Cách nay đúng 156 năm, triều
đình nhà Nguyễn đã phải ký hiệp ước Nhâm tuất với Pháp
Hòa ước Nhâm Tuất (1862)
Hiệp ước
được ký ngày 5 tháng 6 năm 1862 tại Sài
Gòn giữa đại diện triều Nguyễn (thời vua Tự Đức) là chánh sứ Phan Thanh
Giản và phó sứ Lâm Duy Hiệp (hay Thiếp) với đại diện của Pháp là thiếu tướng Bonard và đại diện của Tây Ban Nha là đại tá Don Carlos Palanca Guttiere.
Đây chính là hòa ước bất
bình đẳng "đầu tiên" của Việt Nam ký với Pháp, mở đầu cho "cuốn
vong quốc sử Việt Nam" từ nửa đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 trong lịch sử Việt
Nam.
Nguyên nhân
Bản đồ Nam Kỳ Lục Tỉnh giai đoạn (1841-1862).
Theo sử liệu thì nguyên nhân chính khiến triều đình Tự Đức phải
ký kết hiệp ước là vì lúc đó ở Bắc Kỳ có các cuộc nổi dậy đang đánh phá dữ dội
(đáng kể nhất là của: Tạ Văn Phụng và Cai
Tổng Vàng, Nông Hùng Thạc)...mà
trong Nam Kỳ thì thực dân Pháp đã đánh
chiếm được bốn tỉnh là: Gia
Định, Định Tường, Biên
Hòa và Vĩnh
Long.
Sau khi so sánh hai mối nguy, triều đình Tự Đức bèn sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Sài Gòn giảng
hòa với thực dân, để có thể đưa đại quân ra tiêu diệt các cuộc nổi dậy ở đất
Bắc đang uy hiếp ngai vàng của dòng họ Nguyễn.
Chân dung
thông dụng của vua Tự Đức
Diễn
biến
Giữa lúc quân Pháp không ngờ nhất, thì thiếu tá Simon đang công
tác ở ngoài khơi Trung Kỳ trở về Sài Gòn báo tin là vua Tự Đức vừa đề nghị mở
cuộc giảng hòa. Tháng 4 năm Nhâm Tuất, đô đốc
Bonard liền phái Simon mang chiến hạm Forbin có bố trí đại bác, ba chiếc thuyền
gỗ cùng 200 lính đến cửa Thuận An (Huế), để đưa ra ba yêu sách
là: Gửi sứ thần có thẩm quyền quyết định vào Gia Định, bồi thường
chiến phí và phải nạp trước 100.000 Franc để đảm bảo thiện
chí cầu hòa.
Theo G. Taboulet thì tàu Forbin đưa sứ bộ rời Huế vào ngày 28 tháng 5 năm 1862, đến Sài Gòn vào
ngày 3 tháng 6 năm 1862, qua
ngày 5 tháng 6 năm 1862 (9 tháng 5 âm lịch năm Nhâm
Tuất) thì hai bên ký bản hòa ước trên tàu chiến Duy-pe-rơ của Pháp
đậu ở bến Sài Gòn.
Ký hòa ước xong, triều đình sai ông Phan Thanh Giản làm
tổng đốc Vĩnh
Long, ông Lâm Duy Hiệp làm tuần phủ Khánh Thuận, để giao thiệp với
các quan nước Pháp ở Gia
Định.
Tháng 2 năm Quý Hợi (1863),
thiếu tướng Bonard và đại tá Palanca ra Huế gặp vua Tự Đức để công nhận sự giảng hòa của ba nước. Xong
rồi thiếu tướng Bonard về Pháp nghỉ, Hải quân thiếu tướng De la Grandière
sang thay.
Bấy giờ nước Tây Ban Nha cũng nhường quyền lấy đất làm thuộc địa
cho nước Pháp, chỉ nhận tiền binh phí và quyền được cho giáo sĩ đi giảng đạo mà
thôi.
Hiệp ước Nhâm Tuất tồn tại cho đến ngày 15 tháng
03 năm 1874, thì
bị thay thế bằng Hoà ước Giáp Tuất 1874, theo
chiều hướng có lợi cho Pháp hơn nữa.
Các
điều khoản quan trọng
Hòa ước Nhâm Tuất có 12 khoản, trừ các điều khoản có tính cách
ngoại giao, thì 9 khoản sau đây được coi là quan trọng hơn cả:
·
Khoản 1: Từ nay về sau, hòa
bình sẽ mãi mãi được thiết lập giữa một bên là Hoàng đế Pháp và Nữ hoàng Tây
Ban Nha và một bên là Vua Đại Nam. Tình hữu nghị toàn diện và lâu bền cũng sẽ
được thiết lập giữa thần dân ba nước dù họ ở bất cứ nơi đâu.
·
Khoản 2: Thần dân hai nước Pháp
và Tây Ban Nha được hành đạo Gia Tô ở nước Đại Nam, và bất luận người nước Đại Nam ai muốn
theo đạo Gia Tô, đều sẽ
được tự do theo, nhưng những người không muốn theo đạo Gia Tô thì không được ép
họ theo.
·
Khoản 3: Chủ quyền trọn ba tỉnh
là Biên
Hòa, tỉnh Gia Định và tỉnh Định Tường, cũng như đảo Côn Lôn, do hiệp
ước này, được hoàn toàn nhượng cho hoàng đế nước Pháp. Ngoài ra, các thương gia
Pháp được tự do buôn bán và đi lại bằng bất cứ tàu bè nào trên sông lớn của xứ Cam Bốt và trên tất cả các chi lưu của con sông này; các
tàu binh Pháp được phép đi xem xét trên con sông này hay trên các chi lưu của
nó cũng được tự do như vậy.
·
Khoản 4: Sau khi đã nghị hòa, nếu
có nước ngoài nào muốn, bằng cách gây sự hoặc bằng một hiệp ước giành lấy một
phần lãnh thổ của nước Đại Nam, thì hoàng đế nước Đại Nam sẽ báo cho hoàng đế
nước Pháp biết bằng một sứ thần,.. để hoàng đế nước Pháp được hoàn toàn tự do đến
tiếp cứu nước Đại Nam hay không. Nhưng, nếu trong hiệp ước với nước ngoài nói
trên, có vấn đề nhượng địa, thì sự nhượng địa này có thể được thừa nhận nếu có
sự ưng thuận của hoàng đế nước Pháp.
·
Khoản 5: Người các nước Pháp và
Tây Ban Nha được tự do buôn bán tại ba hải cảng là Tourane (Đà Nẵng), Ba
La (Ba Lạt) và Quảng Yên. Người
nước Đại Nam cũng được tự do buôn bán tại các hải cảng của nước Pháp và Tây Ban
Nha như vậy, nhưng phải theo thể thức luật định...
·
Khoản 8: Hoàng đế nước Đại Nam
sẽ phải bồi thường một số tiền là bốn triệu piastre, trả
trong 10 năm. Vì nước Đại Nam không có tiền piastre sẽ được tính bằng 72% lạng bạc.
·
Khoản 9: Nếu có cướp bóc, giặc
biển hoặc kẻ gây rối người nước Nam nào, phạm tội cướp bóc hoặc gây rối trên
các đất thuộc Pháp, hoặc nếu có người Âu Châu phạm tội nào đó, lẩn trốn trên đất
thuộc nước Nam thì ngay khi nhà nước Pháp thông tri cho nhà chức trách Đại Nam,
giới chức này phải cố gắng bắt giữ thủ phạm để giao nộp cho nhà chức trách
Pháp. Vấn đề cướp bóc, giặc biển hay quân phiến động nước Nam sau khi phạm tội,
lẩn trốn trên đất thuộc Pháp, cũng sẽ được xử như vậy.
·
Khoản 10: Dân chúng ba tỉnh là Vĩnh
Long, An
Giang và Hà Tiên sẽ được
tự do buôn bán trong ba tỉnh thuộc Pháp miễn tuân theo luật lệ hiện hành, nhưng
những đoàn tàu chở binh lính, vũ khí, đạn dược hay lương thực giữa ba tỉnh nói
trên và Nam Kỳ chỉ được thực hiện bằng đường biển. Tuy nhiên, hoàng đế nước Pháp
thuận cho các đoàn tàu chở các thứ trên vào Cam Bốt được có cửa khẩu là lạch Mỹ Tho (Định Tường), gọi là Cửa Tiền, song với điều kiện là
các giới chức Đại Nam phải báo trước cho đại diện của hoàng đế nước Pháp, vị đại
diện này sẽ trao cho họ một giấy thông hành. Nếu thể thức này không được tuân
theo, và một đoàn vận tải như vậy nhập nội mà không có giấy phép thì đoàn đó và
những gì hợp thành đoàn đó sẽ bị bắt giữ và các đồ vật sẽ bị phá hủy.
·
Khoản 11: Thành Vĩnh Long sẽ được
binh lính (Pháp) canh gác cho đến khi có lệnh mới mà không ngăn cản bằng bất cứ
cách nào hoạt động của các quan Đại Nam. Thành này sẽ được trao trả cho hoàng đế
nước Đại Nam ngay khi Ngài đình chỉ cuộc chiến loạn do lệnh Ngài tại các tỉnh
Gia Định và Định Tường, và khi những người cầm đầu cuộc phiến loạn này ra đi và
xứ sở được yên tĩnh và quy phục như trong một xứ bình yên.
Sau
khi ký kết
Sau khi nhận ra sự thua thiệt của mình, và nghe thấy sự bất bình
của sĩ dân miền Nam; nên song song với việc điều quân đi trấn áp các cuộc nổi
dậy ở đất Bắc, triều đình Tự Đức cũng lên kế hoạch khẩn trương để đi chuộc
đất, nhưng không thành công
Bìa quyển
1, Việt Nam sử lược, in lần đầu tiên, 1920
Vua Dực Tông tuy thế bất đắc dĩ phải nhường đất ba tỉnh Nam Kỳ
cho nước Pháp, nhưng trong bụng vẫn muốn cố hết sức để chuộc lại, vì là đất Gia
Định là đất khai nghiệp của nhà Nguyễn và lại là đất quê ngoại của ngài, nên
chi hoà ước đã ký rồi, mà ngài vẫn sai quan thương nghị với quan nước Pháp về
việc ấy. Mà chủ ý người nước Pháp lúc bấy giờ thì không những là chỉ giữ lấy ba
tỉnh mà thôi, lại còn định mở rộng thêm ra nữa. Vậy lẽ nào lại đem trả lại cho
mình?. Vua Dực Tông thấy việc này bàn không xong, bèn sai sứ đem phẩm vật sang
sứ nước Pháp và nước I-pha-nho (Tây Ban Nha)...
Ngày 14 tháng ấy, ông Phan và Lâm về kinh tâu bày sự việc. Vua Tự
Đức vừa than vừa thống trách hai vị sứ thần. Cả triều đình đều bất đồng ý kiến
về nội dung của hòa ước, nhưng đòi sửa đổi ngay thì biết rằng không được, nên đề
nghi cho Phan, Lâm trở lại để giao thiệp với súy phủ Sài Gòn...Hai ông Phan,
Lâm bấy giờ chỉ ôm nỗi khổ tâm của mình rồi lên đường vào Nam.
Đối với sĩ dân Nam Kỳ, kể từ
sau hòa ước này, ngọn cờ chống thực dân Pháp xâm lược đã chuyển hẳn sang tay
nhân dân, lần lượt từ ba tỉnh miền Đông sang ba tỉnh miền Tây (mở đầu là cuộc
khởi nghĩa của Trương Định), rồi từ Nam ra Bắc, tạo thành nội dung
chủ yếu của lịch sử Việt Nam hồi nửa
sau thế kỷ
19 .
Trương
Định
Trong
các sử liệu
Trong sử
nhà Nguyễn
Trong sách Đại Nam chính biên liệt truyện (phần chép về Phan Thanh Giản) có đoạn kể vắn tắt lại sự
việc trên như sau:
Năm thứ 15 (1862), tướng Pháp ở Gia Định mang thư đến
nghị hòa. Đình thần xin cho sứ đi lại là phải. Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp
xin đi. Vua chuẩn cho hai viên ấy sung làm chánh, phó sứ toàn quyền đại thần.
Vua rót rượu ngự ban cho, và bảo nên biện bác sao cho khéo. Khi các ông đến Gia
Định, tướng Pháp bức bách ta phải nhường giao đất đai và phải chịu tiền bồi thường.
Việc đến tai vua, vua xuống dụ khiển trách nghiêm nghị, đổi làm lĩnh Tổng đốc
Vĩnh Long, cùng tướng Pháp bàn làm, để chuộc tội...
Trong
sách Pháp
Trích trong sách La
question de Cochinchine au point de vus des intérêts français của tác giả H. Abel (là sĩ quan hải
quân trong bộ tham mưu của đô đốc Charner một người có vai trò quan trọng ở Nam
Kỳ từ năm 1860 đến năm 1865)
..Triều đình Huế phải đối phó rất gay go cùng một
lúc với chiến tranh ở Bắc và ở Nam thì rất nguy hiểm…Thế nhưng sau khi ký hòa ước
5 tháng 6 năm 1862, triều đình Tự Đức nhận ngay ra sai lầm nghiêm trọng của
mình. Và sách lược của Huế là phải chuộc lại lỗi lầm trên, nhưng về biện pháp
thì lại vừa biểu hiện "quyết tâm của kẻ yếu thế", vừa bộ lộ sự
"lúng túng, không quyết đoán" của họ.
...Bấy lâu nay, triều đình Huế vẫn tỏ ra câm lặng trước mọi phương
án, bỗng quay ra chấp thuận những điều khoản của hiệp ước…Phải chăng đây là kế
sách của một triều đình đã đến bước đường cùng khi nhận ra sức mạnh của đối
phương, và đành phải khuất phục để tránh những tai họa lớn hơn? Hay đây là sự
thắng thế của phe phái này đối với phe kia trong triều đình? Hay phải chăng đây
là do ảnh hưởng của một nhân vật không ngoan? (ám chỉ Trương Đăng Quế). Hẳn là đã có tất cả các lý do trên .
Trương Đăng Quế (chữ Hán: 張登桂, 1793-1865), tự: Diên Phương, hiệu: Đoan Trai, biệt hiệu: Quảng
Khê; là
danh thần trải 4 triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trịvà Tự Đức trong lịch sử Việt Nam.
Trong
sách Việt
·
Giáo sư Nguyễn Phan Quang:
Các nguồn tư liệu khác nhau cho thấy những tháng đầu năm 1862 là thời gian khủng hoảng nặng nề nhất của quân viễn chinh Pháp ở
chiến trường Việt Nam. Một mặt, phong trào kháng chiến của nhân dân đang phát
triển mạnh, đặt địch quân trước những khó khăn nan giải; mặt khác là những
tác động do thất bại của Pháp ở Syrie, sa lầy ở Mexique và làn sóng phản đối của
nhân dân Pháp.
Giữa lúc đó, triều đình Huế chủ động "nghị hòa và
ký kết mau chóng" đã làm cho thực dân Pháp ngạc nhiên:
Giám đốc Sở Nội vụ Paulin
Vial cũng đã viết:
Trung tá Simon từ Bắc trở về báo cho quan đô đốc (Bonard) rằng
người An Nam muốn điều
đình...là một tin mừng giữa lúc có nhiều lo âu quan trọng...Người ta ngạc nhiên
về sự dễ dàng của người An Nam, trước kia đã từng bác bỏ các ý định giảng hòa của
chúng ta với bao nhiêu bực tức, đột nhiên lại đến yêu cầu một hiệp ước mà điều
kiện hình như đắt giá với họ .
Trích trong báo cáo của đô
đốc Bonard gửi về Pháp ngày 8 tháng 9 năm 1862:
Phải nói rằng tôi chỉ còn biết hài lòng về chính phủ Tự Đức và
những người thay mặt họ đã giúp tôi tại Nam Kỳ để cho hiệp ước được thi hành sớm
chừng nào hay chừng ấy
Rõ ràng, nhà Nguyễn hiểu đối phương rất kém. Và mãi cho đến nay
người ta vẫn băn khoăn không rõ vì sao chỉ trong một khoảng thời gian ngắn thương thuyết, phái bộ nhà Nguyễn đã vội chấp nhận những điều
khoản nặng nề như vậy.
Cho nên, vua Tự Đức đã lên án trưởng phó phái bộ Phan, Lâm là: tội nhân của bản triều mà còn là tội
nhân của muôn đời. Sau, trong bài văn khắc trên bia Khiêm Lăng, nhà vua còn nhắc
lại chuyện cũ: Bất đắc dĩ cầu
hòa với giặc, sai sứ đi định ước, không biết vì cớ gì mà lập thành hòa ước dễ
dàng, đem tất cả thổ địa nhân dân của các triều trước mở mang khó nhọc bỗng chốc
bỏ cho giặc hết .
Các vụ loạn ở Bắc Kỳ có một điều vô cùng tai hại
là vì nó mà triều đình Tự Đức phải vội vã ký Hòa ước Nhâm Tuất (1862) với Pháp ở Nam Kỳ để rảnh tay đối phó với Bắc
Kỳ. Tự Đức nghĩ rằng có ký với Pháp chăng nữa thì rồi đây lại tìn cơ khôi phục
những tỉnh đã nhượng. Bắc Kỳ bấy giờ có lẽ ở trong một tình trạng khẩn trương
hơn Nam Kỳ bội phần? Việc Tự Đức điều động tướng Nguyễn Tri Phương và nhiều đại tướng khác ra Bắc bấy giờ cũng đủ hiểu...
Sử gia P. Cultru nói rằng tuy bề ngoài Pháp làm chủ được nhiều
thị trấn ở miền Nam, nhưng vẫn bị quấy đảo khắp nơi...Nhưng một may mắn đặc biệt
đã tới với họ, giữa lúc họ không ngờ nhất thì Tự Đức đề nghị mở cuộc giảng hòa.
Sau khi thiếu tá Simon trao cho triều đình Huế bản nghị hòa (sơ thảo) thì việc
này được đem ra bàn tại triều đình. Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành, Trương Đăng Quế đều tán thành việc gửi sứ thần vào nghị hòa với Súy phủ Nam Kỳ...Theo
ông Quế, các điều kiện Pháp đưa ra cũng là phải chăng, nếu không lợi dụng dịp tốt
này mà hòa giải cho xong, sau này cuộc phiêu lưu chưa biết tới đâu...
Ký xong hòa ước, Bonard tự coi là đã thành công một cách oanh liệt.
Về phía Việt Nam, nhất là sĩ dân miền Nam rất bất bình vì tại Nam Kỳ bị tổn thất
quá nhiều...Nhưng dù căm phẫn thế nào với Pháp, triều đình Tự Đức vẫn không thể
chiều ý sĩ dân miền Nam mà tái chiến với Pháp. Họ khuyên Trương Định hạ khí giới. Trương Định không chịu. Tự Đức phải cách chức
Trương Định cho khỏi phiền phức với Pháp.
Ngoài ra, theo nhà giáo Ca Văn Thỉnh thì đây là một "hàng ước", còn
theo giáo sư Trần Văn Giàu thì
"đây là một sự phản bội đối với những người kháng chiến", vì sau hiệp
ước này phong trào chống thực dân Pháp của nhân dân Việt khó khăn hơn trước:
nghĩa quân sẽ phải đơn độc đối phó với đối phương. Quan trọng hơn nữa là triều
đình không chỉ ra lệnh bãi binh, mà lại còn tiếp tay truy lùng các thủ lĩnh cho
họ!
Sách tham khảo
Đinh Xuân Lâm-Nguyễn Văn Khánh-Nguyễn Đình
Lễ, Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 2). Nhà xuất bản Giáo dục, 2006.
Nguyễn Duy Oanh, Quân dân Nam Kỳ kháng Pháp trên mặt
trận quân sự và văn chương (1859-1885).
Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1995.
Hoàng Văn Lân-Ngô Thị Chính, Lịch sử Việt Nam (1858-cuối thế kỷ
19), quyển 3, tập 1, phần 1. Nhà xuất bản Giáo dục, 1979.
Nhóm Nhân Văn Trẻ, Hỏi đáp lịch sử Việt Nam (tập 4). Nhà xuất bản Trẻ, 2007.
H. Abel (Adrien Barthélemy Louis Henri
Rieunier), La question
Cochinchine au point de vus des intérêts français, Paris, 1864.
No comments:
Post a Comment