Cách nay 37 năm, hãng Lockheed cho bay thử chiếc máy bay tàng
hình đầu tiên của thế giới
Ngày 18
tháng 06, 1981
·
1981 – Lockheed F-117 Nighthawk có
chuyến bay đầu tiên, là máy bay khả dụng đầu tiên được thiết kế hoàn toàn
theo công nghệ tàng hình.
Lockheed F-117 Nighthawk
F-117
Số lượng sản xuất 59
Chi phí máy bay US$ 45 triệu (1983)
F-117
Mô tả
Phi hành
đoàn, ng. 1
Kích thước
Chiều dài 20.08 m
Sải cánh 13.20 m
Chiều cao 3.78 m
Diện tích
cánh 73 m²
Khối lượng
Rỗng 13.380 kg
Đầy tải: Avec armement 23.814 kg
Cất cánh tối
đa 25 000 kg
Сài đặt lực
Sức đẩy 48.0 kN48.0 kN
Đặc tính
Vận tốc tối
đa 1.130 km/h
Bán kính chiến
đấu 860 km
Độ cao thực
tế 13 710 m
Vũ trang
Externe Aucun (zero)
Lockheed F-117A
Chim ưng đêm, tên hiệu "Hạt huyền", là chiếc máy bay có
thể sử dụng đầu tiên trên thế giới được thiết kế hoàn toàn theo công nghệ tàng hình.
Không lực Hoa Kỳ là lực lượng duy nhất sử dụng loại máy bay này, nó
là hậu duệ trực tiếp của chương trình mẫu tàng hình Have Blue.
F-117A đã được nhiều người biết tới trong cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh. Không quân Hoa Kỳ đang đặt kế hoạch ngừng sử dụng
F-117, chủ yếu vì việc đưa vào sử dụng loại F-22
Raptor hiện đại hơn.
Lockheed Martin F-22 Raptor (Chim ăn thịt) là một máy bay tiêm kích thế hệ thứ 5 sử dụng kỹ thuật tàng hình đầu tiên trên thế giới
Tháng 10 năm 2006, Không quân Hoa Kỳ dự
định cho F-117 về hưu sau vài năm nữa, và ngừng đào tạo phi công lái loại máy
bay này.
Tên hiệu
Ký hiệu "F-" của loại máy bay này không được giải
thích chính thức; tuy nhiên, dường như nó sử dụng dãy định danh máy bay chiến
đấu của Không lực Hoa Kỳ trước năm 1962 như F-111. Các máy bay hiện đại khác
cũng được sử dụng số hiệu cũ trước năm 1962 (như B-52, C-130, và một số loại
máy bay khác ít nổi tiếng hơn), nhưng chiếc F-117 dường như là loại máy bay duy
nhất thời kỳ sau này không sử dụng hệ thống mới. Đa số máy bay hiện đại của
quân đội Hoa Kỳ sử dụng hệ thống định danh thời sau 1962 theo mô hình có thể dự
đoán (ở chừng mực nào đó) như "F-" luôn để chỉ máy bay chiến đấu trên
không, "B-" thường là máy bay ném bom, và "A-" thường là
máy bay tấn công mặt đất. Những ví dụ như vậy gồm F-15 Eagle, Pháo đài bay B-52 và A-6
Intruder.
F-15C của
Không quân Hoa Kỳ trong Chiến dịch tuần tra Noble Eagle
Một chiếc B52
Chiếc A-6 Intruder là một
kiểu máy bay cường kích hai động cơ, cánh gắn giữa do Grumman Aerospace chế tạo.
Tương tự, bởi Máy bay tàng hình thực tế chủ yếu đóng vai trò tấn
công mặt đất, nên việc nó giữ ký hiệu định danh "F-" cũng là một
trong số nhiều lý do. Không quân Hoa Kỳ luôn chú trọng tới máy bay chiến đấu
hơn máy bay tấn công mặt đất, và những máy bay này thỉnh thoảng còn bị bêu xấu
là "máy hất đất." Các quan chức có thể cảm thấy dễ chịu hơn khi gắng
giành được sự ủng hộ chính trị và quân sự cho một loại máy bay mới nếu nó được
mang danh "máy bay chiến đấu" chứ không phải máy bay ném bom hay tấn
công.
Hay, ký hiệu "F-" cũng có thể là một phần nỗ lực nhằm
giữ bí mật cho chiếc Nighthawk (chương trình được giữ kín tới tận cuối thập kỷ
1980).
Việc định danh không chính xác cũng có thể để giữ Nighthawk
không vi phạm vào các hiệp ước hay làm các nước khác tức giận.
Trong thời gian phát triển, thuật ngữ 'LT' (Logistics Trainer)
Huấn luyện Hậu cần thường được sử dụng.
Tương tự, một tài liệu truyền hình gần đây đã dẫn lời một thành
viên chính trong đội phát triển F-117A cho rằng những phi công lái chiếc máy
bay chiến đấu có chóp hình chữ V này cảm thấy việc điều khiển nó tương đồng với
loại máy bay F- hơn, so với loại B- và A-. Cũng có một sự khác biệt giữa phi
công máy bay chiến đấu và máy bay ném bom, đặc biệt thời còn Sở chỉ
huy Không quân Chiến lược (1945-1991), và khi đã lái một loại
thì phi công hiếm khi có thể đổi được sang loại kia.
Không lực Hoa Kỳ cho rằng F-117A có thể mang tên lửa không đối không, tạo cho nó khả năng chiến đấu
trên không ngoài chức năng chính là tấn công mặt đất. Trong khi về mặt kỹ
thuật, điều này có thể là đúng thì chiếc máy bay cũng chưa từng chứng tỏ khả
năng chiến đấu trên không. Có lẽ nó là loại máy bay kém về cận chiến, nhưng
cũng chưa hề có đánh giá của chuyên gia về các khả năng khác của nó.
Có một số ước đoán về các khả năng của nó. Có tin cho rằng nó
không thể quay đầu ở mức gia tốc lớn hơn 5 g, dù
thông tin đó được bảo mật. Nó thiếu radar để dẫn đường cho các tên lửa tầm xa,
và không mang tên lửa tầm gần để tự vệ. Các quan chức Không lực Hoa Kỳ từng dự định trang bị tên
lửa không đối không AIM-9
Sidewinder cho chiếc F-117 — các phi công thậm chí còn được huấn
luyện để bắn chúng — nhưng không có bằng chứng cho thấy loại tên lửa AIM-9 từng
được lắp đặt trên những chiếc F-117. Khả năng tàng hình của F-117 khiến các máy
bay khác khó phát hiện và định vị bằng radar dẫn đường tên lửa.
Thiết kế và hoạt động
Kích cỡ tương đương F-15C Eagle, một chỗ ngồi, chiếc F-117A sử
dụng hai động cơ tuốc bin cánh quạt General
Electric F404 không
có bộ phận đốt lần hai, và hệ thống điều khiển bay phức
tạp. Nó có thể được tái nạp
nhiên liệu trên không. Để làm giảm chi phí phát triển, hệ thống điện tử, hệ thống
điều khiển bay và nhiều phần khác được lấy từ chiếc F-16 Fighting Falcon, F/A-18 Hornet và F-15E Strike Eagle sang
(vì thế những bộ phận này có thể được coi là thiết bị dự trữ nhằm bảo mật dự
án).
Những tính năng bị giảm sút cho kỹ thuật tàng hình là động cơ
mất 30% công suất, tỷ lệ bề mặt thấp,
và phải có hình dáng góc lớn nhằm giảm diện tích phản hồi radar.
F-117A được trang bị hệ thống hoa tiêu tinh vi và các hệ thống
tấn công được tích hợp vào trong một bộ hệ thống điện tử số. Nó không mang
radar, để làm giảm phát xạ diện tích phản hồi radar. Nó hoa tiêu chủ yếu
bằng GPS và hoa tiêu quán tính độ
chính xác cao. Nhiệm vụ được điều phối bởi một hệ thống kế hoạch tự động có thể
tự động thực hiện mọi khâu của nhiệm vụ tấn công, gồm cả khai hỏa vũ khí. Mục
tiêu được một hệ thống hình ảnh nhiệt hồng ngoại phát hiện, chỉ định cho một thiết
bị laser tìm
tầm và chỉ thị cho những quả bom dẫn đường laser.
Các khoang vũ khí riêng biệt bên trong F-117A có thể mang
2.300 kg vũ khí. Các vũ khí thường được trang bị là một cặp GBU-10, GBU-12, hay bom dẫn đường laser GBU-27, hai bom phá hầm ngầm BLU-109, hai
Wind- Corrected Munition Dispensers (WCMD), hay hai Vũ khí điều khiển chung (JDAMs), một quả
GPS/INS guided stand-off. Trên lý thuyết nó có thể mang hầu hết các loại vũ khí
có trong kho của Quân đội Hoa Kỳ, gồm cả bom hạt nhân B61. Một số loại bom không thể
được trang bị, bởi nó quá lớn để lắp vừa khoang trong, hay không tương thích
với hệ thống chở của F-117.
Lịch sử
Năm 1964, nhà toán học người Nga Pyotr Ya. Ufimtsev công
bố bài viết "Phương pháp Sóng Cạnh trong Lý thuyết Vật lý về Tán Xạ"
trong tạp chí của Viện Kỹ thuật Radio Moscow, trong đó ông trình bày sức mạnh
của sóng radar phản hồi tỉ lệ với cấu hình góc cạnh của một vật thể chứ
không phải là kích thước. Ufimtsev đã nối tiếp công trình lý thuyết của nhà vật
lý Đức Arnold Sommerfeld.
Arnold Johannes Wilhelm
Sommerfeld, ForMemRS (German: [ˈzɔmɐˌfɛlt]; 5 December 1868 – 26 April 1951) was a German theoretical
physicist who pioneered developments in atomic and quantum physics, and also
educated and mentored a large number of students for the new era of theoretical
physics.
Ufimtsev chứng minh rằng ông có thể tính toán thiết diện radar
của bề mặt cánh và dọc theo cạnh của nó. Kết luận hiển nhiên là ngay cả một máy
bay lớn cũng dễ dàng "biến mất" trước radar bằng cách tận dụng nguyên
lý này.
Tuy nhiên, thiết kế máy bay kiểu này làm cho nó mất ổn định khí
động học, và tình trạng của khoa học tính toán đầu những năm 60 không thể cung
cấp kiểu máy tính có thể tạo ra thiết kế cho phép những chiếc như F-117, F-22 Raptor hay B-2
Spirit bay được.
Dù sao, vào những năm 70, khi một nhà phân tích của Lockheed xem
xét các tài liệu nước ngoài và tìm thấy công trình của Ufimtsev thì máy tính và
phần mềm đã tiến bộ đáng kể, và đặt ra sự phát triển của một loại máy bay tàng
hình.
Quyết định sản xuất F-117A được đưa ra năm 1973, và một hợp đồng
đã được trao cho Lockheed Advanced Development Projects, thường được gọi là
"Skunk Works,"
tại Burbank, California.
Benjamin Robert Rich (June 18, 1925 – January 5, 1995) was the second
Director of Lockheed's Skunk Works from 1975
to 1991, succeeding its founder, Kelly Johnson.
Ngày 18 tháng 6 năm 1981, chuyến bay đầu tiên của mẫu YF-117A,
số sêri 79-0780, được thực hiện tại Hồ Groom, bang
Nevada, chỉ
31 tháng sau quyết định phát triển toàn diện.
Khu vực 51 (tiếng Anh: Area 51) là một khu vực quân sự của
lực lượng Không quân Hoa Kỳ. Tên chính thức của khu vực là Sân bay Homey (ICAO: KXTA) và Hồ Groom.
Chiếc F-117A được giao lần đầu năm 1982, khả năng hoạt động được
hoàn thiện tháng 10 năm 1983, và chuyến giao hàng cuối cùng vào mùa hè năm 1990.
Không quân phủ nhận sự tồn tại của loại máy bay này cho tới tận năm 1988, sau
đó vào tháng 4 năm 1990 một chiếc đã được trưng bày trước công chúng tại Căn cứ Không quân Nellis,
Nevada, thu hút hàng chục nghìn người tham quan.
"Nellis
Air Force Range" and nearby federal lands
Số lượng hiện có là 54 chiếc; 36 chiếc sẵn sàng chiến đấu, số
còn lại cho huấn luyện,....
Trong những năm đầu của chương trình, từ 1984 tới giữa năm 1992,
phi đội F-117A đặt tại Tonopah Test Range, Nevada và
nó thuộc quyền quản lý của Nhóm Chiến lược 4450. Nhóm 4450 được sáp nhập vào Phi đội
Chiến đấu Chiến lược 37 năm 1989. Năm 1992, toàn bộ phi đội
được chuyển giao cho Căn cứ
Không quân Holloman, New Mexico, nơi nó thuộc quyền quản lý của Phi đội Chiến đấu 49. Việc
di chuyển khiến những chuyến bay của Key Air không còn cần thiết nữa, trước đó
Key Air đã chở 22.000 hành khách trên 300 chuyến bay từ Nellis tới Tonopah mỗi
tháng.
F-117 hạ cánh
Khi Không quân tuyên bố, "Streamlined management by
Aeronautical Systems Center, Wright-Patterson AFB, Ohio, phối
hợp kỹ thuật tàng hình vào các chương trình phát triển và sản xuất để đẩy nhanh
tốc độ phát triển máy bay... Chương trình F-117A đã chứng tỏ rằng một máy bay
tàng hình có thể được thiết kế để có độ tin cậy và khả năng bảo dưỡng
tốt." Thống kê bảo dưỡng máy bay tương tự các loại máy bay chiến thuật
khác có độ phức tạp tương tự. Hỗ trợ hậu cần do Sacramento Air Logistics
Center, McClellan AFB,
California đảm nhiệm, F-117A được giữ bảo mật kỹ thuật thông qua một hệ thống
kế hoạch cải thiện vũ khí tại USAF Plant 42 ở Palmdale, California.
Chiến đấu
F-117 đã được sử dụng nhiều lần trong chiến tranh. Phi vụ đầu
tiên của nó diễn ra trong cuộc chiến Panama - Hoa Kỳ năm
1989. Trong lần đó hai chiếc F-117A Nighthawk đã ném hai quả bom xuống sân
bay Rio Hato. Sau
này trong Chiến tranh Vùng Vịnh, nó đã thực hiện tốt nhiệm vụ
ném những quả bom thông minh xuống
các mục tiêu quân sự Iraq. Từ đó nó đã được sử dụng tại Chiến tranh Kosovo năm 1999, Chiến dịch
Tự do Bền vững và trong cuộc xâm lược Iraq năm 2003.
Thiệt hại trong chiến
đấu
Vòm kính buồng lái chiếc F-117 bị bắn hạ
ngày 27 tháng 3 năm 1999, gần làng Budjanovci, Serbia/Yugoslavia.(Bảo tàng hàng không Belgrade)
Một chiếc F-117 đã bị bắn hạ trong chiến đấu bởi các lực lượng
Serbia (Nam Tư) trong Chiến tranh Kosovo.
Serbia - tên chính thức là Cộng hòa Serbia (tiếng Serbia: Република
Србија - Republika Srbija) - là
một quốc gia không giáp
biển thuộc khu vực đông nam châu Âu.
Ngày 27 tháng
3 năm 1999, trong
cuộc Chiến tranh Kosovo, Tiểu đoàn số 3 Lữ đoàn Tên
lửa 250 dưới quyền chỉ huy của Đại tá Zoltán Dani, được
trang bị tên lửa Isayev S-125 'Neva-M' (tên hiệu NATO SA-3 'Goa'), đã bắn hạ chiếc F-117A số hiệu 82-806
bằng một quả tên lửa Neva-M.
Theo Wesley Clark và
các vị tướng khác của NATO, các lực lượng phòng không Nam Tư đã thấy rằng họ có
thể phát hiện những chiếc F-117 bằng các loại radar "cổ lỗ" Xô viết
hoạt động ở tầm sóng dài. Điều này, cộng với việc máy bay mất khả năng tàng
hình khi cửa phụt khí bị ướt hay mở khoang bom, khiến chúng bị phát hiện trên
màn hình radar.
Phi công lái máy bay sống sót và sau này được các lực
lượng NATO cứu.
Tuy nhiên, xác chiếc F-117 không bị phá hủy hoàn toàn, và có tin cho rằng người
Serb đã mời chuyên gia Nga tới xem xét những mảnh vỡ, điều này chắc chắn khiến
kỹ thuật tàng hình Hoa Kỳ bị tiết lộ.
Các tên lửa SAM được điều khiển bằng tay với sự hỗ trợ của thiết
bị tầm nhiệt và thiết bị dò tìm radar gồm biến thể Pechora-M của SA-3 được cho
là đã được đem ra sử dụng. Có lẽ radar đã được dùng để truy theo dấu vết F-117
trong một thời gian ngắn, sau đó hệ thống sẽ phóng một số tên lửa dẫn đường
SA-3 vào tọa độ được dự tính trước là F-117 sẽ bay qua (căn cứ và tốc độ, hướng
bay của mục tiêu).
Theo thông báo nhiều tên lửa SA-3 đã được phóng, và một trong số
chúng đã nổ ở khoảng cách đủ gần chiếc F-117A khiến phi công phải thoát ra.
Theo một cuộc phỏng vấn, Zoltán Dani đã giữ an toàn được đa số các trận địa tên
lửa của mình và có một số trạm thám trắc giúp phát hiện ra F-117 và các loại
máy bay khác. Zoltán và binh lính của mình đã dự đoán các đường bay của những
chiếc F-117A trước đó nhờ quan sát bằng kính viễn trắc ở một số thời điểm và
nhờ các trạm chỉ điểm radar cũng như những mục tiêu bị ném bom, vì vậy Lữ đoàn
của ông đã phát hiện được đường bay của chiếc F-117A #82-806. Đội tên lửa của
ông và các trạm chỉ điểm radar sau đó đã xác định vị trí chiếc F-117A và phóng
tên lửa. Zoltán cũng cho biết những chiếc radar của ông đã được cải tiến để có
khả năng phát hiện F-117A tốt hơn, nhưng ông không nói rõ phần nào được cải
tiến. Nhiều phần của chiếc máy bay bị bắn rơi đã được triển lãm tại Bảo tàng
Hàng không Yugoslav ở Belgrade.
Một chiếc F-117A thứ hai đã bị hư hại nặng trong một phi vụ ném
bom trong Chiến tranh Kosovo, và dù quay về được căn cứ, nó hư hại nặng tới mức
không bao giờ còn cất cánh được nữa, coi như là bị tiêu diệt.
Theo tạp chí "Hàng không và vũ trụ" của Nga, tháng
12/2006, 1 chiếc máy bay F-117A bị bắn rơi bởi tên lửa Igla ngày 20/1/1991 tại
Iraq. 3 giờ ngày 14/9/1997 máy bay F-117A lại bị rơi tại căn cứ quân sự
Holloman do trục trặc kỹ thuật. Trong chiến tranh Kosovo, phía Nam Tư tuyên bố
bắn rơi 2 chiếc F-117A, 1 do SA-3 bắn, 1 do MiG-29 hạ. Như vậy, có thể đã có
tới 4 chiếc trên 59 chiếc F-117A bị rơi do nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên, giới
chức quân sự Mỹ chỉ thừa nhận tổn thất 1 chiếc, đó chính là chiếc F-117A bị tên
lửa SA-3 bắn rơi ngày 27/3/1999 cách Bengrad 32 km, có xác máy bay làm
bằng chứng rõ ràng.
Tương lai
Với những thành công trong Chiến tranh Kosovo và các cuộc Chiến tranh Iraq cũng như tỷ lệ tham gia
chiến đấu cao của mình, chiếc F-117 đã chiếm được vị trị như là loại máy bay
"mũi nhọn"—phục vụ mục đích đánh mù kẻ thù khi tiêu diệt các cơ sở
chỉ huy, kiểm soát và radar của đối thủ ngay từ những giây phút đầu của cuộc
chiến. Tuy nhiên dù sao F-117 cũng được thiết kế với những kỹ thuật cuối thập
kỷ 1970. Công nghệ tàng hình của nó, tuy vẫn hiện đại hơn bất kỳ một loại máy
bay nào khác trừ hai loại máy bay mới B-2
Spirit và F-22A, nhưng đòi hỏi chi phí bảo
dưỡng đáng kể.
Hơn nữa, thiết kế tàng hình dựa trên hình dáng bên ngoài (gây
ảnh hưởng tới tính năng khí động lực) thể hiện một kỹ thuật chống radar kiểu cũ
và khác biệt so với ngày nay. Vì thế đã có ý định sơ bộ cho phi đội máy bay này
ngừng hoạt động năm 2008.
Số lượng chế tạo loại F-22A tăng lên bốn chiếc và việc chúng bắt
đầu bước vào hoạt động trong Không lực Hoa Kỳ khiến việc cho phi đội F-117 nghỉ
hưu bị đưa ra tranh cãi. Thông tin rò rỉ từ một phiên bản phác thảo của Báo cáo
Quốc phòng Quý tư 2006 và Ngân sách Quốc phòng 2007 cho thấy toàn bộ phi đội
đang được đề nghị ngừng hoạt động nhường chỗ cho những chiếc F-22A mới đang
được đặt mua. Kế hoạch này đã bị gạt ra khỏi cả Ngân sách tài chính 2007 và
phiên bản cuối cùng của Báo cáo Quốc phòng Quý tư.
Những lời chỉ trích cho rằng những yêu cầu cho F-117 (máy bay
tấn công mặt đất không đa dụng) về hưu, bị ảnh hưởng lớn từ các cựu phi công
chiến đấu vốn đang chiếm những chức vụ quan trọng trong Không quân. Hơn nữa,
những người chỉ trích đưa ra lý lẽ rằng F-117A Nighthawk có thể mang năm ngàn
pound vũ khí ở khoang trong (thậm chí cả một quả bom hạt nhân B61) mà
vẫn đảm bảo tính tàng hình, trong khi chiếc F-22A chỉ có thể mang hai ngàn
pound vũ khí ở khoang trong và chỉ có thể mang những quả bom to treo tại mấu
ngoài, vì thế ảnh hưởng tới khả năng tàng hình và khả năng thao diễn chiến đấu.
Tuy nhiên, những người ủng hộ đề xuất cho nghỉ hưu cho rằng chi
phí bảo dưỡng cao và kỹ thuật tàng hình kiểu cũ không có hiệu quả trước radar
tầm sóng dài, cộng với hạn chế vì tốc độ dưới siêu âm khiến chiếc F-117 dễ gặp
nguy hiểm trong chiến đấu. Họ cho rằng loại F-22A là một thay thế hợp lý khi
xem xét:
·
Khả năng tàng hình của nó gần tương đương loại B-2, và theo báo
cáo cao hơn loại F-117.
·
Nó có thể bay ở tốc độ siêu âm mà không cần dùng buồng đốt lần
hai và vì thế có thể tới mục tiêu cũng như vượt qua những vùng nguy hiểm nhanh
hơn.
·
Vật liệu hấp thụ radar của nó yêu cầu bảo dưỡng thấp hơn loại
F-117.
·
Loại bom đường kính nhỏ (SDB)
250 lb mới đã được đưa vào sử dụng. Nó được thiết kế đặc biệt để tương
thích với khoang chứa trong của chiếc F-22A. Loại bom này có khả năng đâm xuyên
tương tự loại BLU-109 bomb 2000 lb
lớn hơn.
·
Chiếc F-22 có hệ thống điện tử hiện đại hơn chiếc F-117, vì thế
nhận biết các mục tiêu cũng như các mối đe dọa cả dưới mặt đất và trên không tốt
hơn.
·
Bởi F-22 là một máy bay chiến đấu, nó có khả năng tự bảo vệ
trong những lần thực thi nhiệm vụ.
Dù đề xuất cho phi đội F-117 nghỉ hưu đã bị hủy bỏ, Không quân
đã đóng cửa trường dạy bay loại F-117, và cũng đã thông báo việc ngừng sử dụng
F-117. Điều này khiến tương lai của F-117 càng thêm mờ mịt.
Khá ngạc nhiên, nhiều chiếc F-117 được sơn ngụy trang màu xám
trong một cuộc thực nghiệm nhằm xác định hiệu năng tàng hình của loại F-117 ở
điều kiện ban ngày. Nếu cuộc thực nghiệm thành công, nó sẽ dẫn tới sự thay đổi
từ màu đen kiểu cũ sang mẫu màu mới, khiến cho lần đầu tiên nó có thể hoạt động
trong các phi vụ ban ngày. Tới đầu năm 2006, kết quả cuộc thực nghiệm này vẫn
chưa được công bố. Tương tự, trong năm, 2004 và 2005 đã có nhiều chương trình
nâng cấp giữa kỳ được tiến hành với chiếc F-117, gồm cả nâng cấp hệ thống
điện tử.
Linh tinh
·
Một buổi quảng cáo hàng của hãng Sprint trong
thập kỷ 1990 đã trưng bày một bức hình F-117 lớn, khi ấy thường bị gọi sai
là Candice Bergen, người
dẫn chương trình đã gọi đó là chiếc B-2.
·
Tên hiệu:
·
Trước khi được đặt tên chính thức, các kỹ sư và phi công thử
nghiệm thường gọi loại máy bay gồ ghề, ban ngày phải cất giấu để tránh các vệ
tinh trinh sát Xô viết là "Cockroaches", cái tên này thỉnh thoảng
vẫn được sử dụng.
·
Một tên hiệu khác thỉnh thoảng được dùng là "Wobblin
Goblin" vì loại máy bay này bị cho là kém ổn định ở tốc độ thấp, dù
các phi công F-117 cho điều này là không chính xác.
·
Vì hình dạng của mình, vốn đặt ưu tiên tính năng tàng hình hơn
tính năng khí động học, mô hình đầu tiên của mẫu sẽ trở thành chiếc F-117 sau
này được gọi là "The Hopeless Diamond"..
·
Những khu vực xung quanh Căn cứ
Không quân Holloman đơn giản gọi loại máy bay này là "Stealths"
(Sing. "Stealth").
·
Trong cuộc ném bom năm 1999 vào Serbia, sau
khi một chiếc F-117 bị quân đội Serbia bắn rơi, một nhóm nhạc Serbia Indexovo radio pozorište đã
sóng tác một bài hát trào phúng "El kondor pada"
về những phi công của nó.
·
Trong Thập kỷ 1980, Jane's Information Group đã
gọi nhầm F-117 là F-19, và sử dụng ảnh minh họa tưởng tượng trong cuốn All the
World's Aircraft. Cả bên tạo mô hình Testors và
Monogram đều đưa ra những mô hình "F-19 Tàng hình" lý thuyết; không
bên nào quan tâm tới sự giống nhau của nó với F-117.
Bên sử dụng
Tham khảo
8.
^ Goodall, James C. "The Lockheed F-117A Stealth
Fighter". America's Stealth Fighters and Bombers: B-2, F-117, YF-22 and
YF-23. St. Paul, Minnesota: Motorbooks International, 1992. ISBN
0-87938-609-6, p. 21
9.
^ Nixon, Mark. "Gallant Knights, MiG-29 in Action
during Allied Force." AirForces Monthly magazine, January 2002
10.
^ “Model
Designation of Military Aerospace Vehicles” (PDF). United States
Department of Defense. 2004-05-12. tr. page 38. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|date=
(trợ giúp)
11.
^ Rhodes, Jeffrey P. (tháng 7 năm 1990). “The Black Jet”. Air Force Magazine (Air Force
Association) 73 (7). Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2007.
12.
^ “F-117 History”. F117reunion.com. F-117 Stealth Fighter Association. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2007.
·
Crickmore, Paul F. and Alison J. Nighthawk F-117 Stealth
Fighter. St. Paul, Minnesota: Motorbooks, 2003. ISBN
0-7603-1512-4.
·
Donald, David, ed. Black Jets: The Development and
Operation of America's Most Secret Warplanes. Norwalk, Connecticut: AIRtime
Publishing Inc., 2003. ISBN
1-880588-67-6.
·
Winchester, Jim, ed. "Lockheed F-117". Modern
Military Aircraft (Aviation Factfile). Rochester, Kent, UK: Grange
Books plc, 2004. ISBN
1-84013-640-5.
·
The World's Great Stealth and
Reconnaissance Aircraft. New York: Smithmark, 1991. ISBN
o-8317-9558-1.
No comments:
Post a Comment