Cách nay đúng 43 năm, Nhật bay thử chiếc máy bay chiến đấu
nhanh hơn âm thanh
Ngày 03
tháng 06, 1975
·
1975 – Loại máy bay phản lực tiêm kích đầu tiên của Nhật Bản
là Mitsubishi F-1 (hình) có
chuyến bay thử nghiệm đầu tiên.
Mitsubishi F-1
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mitsubishi F-1
F-1
tại căn cứ Iwakuni
Số lượng sản xuất 77
Mitsubishi F-1 là một loại máy bay phản lực tiêm kích của Lực lượng phòng vệ trên không Nhật Bản (JASDF: Japan Air Self-Defense Force) và là máy bay chiến đấu đầu tiên do Nhật Bản tự
nghiên cứu, phát triển kể từ khi Chiến
tranh thế giới II kết thúc.
https://s20.postimg.cc/86ggn06nh/Subaru_logo_and_wordmark.svg.png
Subaru
Corporation (Japanese: 株式会社SUBARU Hepburn: Kabushiki-gaisha
Subaru), formerly known as Fuji Heavy Industries, Ltd. (Japanese: 富士重工業株式会社 Hepburn: Fuji Jūkōgyō
Kabushiki-gaisha) (FHI), is a Japanesemultinational corporation and conglomerate primarily involved
in aerospace and ground
transportation manufacturing, known for its line of Subaru automobiles.
Mitsubishi F1 có chuyến bay đầu tiên vào
năm 1977 và được đưa vào trang bị của JASDF cùng năm. Năm 2006, Mitsubishi F-1
được ngừng hoạt động hoàn toàn trong JASDF, thay vào đó là Mitsubishi F-2. Như
vậy, từ khi bắt đầu đưa vào sử dụng đến khi nghỉ hưu, trong suốt 28 năm, chiếc
Mitsubishi F-1 chưa từng tham gia vào những hoạt động tác chiến trên chiến
trường.
Lịch sử phát triển
Kế hoạch
máy bay huấn luyện siêu thanh
Tháng 08 năm 1967, tập đoàn Mitsubishi của Nhật Bản bắt tay vào
thiết kế mẫu máy bay đa năng mới. Theo yêu cầu, mẫu máy bay mới này sẽ thay thế
các máy bay chiến đấu và huấn luyện của Mỹ được trang bị cho Lực lượng phòng vệ Nhật Bản khi
đó.
Quân kỳ.
Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản (自衛隊 (Tự Vệ Đội) Jieitai?), hay Lực lượng Tự vệ Nhật Bản là một tổ chức vũ trang chuyên nghiệp nhằm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Nhật Bản từ sau Chiến tranh thế giới
hai.
Tháng 10 năm 1968, Mitsubishi khởi động việc thiết kế mô hình
thực loại máy bay huấn luyện 2 chỗ ngồi. Tới tháng 01 năm 1969, mô hình này
được hoàn tất.
Tháng 03 năm 1970, JASDF đã quyết định ký hợp đồng với tập đoàn
Mitsubishi chế tạo hai chiếc máy bay để đưa vào thử nghiệm. Đúng một năm sau,
các cuộc thử nghiệm về thông số máy bay được hoàn tất, và tới tháng 04 năm
1971, mẫu thử nghiệm đầu tiên được Mitsubishi hoàn tất. Người phụ trách công
tác thiết kế mẫu máy bay này là nhà thiết kế K. Ikeda.
Sau các cuộc thử nghiệm thành công trên mặt đất, mẫu máy bay mới
do Mitsubishi chế tạo theo đơn đặt hàng của JASDF được đặt tên là XT-2. Mẫu máy
bay này sau đó đã thực hiện thành công chuyến bay đầu tiên vào ngày 02 tháng 12
năm 1971.
Bắt đầu thứ tháng 03 năm 1975, Nhật Bản đã cho sản xuất hàng
loạt mẫu máy bay mới này với tên gọi Mitsubishi T-2. Để
dây chuyền sản xuất hàng loạt của T-2 đi vào hoạt động, Nhật Bản đã phải nhập
khẩu một phần đáng kể các bộ phận, chi tiết và linh kiện từ nước ngoài, trong
đó có động cơ R.B.172 D.260-50 Adour của Rolls-Roys do Tổng Công ty IHI sản
xuất theo giấy phép.
IHI Corporation (株式会社IHI Kabushiki-gaisha
IHI), formerly known as Ishikawajima-Harima Heavy Industries
Co., Ltd. (石川島播磨重工業株式会社Ishikawajima Harima Jūkōgyō Kabushiki-gaisha), is a Japanese company which produces ships, aircraft engines, turbochargers for automobiles, industrial
machines, power station boilers and other facilities, suspension bridges and other transport-related machinery.
Từ năm 1975 đến năm 1988, đã có 90 chiếc T-2 được xuất xưởng,
trong đó có 28 chiếc chuyên dùng cho huấn luyện T-2Z và 62 chiếc chiến đấu-
huấn luyện T-2K.
Kế hoạch
máy bay tiêm kích - bom
Ngày 07 tháng 02 năm 1972, JASDF đã đặt hàng Mitsubishi chế tạo
một mẫu máy bay tiêm kích-bom trên cơ sở của mẫu T-2 (Dự án FS-T2). Để phù hợp
với các yêu cầu của JASDF, các kỹ sư của Mitsubishi đã tiến hành sửa đổi chiếc
T-2. Các sửa đổi bao gồm:
- Loại bỏ ghế phía sau và vòm kính thừa phía trên buồng lái, lắp
đặt kính chắn gió một mảnh mới, sử dụng không gian trống cho hệ thống điện tử.
- Hệ thống điều khiển hỏa lực (FCS).
- Cải tiến tổ hợp vũ khí.
- Hệ thống dẫn đường quán tính.
- Hệ thống radar nhận diện cảnh báo (RHAWS).
- Thiết bị đo độ cao.
Năm 1974, Mitsubishi đã chuyển giao cho phía JASDF hai chiếc
FS-T2 để tiến hành thử nghiệm. Chiếc FS-T2 đầu tiên mang số hiệu 107 đã
lăn bánh lần đầu vào ngày 03 tháng 06 năm 1975.
Ngày 07 tháng 06 năm 1975, chiếc thứ hai mang số hiệu 106 cũng
được đưa vào thử nghiệm.
Ngày 12 tháng 11 năm 1976, cả hai chiếc 106 và 107 được tiến
hành bắn thử tất cả loại vũ khí được trang bị. Thông qua các cuộc thử nghiệm,
các chuyên viên của Trung tâm
nghiên cứu Bộ Quốc phòng Nhật (TRDI) đã tiến hành xác định, kiểm
tra tất cả mọi đặc tính cần thiết và các hệ thống của máy bay, tổ hợp thiết bị
trên khoang và các vũ khí.
F-1 được đưa vào sản xuất hàng loạt vào ngày 25 tháng 02 năm
1977. Chiếc đầu tiên được hoàn thành và bay thử vào ngày 16 tháng 06 năm 1977.
Tháng 04 năm 1978, 18 chiếc F-1 đã được đưa vào biên chế của JASDF. Ban đầu, kế
hoạch của Nhật Bản là sản xuất 160 chiếc F-1, nhưng điều kiện về ngân sách
khiến số lượng bị cắt giảm xuống còn 77 chiếc. Chi phí trung bình của F-1 là
khoảng 2,6 tỷ yên cho mỗi máy bay. Chiếc F-1 cuối cùng được sản xuất vào tháng
08 năm 1987.
Toàn bộ 77 chiếc F-1 được biên chế thành ba phi đội, mỗi phi đội
có 25 chiếc, có trụ sở chính tại Căn cứ không quân Misawa.
Vị trí tỉnh
Aomori trên bản đồ Nhật Bản.
- Phi đội số 03 được thành lập ngày 31 tháng 03 năm 1978.
- Phi đội số 08 được thành lập ngày 29 tháng 02 năm 1980.
- Phi đội số 06 được thành lập ngày 28 tháng 02 năm 1981.
Năm 1991 đến năm 1993, JASDF đã tiến hành nâng cấp 70 chiếc F-1
nhằm kéo dài tuổi thọ của khung thân máy bay từ 3.500 giờ lên 4.000 giờ, chương
trình nâng cấp chủ yếu tập trung vào việc cải tiến hệ thống điện tử của máy
bay.
Sáu chiếc F-1 cuối cùng ở Căn cứ không quân Tsuiki tại
tỉnh Fukuoka, miền
Nam Nhật Bản, đã nghỉ hưu vào ngày 09 tháng 03 năm 2006, những chiếc máy bay
này đã đạt đến giới hạn tuổi thọ của khung máy bay là 4.000 giờ.
Vị trí tỉnh
Fukuoka trên bản đồ Nhật Bản.
Hiện nay, những đơn vị sử dụng F-1 đang lần lượt chuyển sang sử
dụng loại Mitsubishi F-2 (Nhật Bản/Mỹ cùng
phát triển, dựa trên F-16C/D) hiện
đại hơn.
Cấu tạo
Hình dáng
sơ bộ
F-1 là loại máy bay chiến đấu một chỗ ngồi với kiểu thiết kế một
tầng cánh, cánh cụp rộng thay đổi, được trang bị bộ ổn định xoay chiều và một
cánh ổn định đuôi thẳng đứng. Khung máy bay được làm bằng hợp kim titan. Dù hãm
đặt ở đuôi, phía trên vỏ động cơ. Bề ngoài của F-1 khá giống với loại máy
bay SEPECAT Jaguar của Pháp/Anh.
SEPECAT Jaguar (báo đốm SEPECAT) là một máy bay cường kích được Anh và Pháp hợp tác sản xuất, hiện nay nó vẫn còn hoạt động trong
một số quân đội các quốc gia như Không quân Ấn Độ và Không quân Hoàng gia
Oman.
Buồng lái
Buồng lái F-1 khá nhỏ và không có vòm kính kiểu bot nước. Dù
vậy, tầm nhìn từ buồng lái vẫn khá tốt, nhưng kém hơn so với F-2, đặc biệt là
nhìn về phía sau. Phần giữa khung buồng lái và mũi được chế tạo khá dày để đề
phòng việc chim chóc lao vào máy bay. Không giống như F-2, phi công ngồi trong
một vị trí truyền thống, không có độ dốc ngược ra sau như ghế của F-2. Phi công
điều khiển máy bay bằng một cần điều khiển ở giữa và tay ga ở bên trái, kết hợp
cả hai thành thanh điều khiển (hands-on-throttle-and-stick) (HOTAS).
Máy bay cũng được trang bị ghế phóng cho phép tổ phi công thoát
khỏi máy bay trên bất kỳ độ cao và tốc độ nào.
Bảng điều khiển của F-1 gồm một màn hình hiển thị trước mặt (HUD: head-up display or heads-up
display) được sản xuất bởi Shimadzu với màn hình radar nằm ở trung tâm
bên dưới nó. Phía dưới bên trái là bảng kiểm soát dự trữ, và trên nó là các
thiết bị hoa tiêu và hệ thống đo độ cao J-APN-44. Nửa
phía phải bảng thiết bị có màn hình hiển thị cho động cơ và các hệ thống. Phía
bên trái buồng lái, ngay phía trước thanh điều khiển ga, là các nút kiểm soát
thiết bị liên lạc.
Hệ thống
điện tử
Các thiết bị điện tử được trang bị cho F-1 gồm:
- Hệ thống dẫn đường quán tính (INS) J/ASN-1, thiết bị đo
độ cao vô tuyến TRT.
- Hệ thống điều khiển hỏa lực J/ASQ-1 do Mitsubishi Electric sản
xuất
- Hệ thống điều khiển tên lửa đối hạm J/AWA-1 (tương ứng với
ASM-1)
- Hệ thống đo độ cao J-APN-44.
- Hệ thống máy tính số trung tâm, kênh dữ liệu số và máy tính dữ
liệu trên không.J/A24G-3.
- Hệ thống thiết bị tiếp sóng LMT, máy thu phát vô tuyến.
- Thiết bị nhận tín hiệu cảnh báo radar J/APR-3 với một ăngten
hình ống bố trí phía sau đỉnh cánh đuôi.
- Thiết bị trinh sát hồng ngoại.
Radar xung Dopple đa chế độ hoạt động trong mọi điều kiện thời
tiết J/AWG-12 được trang bị cho F-1 tương tự loại AN/AWG-12 trên tiêm
kích F-4M Phantom của Không quân Hoàng gia Anh.
F-4B ở trên
vùng trời Việt Nam.
Loại radar này phát triển từ radar AN/AWG-10. Tầm hoạt động hiệu
quả đạt 55 – 60 km, nó có khả năng đa nhiệm, thực hiện các nhiệm vụ không
đối đất, đối hải, bao gồm cả vai trò chống hạm.
Từ năm 1985, F-1 được lắp đặt hệ thống điều khiển tự động trong
mọi giai đoạn bay, gồm bay thấp trong mọi địa hình, bay riêng và theo nhóm
chống lại mục tiêu trên không - mặt đất - trên biển. Hệ thống điều khiển tự
động được kết nối với hệ thống dẫn đường để đảm bảo máy bay bay đúng đường, tự
động tiếp cận địch, tìm được đường về căn cứ và hạ cánh tự động.
Trong thập niên 1970, thiết bị nhận tín hiệu cảnh báo radar
J/APR-3 được trang bị cho F-1 là một trong những hệ thống tiên tiến nhất tại
thời điểm đó. Sau này để tăng cường khả năng tự vệ của máy bay, một số chiếc
F-1 cũng đã được trang bị thiết bị gây nhiễu tần số vô tuyến.
Hệ thống
vũ khí
Máy bay cũng có 7 giá treo vũ khí ngoài để gắn các loại vũ khí
khác nhau. Điểm treo dưới thân máy bay và 2 điểm gần thân có thể được sử dụng
để mang thùng nhiên liệu phụ, tăng tầm hoạt động cho máy bay. Tổng khối lượng
vũ khí treo ngoài mà F-1 có thể mang theo lên tới 2.8 tấn.
Vũ khí gắn trong thân
An unmounted
M61 Vulcan
Những khẩu pháo có thể bắn với tốc độ 6.000 viên/phút, trọng
lượng đạn là 100g.
Tên lửa không đối hạm
Shiki 80 (80式空対艦誘導弾, はちまるしきくうたいかんゆうどうだん) là loại tên lửa không đối hạm được lực lượng phòng vệ Nhật Bản thông qua để đưa vào
phục vụ từ năm 1980. Loại này còn được biết với tên ASM-1.
ASM-1 Type-80 là loại tên lửa có điều khiển được tập đoàn
Mitsubishi nghiên cứu, phát triển trong hơn 7 năm, được triển khai năm
1980.
Tên lửa có chiều dài 3,95 m, sải cánh 1,2 m, đường kính thân
0.35 m, trọng lượng 760 kg, trong đó đầu đạn nặng 150 kg, tầm bắn xa 50 km.
Type-80 có thể bay lướt mặt biển ở độ cao cực thấp. Nó được điều
khiển bởi hệ thống dẫn đường quán tính (INS) J/ASN-1 và hệ thống đo độ cao
J-APN-44. Khi bay ở giai đoạn kiểm tra cảnh giới, nó bay cách mặt biển 15m, ở
giai đoạn cuối khi tiếp cận mục tiêu, nó chỉ cách mặt biển 2-3m, việc bay quá
thấp như vậy hoàn toàn ‘làm mù” hệ thống radar cảnh giới của đối phương.
Đầu nổ của đầu đạn Type-80 là loại “bản xuyên giáp”. Trước tiên,
dựa vào năng lượng vận động khi bay, đầu đạn có thể xuyên thủng mạn tàu đối
phương, ngòi đầu nổ tên lửa có thể xuyên thủng mạn tàu địch, sau mấy giây xuyên
vào trong tàu, ngòi đầu nổ tên lửa lại dẫn nổ, từ đó làm nổ tung đầu đạn có
chứa lượng thuốc nổ cực mạnh ngay trong thân tàu, cộng với lượng chất đốt vẫn
chưa cháy hết của tên lửa cùng tung ra theo tiến nổ, khiến cả khoang tàu bốc
cháy, làm tàu địch bị phá hủy nặng nề. Đường kính lỗ đạn phá có thể rộng đến
10m.
Type-80 được trang bị đầu tự dẫn radar kiểu chủ động có khả năng
chống nhiễu mạnh. Nó có khả năng hoạt động trọng moi điều kiện thời tiết. Đầu
tự dẫn radar kiểu chủ động có thể tự điều chỉnh đường ngắm trúng vào mục tiêu
trong mặt phẳng góc + 30o, dẫn tên lửa vào chỗ tập trung
mạnh nhất sóng phản xạ từ vỏ tàu mục tiêu về, thường tạo nên “tâm” bề mặt phản
xạ của tàu.
Bom và rocket
F-1 trang bị các loại bom 500 và 700 pound (Mk82 và M117). Bom
Mk-82 và M117 có thể được trang bị hệ thống dẫn đường hồng ngoại, trở thành vũ
khí được điều khiển chính xác, chúng được điều khiển để tiêu diệt các mục tiêu
tỏa nhiệt di chuyển trên biển như tàu hay những mục tiêu trên mặt đất. Khi được
trang bị những thiết bị hỗ trợ như vậy, bom được gọi với tên GCS-1.
Trước đây, F-1 còn được trang bị loại bom chùm CBU-87/B. Hiện
nay, dẫn theo Hiệp ước cấm bom chùm của Liên hợp quốc, loại bom này bị cấm
trang bị trên các máy bay chiến đấu của Nhật Bản.
F-1 cũng được lắp đặt các ống phóng rocket JLAU-3/A cỡ
70 mm, rocket RL-7 70 mm, rocket RL-4 125 mm.
Tên lửa không đối không
Tên lửa tầm nhiệt không đối không AIM-9
Sidewinder (Rắn đuôi chuông) được mang trên những điểm treo đầu cánh,
nhưng nó có thể cũng được mang trên điểm treo phía ngoài dưới cánh khi đảm
nhiệm vai trò phòng không của F-1.
Tên lửa tầm nhiệt AIM-9
Sidewinder. Tên lửa không-đối-không
đầu tiên
Nhìn từ hình dáng bên ngoài, Sidewinter giống như một chiếc gậy
tròn nhỏ dài. Cấu tạo của tên lửa gồm bốn bộ phận: đầu trên là đầu tự dẫn điều
khiển tên lửa bay được lắp ở sát mũi tên lửa: bộ phận thứ hai là đầu đạn, bên
trong chứa thuốc nổ: bộ phận thứ ba là động cơ, có tác dụng đẩy tên lửa bay về
phía trước; bộ phận cuối cùng là đuôi tên lửa, phần trên của đuôi có lắp cánh
tên lửa dùng để giữ cho tên lửa bay thật ổn định. Tổng chiều dài của Sidewinter
khoảng 2m, tầm bắn khoảng 7m?
Ở phía trước đầu đạn tên lửa Sidewinter có lắp một thiết bị có
thể phát hiện được và thu được tia hồng ngoại. Thiết bị này phối hợp với đầu tự
dẫn điều khiển tên lửa bám đuổi theo máy bay cho đến khi bắn trúng mục tiêu.
Mọi vật trong tự nhiên chỉ cần ở điểm 0 tuyệt đối, nó sẽ không
ngừng phát ra tia hồng mà mắt người không thể nhìn thấy được. Nhiệt độ càng
cao, tia hồng ngoại phát ra càng mạnh, trong khi đó luồng khí phụt ra ở đuôi
máy bay khá cao, nên tia hồng ngoại phát ra từ máy bay rất mạnh. Vì thế thiết
bị dò tìm hồng ngoại lắp ở đầu đạn tên lửa sẽ dễ dàng thu được tia hồng
ngoại phát ra từ đuôi máy bay, từ đó thông qua đầu tự dẫn mà điều khiển tên lửa
bám sát mục tiêu.
Thế nhưng, khi Sidewinter nhanh chóng tiếp cận máy bay, nếu máy
bay đến từ một góc ngoặc gấp, luồng khí nóng phát ra từ đuôi máy bay cũng lập
tức thay đổi phương hướng. Lúc này tên lửa khó có thể tiếp tục thu được tia
hồng ngoại mà nó đang bám theo, mà vào thời điểm đó, tia hồng ngoại phát ra từ
mặt trời tỏ ra mạnh hơn, vì thế tên lửa có thể bay theo hướng mặt trời làm mất
hiệu quả.
Động cơ
F-1 được trang bị hai động cơ phản lực cánh quạt đẩy
Ishikawa-Harima TF40-801A, cung cấp 22,8 kN lực đẩy khô và 35.6 kN
khi sử dụng buồng đốt lần hai. Động cơ được gắn lùi trong thân dành tối đa chỗ
bên trong để chứa nhiên liệu, và lấy không khí vào qua cửa hút khí dạng cố
định. cửa hút khí được gắn những dốc di động để điều hòa luồng khí nạp vào động
cơ ở tốc độ siêu thanh. Ishikawa-Harima TF40-801A là một biến thể
của động cơ phản lực Rolls-Royce/Turbomeca Adour Mk 102 do Tổng Công ty IHI của
Nhật Bản sản xuất theo giấy phép chuyển giao công nghệ. Trọng lượng khô của
động cơ là 3.300 kg.
Tai nạn
Vào ngày 25 tháng 08 năm 1998, trong một chuyến bay tuần tra đêm
tại tỉnh Iwate, hai
trong số ba chiếc F-1 của đội bay đã gặp nạn. Tai nạn khiến hai phi công của
Phi đội số 08 thiệt mạng. Tang lễ được tiến hành vào ngày 29 tháng 08 năm 1998.
Các phiên bản
·
FS-T2-Kai: 2 mẫu thử nghiệm đầu
tiên.
·
Mitsubishi F-1: Máy
bay chiến đấu một chỗ đa chức năng, bao gồm hỗ trợ mặt đất, tấn công mặt đất và
chống tàu.
Quốc gia sử dụng
Thông số kỹ thuật
(F-1)
Đặc điểm
riêng
·
Phi đoàn: 1
·
Chiều dài: 17.66 m (57 ft 11
in)
·
Chiều cao: 4.39 m (14 ft 5
in)
·
Diện tích cánh: 21.2
m² (228 ft²)
·
Trọng lượng rỗng:
6.358 kg (14.017 lb)
·
Trọng lượng cất cánh: n/a
Hiệu suất
bay
Vũ khí
·
Các loại bom, tên lửa không đối không, không đối đất, không đối
biển được gắn vào 4 giá treo dưới cánh, 2 đầu mút cánh, và 1 dưới thân máy bay.
Vũ khí trang bị bao gồm AIM-9 Sidewinder, Mitsubisi AAM-1, tên lửa đối hạm
Mitsubishi ASM-1/2, rocket JLAU-3A 70 mm, rocket RL-7 70 mm, rocket
RL-4 125 mm, bom Mk-82 500 lb và M117 750 lb, phiên bản dẫn đường
hồng ngoại của Mk-82 và M117.
No comments:
Post a Comment