chứng (trước và sau tai nạn)
·
A
female tourist's account, in photos, the veracity of which has
been questioned. See Elena Filatova
·
Cheating
Chernobyl - New Scientist magazine
interviews eyewitness Alexander Yuvchenko, who
was at the power plant at the time of the accident.
Ảnh/Phim/Tin
tức
·
Animated
Flash map - 2 minutes and 30 seconds - of Caesium-137 contamination published
by the French Institut
de radioprotection et de sûreté nucléaire (IRSN)
·
Photographs
of Pripyat and Chernobyl (has been proved that she didnt ride alone, and made
various uses of stock imagery)]
·
Zone of
Exclusion: Pripyat and Chernobyl - Review of this
book, with sample photo gallery shot in the dead zone in 2001
·
BBC Horizon documentary
'Inside Chernobyl's Sarcophagus', 1996. Footage and comment by Russian
scientists conducting dangerous research in and around the burnt-out core.
·
Stone, Richard (ngày 28
tháng 3 năm 2006). “The
Long Shadow of Chernobyl”.
National Geographic. tr. 32
|các trang=
hay |at=
dư (trợ giúp). Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2006. Đã định rõ hơn một tham số
trong |author=
và |last=
(trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |author=
và |last=
(trợ giúp)
·
Nine Network Australia, 60 Minutes, 'Inside
Chernobyl', air date ngày 16 tháng 4 năm 2006. Reporter Richard Carltongoes
inside the control centre at Chernobyl and also visits the exclusion zone
surrounding the plant. Focuses on the 1986 incident, the failing 'sarcophagus'
and yet-to-be-realised plans to replace it, and the affected children in
orphanages in nearby Belarus
Những tổ
chức nhân đạo và tình nguyện quan tâm tới các hậu quả
group with education and volunteering projects
No comments:
Post a Comment