Cách nay đúng 110 năm, người Việt đã tìm cách đầu độc binh lính
Pháp ở Hà-Nội
Ngày 27
tháng 06, 1908
·
1908 – Bồi bếp
và binh lính người Việt phục vụ cho quân Pháp đóng ở thành Hà Nội tiến hành vụ mưu sát và binh biến mang tên Hà Thành đầu độc.
Bối
cảnh
Sang đầu thế kỷ 20, sỹ phu Việt Nam đã chuyển sang đấu tranh qua
nhiều hình thức sau những thất bại của phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục. một trong số đó là mặt trận
tư tưởng, các sỹ phu tạo phong trào viết sách báo, dạy học, diễn thuyết công
khai hợp pháp, hô hào bỏ cũ theo mới, kêu gọi lòng ái nước, thúc đẩy khởi
nghĩa.
Đông Kinh Nghĩa Thục (chữ Hán: 東京義塾;[1] lập ra từ tháng 3
năm 1907 và chấm dứt vào
tháng 11 năm 1907) là một phong trào nhằm thực hiện cải cách xã hội Việt Nam vào đầu thế kỷ 20 trong thời Pháp thuộc. Mục đích của phong trào
là: khai trí cho dân, phương tiện được hoạch định: mở những lớp dạy học không
lấy tiền (để đúng với cái tên là nghĩa thục) và tổ chức những cuộc diễn thuyết
để trao đổi tư tưởng cùng cổ động trong dân chúng.
Citadel of Hanoi.
Một số đã đội lốt thầy bói, thầy tướng để đi vào các đền thờ để
thực hiện bói toán cầu cơ, xen lồng với việc tuyên truyền. Hà Nội là một trọng
điểm tuyên truyền, Phố Cửa Nam nhộn nhịp đủ càng tầng lớp người qua lại,
họ là binh lính, cai đội, đầu bếp, người bán hàng rong.
Qua nhiều lần tiếp xúc với các thầy tướng số, mối quan hệ đã trở
nên thân mật với một số binh lính thuộc pháo đội công vụ, trung đoàn 4 pháo
binh, từ chỗ thân mật còn làm nhận thức được sự đối xử tàn tệ của bọn sĩ quan
Pháp đối với họ, sự đối xử bất bình đẳng giữa binh lính Pháp và Việt.
Nhiều cuộc họp bí mật đã diễn ra, chọn ra và tổ chức các nhân vật
nội ứng tại tại nhà thầy tướng Nguyễn Văn Phúc ở phố hàng Buồm và nhà 20 phố cửa Nam.
Cuộc binh biến đã bị hoãn nhiều lần. Lần thứ nhất ấn định là
15/11/1907. Lần thứ 2 ấn định là 16-5-1908. Lần thứ 3 ấn định hạ tuần tháng 6
năm 1908.
The Poisoning
at Hanoi Citadel (Vietnamese:Hà
Thành đầu độc) was a poisoning plot which occurred in 1908 when a group of
Vietnamese indigenous tirailleurs attempted to poison the
entire French colonial army's garrison in the Citadel of Hanoi. The aim of
the plot was to neutralize the French garrison and make way for Hoang Hoa Tham's rebel army
to capture Hanoi. The plot was disclosed, and then was suppressed by the
French.
Lính Tập
Tonkinese
riflemen in Tonkin, 1884
Diễn
biến trong thành Hà Nội
Những người bị bắt trong vụ án Hà thành đầu
độc
Ngày 24/6/1908, Thiếu tướng De Nays Candau, chỉ huy trưởng pháo
binh Đông Dương, nhận được một thư nặc danh nói rằng có âm mưu binh biến ở Hà
Nội, có cả thường dân lẫn quân nhân người Việt của nhiều đơn vị tham gia, mà
những kẻ cầm đầu phần nhiều thuộc pháo đội công vụ và một viên Cai thuộc trung
đoàn 4 Pháo binh.
Cùng thời gian này trung uý Delmont Bebet, pháo đội trưởng công
vụ đã nhận được báo cáo về một viên đội khả nghi thuộc pháo đội này và một viên
cai thuộc trung đoàn 4 Pháo binh.
Thống Sứ Bắc Kỳ Louis Jules Morel ra lệnh mở cuộc điều tra công
khai. Thấy bị động nên tất cả đồng ý hành động gấp rút, nếu không sẽ bị bắt cả.
Lực lượng làm binh biến là các bồi bếp và binh lính người Việt (lính khố
đỏ) thuộc trung đội công nhân pháo thủ Hà Nội nằm trong trung đoàn
pháo binh bảo vệ thành Hà Nội của Pháp. Đứng đầu nhóm này là bếp Hiên, còn gọi
là Hai Hiên, cùng với bếp Xuân, bếp Nhiếp, Đặng Đình
Nhân tức
"đội Nhân" (chức cai đội), Nguyễn Trí Bình, Dương Bé,... tất cả có
trên 10 người. Nhóm có nhiệm vụ nội ứng bên trong: đầu độc 2000 binh lính Pháp thuộc
hai trung đoàn pháo binh và bộ binh Pháp đóng trong thành Hà Nội, rồi bắn pháo
hiệu làm hiệu lệnh tiến công cho các cánh quân của nghĩa quân chống Pháp đánh
vào thành Hà Nội. Tuy vậy mật vụ Pháp đã biết trước một phần kế hoạch do nghi
ngờ các hoạt động của bếp Hiên.
Trong bữa tối khoảng 20 giờ ngày 27 tháng 6 năm 1908, 125 tên
Pháp thuộc trung đoàn 4 pháo binh và 80 tên khác thuộc trung đoàn 9 bộ binh
thuộc địa được cho ăn cà độc dược bị
trúng độc và bất tỉnh. Chưa đến giờ đã định là 21 giờ nên tất cả các toán, kể
cả Nghĩa quân bên ngoài chưa tiến hành, thì cai Trương đến nhà thờ Hà Nội báo
cho cố Ân, một cố đạo người Pháp về âm mưu đánh úp Hà Nội trong đêm. Cố đạo Ân
lập tức gọi điện thoại báo. Cùng lúc ấy Trung tướng Piel, Tổng tư lệnh quân đội
Pháp, được tin báo là các quân sĩ thuộc trung đoàn 4 pháo binh và trung đoàn 9
bộ binh thuộc địa ở trong thành đã bị đầu độc, hiện một số lớn đã nằm bất tỉnh.
Rồi Thống Sứ Morel, vài phút sau đó, báo tin cho Tướng Piel biết có những cuộc
tập hợp nghi ngờ ở xung quanh thành. Quân Pháp đã báo động toàn thành và toàn
bộ lính người Việt trong thành tham gia khởi nghĩa, chưa kịp bắn ba phát đại
bác như đã định, thì đã bị tước vũ khí và bị bắt giam. Ngày hôm sau Pháp đem ra
xử và khép tội tử hình đối với 13 binh lính và bồi bếp người Việt.
Số lính Pháp thì không có ai thiệt mạng vì độc dược.
Các
cánh quân tiếp ứng bên ngoài
Lực lượng tiếp ứng bên ngoài gồm 3 cánh quân:
·
Một đội nghĩa quân chống Pháp khoảng 200 người được lệnh đánh thẳng
vào Đồn thủy phía bờ sông (là khu nhượng địa, nay nằm ở vị trí bệnh viện Quân đội 108 ngày nay);
·
Một mũi chờ sẵn trên các thuyền đậu gần một xưởng thuốc lá (có lẽ
là trên bờ hồ Trúc Bạch hay hồ Tây) tiến đánh thẳng vào cửa Bắc thành.
·
Cánh quân thứ ba, rất nhiều nghĩa quân từ Sơn Tây về yểm trợ,
trong đó 20 người là người của Hoàng Hoa Thám, được trang bị súng lục, chờ sẵn
trước vọng lâu của phủ Toàn quyền, chuẩn bị đánh trại lính khố
đỏ ở phía
Tây (của nơi tập kết).
Hoàng Hoa
Thám (1858 – 10 tháng 2 năm 1913), còn gọi là Đề Dương, Đề Thám hay Hùm
thiêng Yên Thế, là người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Thế chống Pháp (1885–1913).
Cả ba cánh quân sẵn sàng chờ hiệu lệnh tiến công từ trong thành
phát ra. Chờ đợi mãi không thấy hiệu lệnh tiến công như đã hẹn từ trong thành
vọng ra, các cánh quân biết là bị lộ. Theo lệnh của Hoàng Hoa Thám, nghĩa quân
ở các hướng khẩn trương rút ra ngoài để khỏi bị quân Pháp bắt.
Phản
ứng của nhà cầm quyền Đông Pháp
Xử tử
Thủ cấp của Dương Bé, Tư Bình và Đội Nhân bị
xử trảm ngày 8 tháng 7 năm 1908 trong vụ "Hà Thành đầu độc"
Hội đồng đề hình (tiếng
Pháp: Commission
criminelle) thành lập ngày 28 tháng
6 năm 1908 có De
Mirabel làm chánh thẩm, Duvillier (sau bị thay thế bởi Bosc) và Villain làm bồi
thẩm. Công tố viên là
Grillaud des Fontaines kết tội lính Việt "xâm phạm nền an ninh của chính
phủ Bảo hộ".
1.
Đợt 1: Ngày 8 tháng
7 năm
1908, quân Pháp đưa 3 người đầu tiên: Đặng
Đình Nhân (Đội
Nhân), Nguyễn Trị Bình (Tư Bình), và Nguyễn Văn Cốc (Dương Bé) ra xử chém ở
phía trước cột cờ Hà Nội (tại vườn hoa Chi Lăng ngày nay). Sau đó quân Pháp bêu
đầu của các nghĩa quân bị chém, nhằm ra oai và khủng bố tinh thần dân Việt, để
làm thui chột sự phản kháng của người Việt yêu nước.
2.
Đợt 2: Ngày 3 tháng
8 năm
1908 xử tử thêm ba người: Nguyễn Văn Hiên (Bếp Hiên), Cai Ngà, và Bếp Xuân.
3.
Đợt 3: Ngày 29 thì hành quyết ba người nữa: Lang Sẹo, Cai Xe và
Cai Tôn.
4.
Đợt 4: Cuối cùng ngày 27
tháng 11 năm
1908 thì bốn người cuối cùng bị chém: Đỗ Văn Đàm (Đồ Đàm), Đội Hổ, Lý Chánh, và
Vinh.
Ngoài 13 người phải tội chém, Hội đồng đề hình tuyên án sáu
người khác tử hình khiếm diện, tổng cộng là 19 bị tội phải chết.
Địa điểm chém là Vườn Bàng ở gần chợ Bưởi.
Mộ tập thể không đầu của 9 người này lúc đầu chôn ngay tại pháp
trường.
Về sau khi người Pháp lấy Vườn Bàng làm xưởng nhuộm thảm thì mộ
bị chuyển tới một khu đất thuộc Nghĩa Đô, Từ Liêm.
Năm 1988, ngôi mộ này đã được xác định chính xác là nằm tại vườn
nhà ông Nguyễn Đức Hỷ, xóm 2 phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy Hà Nội.
Cây cầu Giấy năm 1885, nơi Francis Garnier (21
tháng 12 năm 1873) và Henri Rivière (19
tháng 5 năm 1883) bị giết.
Án tù
Ngoài những án tử hình, Hội đồng đề hình xét bốn người bị tù khổ
sai chung thân, 26 bị khổ sai hữu hạn (5-20 năm tù), và 10 bị án 1-5 năm tù.
Tổng cộng hình án là 59 người.
No comments:
Post a Comment