Cách nay đúng 70 năm, đảng Cộng sẳn Mã Lai hạ sát 3 người
Anh ở một đồn điền tại bang Perak. Đó là khởi đầu cho cuộc chiến diệt công cả
12 năm!
Ngày 16
tháng 06, 1948
·
1948 – Đảng Cộng sản Malaya hạ sát ba người Anh quản lý đồn điền
tại Perak, khởi
đầu một cuộc chiến tranh du kích kéo
dài 12 năm tại Malaya.
Tình trạng khẩn cấp Malaya
Malayan
Emergency
Darurat Malaya
馬來亞緊急狀態
Darurat Malaya
馬來亞緊急狀態
Một
phần của phi thuộc địa hóa châu Á và Chiến tranh lạnh
Oanh
tạc cơ Avro
Lincoln của
Úc ném bom phiến quân cộng sản tại khu vực rừng của Malaya (khoảng 1950)
Thời gian 16 tháng 6 năm 1948 – 12 tháng 7 năm
1960, (12 năm, 3 tuần và 5 ngày)
Địa điểm Đông Nam Á
Tham chiến
Lực
lượng chống cộng: Lực
lượng cộng sản:
Rhodesia và Nyasaland (sau 1953)
Thái
Lan (biên
giới Thái Lan -Malaya)
Chỉ huy
Lực lượng
250.000 quân nhân hộ vệ Malaya Đến
150.000 dân vận
·
Đội
súng trường châu Phi của Quốc vương
37.000
cảnh sát đặc biệt
24.000
cảnh sát liên bang
Tổn thất
Thiệt
mạng: 1.346 quân nhân và cảnh sát Malaya Thiệt
mạng: 6.710
519
nhân viên quân sự Anh Bị
thương: 1.289
Bị
thương: 2.406 quân nhân/cảnh sát Malaya và Anh Bị
bắt: 1.287
Đầu hàng: 2.702
Thương
vong thường dân: 2.478 thiệt mạng, 810 mất tích
Tình trạng khẩn cấp Malaya (tiếng Mã Lai: Darurat) là một chiến tranh du kích kéo dài từ 1948-1960
tại Malaya
giữa các lực lượng Thịnh
vượng chung và Quân Giải phóng Dân tộc Malaya
(MNLA), cánh quân sự của Đảng Cộng sản Malaya.
Liên bang Malaya (tiếng Mã Lai: Persekutuan Tanah Melayu) gồm 11
bang (chín bang Mã Lai và hai khu định cư Eo biển Penang và Malacca) tồn tại từ ngày 31 tháng 1 năm 1948 cho đến ngày 16
tháng 9 năm 1963.
Một bản đồ thế giới, các quốc gia thành viên của Thịnh
vượng chungđược tô màu xanh đậm
Tình trạng khẩn cấp Malaya là thuật ngữ mà chính phủ thực dân gọi xung đột,
thuật ngữ của Quân Giải phóng Dân tộc Malaya là Chiến tranh Giải phóng
dân tộc kháng Anh. Các ngành đồn điền cao su và khai thác thiếc thúc
đẩy việc sử dụng thuật ngữ "tình trạng khẩn cấp" do những thiệt hại
của họ sẽ không được hãng bảo hiểm Lloyd's bồi thường nếu sử dụng thuật ngữ
"chiến tranh".
Bất chấp việc lực lượng cộng sản chiến bại
vào năm 1960, thủ lĩnh cộng sản là Trần Bình khôi
phục nổi dậy vào năm 1967; và lần này kéo dài cho
đến năm 1989.
Chin Peng (Chinese: 陳平; pinyin: Chén
Píng; Jyutping: Can4 Ping4), former OBE,[dubious discuss] (21 October 1924 –
16 September 2013) born Ong Boon
Hua (Chinese: 王文華; pinyin: Wáng
Wénhuá; Pe̍h-ōe-jī: Ông Bûn-hôa)
was a long-time leader of the Malayan Communist Party (MCP)
Nguồn gốc
Nhật Bản rút quân khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, để
lại Malaya với kinh tế bị phá vỡ. Các vấn đề bao gồm thất nghiệp, lương thấp,
và lạm phát lương thực ở mức độ cao. Diễn ra náo động lao động với quy mô đáng
kể, và một số lượng lớn các cuộc đình công trong giai đoạn 1946-1948. Trong
thời gian này, chính quyền Anh nỗ lực nhằm khôi phục kinh tế Malaya, thu nhập
từ các ngành thiếc và cao su tại Malaya đóng vai trò quan trọng trong việc khôi
phục bản thân kinh tế Anh thời hậu chiến. Những người kháng nghị bị đối xử khắc
nghiệt, bằng các biện pháp như bắt giữ và trục xuất, còn những người kháng nghị
ngày càng trở nên hiếu chiến. Ngày 16 tháng 6 năm 1948, hành động chiến tranh
công khai đầu tiên diễn ra khi ba người quản lý đồn điền gốc Âu bị sát hại
tại Sungai Siput, Perak. Sự
kiện Đảng Cộng sản Malaya (MCP) hạ lệnh tiến công phù hợp với chiến lược toàn
cầu của Liên Xô.
Perak là một trong 13 bang của Malaysia. Bang
Perak có diện tích lớn thứ hai ở Bán đảo Malaysia. Perak giáp với Kedah và tỉnh Yala của Thái Lan ở phía
bắc, Penang ở phía tây bắc, Kelantan và Pahang ở phía đông, Selangor ở hướng
nam và phía tây là eo biển Malacca.
Người Anh đưa các biện pháp tình trạng khẩn cấp thành luật, đầu
tiên là tại Perak nhằm phản ứng trước sự kiện Sungai Siput và đến tháng 7 thì
mở rộng trên toàn Malaya. Theo các biện pháp, Đảng Cộng sản Malaya và các đảng
tả khuynh khác bị cấm, và cảnh sát được trao quyền bỏ tù những người cộng sản,
và những người bị ngờ ngờ trợ giúp cho cộng sản mà không qua xét xử. Đảng Cộng
sản Malaya dưới quyền lãnh đạo của Trần Bình triệt thoái đến các khu vực nông
thôn, và thành lập Quân Giải phóng Dân tộc Malaya. Quân Giải phóng Dân tộc
Malaya bắt đầu một chiến dịch du kích, nhắm mục tiêu chủ yếu là những ngành khai
thác tài nguyên thuộc địa là khai thác thiếc và đồn điền cao su.
Quân Giải phóng Dân tộc Malaya một phần là tái lập Quân Nhân dân
Malaya kháng Nhật- lực lượng du kích do Đảng Cộng sản Malaya lãnh đạo. Người
Anh bí mật đào tạo và cung cấp vũ trang cho Quân Nhân dân Malaya kháng Nhật
trong giai đoạn sau của Chiến tranh thế giới thứ hai. Quân Nhân dân Malaya
kháng Nhật giải tán vào tháng 12 năm 1945, chính thức trao lại toàn bộ vũ khí
của họ cho chính phủ quân sự Anh. Các thành viên chấp thuận giải tán được cung
cấp các ưu đãi về kinh tế, tuy nhiên có khoảng 4.000 thành viên từ chối những
ưu đãi này và tiến hành hoạt động bí mật.
Chiến tranh du kích
Quân Giải phóng Dân tộc Malaya thường sử dụng chiến thuật du
kích, phá hoại ngầm các căn cứ, tấn công các đồn điền cao su và phá hoại giao
thông và hạ tầng.
Hỗ trợ của Quân Giải phóng Dân tộc Malaya dựa chủ yếu vào khoảng
500.000 trong số 3,12 triệu người Hoa đang sinh sống tại Malaya. 500.000 được
gọi là 'dân vận' và đại bộ phận trong đó là nông dân sống cạnh các khu rừng nơi
Quân Giải phóng Dân tộc Malaya đặt căn cứ. Điều này cho phép Quân Giải phóng
Dân tộc Malaya được tiếp tế lương thực, cũng như nguồn tân binh. Dân
cư thuộc dân tộc Mã Lai ủng hộ họ với số lượng nhỏ hơn. Quân Giải phóng Dân tộc
Malaya giành được sự ủng hộ của người Hoa do họ bị từ chối quyền bình đẳng
trong bầu cử, không có quyền sở hữu đất, và thường là rất nghèo.
Các trại và nơi ẩn náu của Quân Giải phóng Dân tộc Malaya nằm
tại khu rừng rậm nhiệt đới khó tiếp cận, với hạ tầng hạn chế. Hầu hết các chiến
binh của Quân Giải phóng Dân tộc Malaya là người Hoa, song cũng có một số người
Mã Lai, Indonesia và gốc Ấn. Quân Giải phóng Dân tộc Malaya được tổ chức thành
các trung đoàn, song không có tổ chức cố định và mỗi đơn vị bao gồm toàn bộ lực
lượng hoạt động trong một khu vực cụ thể. Các trung đoàn có những tiểu đội
chính trị, chính ủy, ban huấn luyện và bí mật. Trong các trại, các binh sĩ tham
dự các bài diễn thuyết về chủ nghĩa Marx-Lenin, và sản xuất các bản tin để
phát cho nhân dân bản địa. Quân Giải phóng Dân tộc Malaya cũng quy định rằng
các binh sĩ cần được cho phép chính thức để tham gia quan hệ luyến ái với phụ
nữ bản địa.
Trong giai đoạn đầu của xung đột, quân du kích dự kiến thiết lập
các "khu vực giải phóng" từ những nơi mà quân chính phủ bị đẩy lui,
với quyền kiểm soát của Quân Giải phóng Dân tộc Malaya được thiết lập, song
đương thời không thành công.
Công nhân trong một đồn điền tại Malaya đi làm dưới sự bảo
hộ, 1950.
Một phiến quân bị thương đang bị cầm giữ và
thẩm vấn sau khi bị bắt, năm 1952.
Chiến lược đầu tiên của chính phủ chủ yếu là nhằm bảo vệ các mục
tiêu quan trọng, chẳng hạn các mỏ và đồn điền. Sau đó, người chỉ huy các chiến
dịch của Quân đội Anh tại Malaya là Harold Briggs phát
triển một chiến lược tổng thể mang tên Kế hoạch Briggs. Nguyên lý trung tâm của
nó là: cách tốt nhất để đánh bại một cuộc nổi loạn, như chính phủ đang phải đối
diện, là tách những người nổi dậy khỏi những người ủng hộ họ trong dân chúng.
Ngoài ra, kế hoạch của Briggs cũng thừa nhận tính chất khắc nghiệt của rừng rậm
Malaya. Một phần quan trọng của chiến lược liên quan đến mục tiêu tiếp tế lương
thực cho Quân Giải phóng Dân tộc Malaya, Briggs cho rằng nó đến từ ba nguồn
chính: các trại trong rừng rậm nơi đất được phát quang để cung cấp lương thực,
dân bản địa trong rừng có thể cung cấp cho Quân Giải phóng Dân tộc Malaya các
thực phẩm thu thập trong rừng, và những người ủng hộ Quân Giải phóng Dân tộc
Malaya trong các cộng đồng sống ven rừng.
Kế hoạch Briggs là đa phương diện, một khía cạnh đặc biệt nổi
tiếng: di dời bắt buộc 500.000 người Malaya ở nông thôn, trong đó có 400.000
người Hoa, từ các cộng đồng rìa rừng đến các trại được bảo vệ gọi là "Tân
Thôn". Những thôn này hầu hết đều mới được xây dựng, bao quanh thôn là dây
thép gai, đồn cảnh sát và các khu vực rọi đèn pha, mục đích là tách biệt dân cư
và lực lượng du kích.
Lúc khởi đầu tình trạng khẩn cấp, người Anh có 13 tiểu đoàn bộ
binh tại Malaya, trong đó có 7 tiểu đoàn được hình thành một phần từ các tiểu
đoàn Gurkha, ba
tiểu đoàn Anh, hai tiểu đoàn của Trung đoàn Hoàng gia Mã Lai và một trung đoàn
pháo binh hoàng gia Anh hành động như bộ binh.
Gurkha hay còn gọi là Gurkhas hay Gorkhas (tiếng Nepal: गोर्खा; tiếng Trung Quốc: 廓尔喀, phiên âm: Khuếch Nhĩ
Khách) là thuật ngữ để chỉ về những binh sĩ đến từ Nepal thuộc Vương
quốc Nepal. Gurkha là một cộng đồng người thiểu số ở Nepal. Dân tộc này nổi
tiếng với khả năng chiến đấu và tính kỷ luật.
Lực lượng này quá nhỏ để đương đầu hiệu quả với đe dọa từ các
hoạt động cộng sản và cướp bóc, và cần thiết có thêm các tiểu đoàn bộ binh tại
Malaya. Người Anh đem binh sĩ từ các đơn vị như Hải quân Hoàng gia Anh và Đội
súng trường châu Phi của Quốc vương. Nỗ lực khác là tái thiết Đoàn Hàng không
đặc chủng vào năm 1950 với vai trò một đội trinh sát, đột kích, và bình loạn
đặc biệt.
Sĩ quan người Anh Robert
Grainger Ker Thompson từng phục vụ trong lực lượng Chindits tại
Miến Điện thời Thế chiến.
Sir Robert Grainger Ker Thompson KBE CMG DSO MC (1916–1992) was
a British military officer and counter-insurgency expert and "He was widely regarded
on both sides of the Atlantic as the world's leading expert on countering the
Mao Tse-tung technique of rural guerrilla insurgency"
The Chindits, known officially as the Long
Range Penetration Groups, were special operations units of the British and Indian armies, which saw action in 1943–1944, during the Burma Campaign of World War II
Kinh nghiệm phong phú của ông trong chiến tranh rừng rậm có giá
trị trong giai đoạn này khi ông có thể xây dựng các quan hệ dân sự-quân sự hiệu
quả và là một trong các kiến trúc sư trưởng trong kế hoạch bình loạn tại
Malaya. Gerald
Templer trở thành sĩ quan chỉ huy của lực lượng Anh tại Malaya vào năm 1952,
ông được công nhận rộng rãi là xoay hướng tình thế trong tình trạng khẩn cấp
Malaya theo hướng có lợi cho lực lượng Anh. Trong hai năm ông chỉ huy, hai phần
ba số phiến quân bị xóa sổ. Lịch
sử chính thống ghi rằng Templer cải biến tình thế trong tình trạng khẩn cấp và
các hành động và chính sách của ông là một phần quan trọng trong thành công của
người Anh thời ông chỉ huy. Tuy nhiên, các sử gia xét lại thách thức quan điểm
này và thường ủng hộ các ý kiến của Victor Purcell rằng Templer đơn thuần là
tiếp tục các chính sách do những người tiền nhiệm của ông khởi đầu.
Năm 1951, một số đơn vị vũ trang Anh bắt đầu một "chiến
dịch trái tim và khối óc" bằng cách trợ giúp y tế và lương thực cho người
Mã Lai và các bộ lạc bản địa. Vào đương thời, họ đặt áp lực lên Quân Giải phóng
Dân tộc Malaya bằng cách đi tuần tra trong rừng. Quân du kích Quân Giải phóng
Dân tộc Malaya bị đẩy sâu hơn vào rừng và gặp khó khăn về nguồn lực. MRLA: (Malayan Races Liberation Army) lấy lương thực
từ bộ lạc Sakai và khiến họ trở nên thù địch, nhiều binh sĩ du kích bị bắt đã
thay đổi phe chiến đấu.
Chung cuộc, xung đột có sự tham dự của tối đa 40.000 binh sĩ Anh
và Thịnh vượng chung, chống lại lượng lượng du kích cộng sản có khoảng 7-8.000
người vào lúc cao nhất.
Police officers question a civilian during
the Malayan Emergency.
The Malayan Police during a patrol
Giải pháp
Ngày 6 tháng 10 năm 1951, Quân Giải phóng Dân tộc Malaya phục
kích và sát hại Cao ủy Anh Henry Gurney, sự
kiện này được mô tả là nhân tố chính khiến dân cư Malaya hoàn toàn bác bỏ chiến
dịch của Quân Giải phóng Dân tộc Malaya, và cũng dẫn đến lo ngại phổ biến do
nhận thức "nếu ngay cả Cao ủy còn không an toàn, thì ít có hy vọng trong
việc bảo hộ và an toàn cho quần chúng tại Malaya."
Sir Henry Lovell
Goldsworthy Gurney KCMG KStJ
(27 June 1898 – 6 October 1951) was a British colonial administrator who served
in various posts throughout the British Empire.
Sau này, thủ lĩnh của Quân Giải phóng Dân tộc Malaya là Trần
Bình nói rằng việc sát hại có ít tác động, và rằng những người cộng sản dù sao
chăng nữa đã thay đổi chiến lược căn bản của mình trong tháng đó theo
"Nghị quyết Tháng mười". Nghị
quyết Tháng Mười là một phản ứng trước Kế hoạch Briggs, liên quan đến thay đổi
các chiến thuật bằng cách giảm các cuộc tấn công và các mục tiêu kinh tế và
thường dân, gia tăng các nỗ lực và các tổ chức chính trị và lật đổ chính phủ,
và củng cố mạng lưới tiếp tế từ Dân vận cũng như canh tác trong rừng.
Người kế nhiệm của Gurney là Gerald Templer được
chính phủ Anh chỉ thị thúc đẩy tức thì các biện pháp để trao quyền tuyển cử cho
dân cư người Hoa.
Field Marshal Sir
Gerald Walter Robert Templer, KG, GCB, GCMG, KBE, DSO (11 September 1898 – 25 October 1979) was a senior British Army officer who fought in both the world wars.
Ông cũng tiếp tục kế hoạch Briggs, và đẩy nhanh việc hình thành
một quân đội Malaya. Đồng thời, ông nói rõ rằng bản thân Tình trạng khẩn cấp là
trở ngại chính trong việc đẩy nhanh phi thuộc địa hóa. Ông cũng tăng phần
thưởng tài chính cho bất kỳ thường dân nào phát hiện quân du kích, và mở rộng
mạng lưới tình báo.
Ngày 8 tháng 9 năm 1955, Chính phủ của Liên bang Malaya ban hành
một tuyên bố ân xá cho những người cộng sản. Chính
phủ Singapore cũng ban hành một tương tự. Thủ hiến Tunku Abdul Rahman thực hiện đề nghị ân xá
song hứa sẽ không có đàm phán với Quân Giải phóng Dân tộc Malaya.
Tunku Abdul Rahman Putra Al-Haj
ibni Almarhum Sultan Abdul Hamid Halim Shah II (Jawi: تونكوعبدالرحمن ڤوترا الهاج ابن المرحوم سلطان عبدالحميد حاليم شه; , 8 tháng 2 năm 1903 – 6 tháng
12 na,ư 1990) là chính trị gia người Malaysia, ông giữ chức Thủ hiến của Liên bang Malaya từ năm 1955 đến năm 1957, trước khi trở thành Thủ tướng đầu tiên của Malaysia sau khi độc lập năm 1957.
Các điều khoản của lệnh ân xá là:
·
Những người cộng sản tự nguyện đầu hàng sẽ không bị truy tố vì bất
kỳ vi phạm nào liên quan đến Tình trạng khẩn cấp, cho dù là trước hoặc khi chưa
biết tuyên bố này.
·
Đối tượng đầu hàng lập tức và với người mà họ mong muốn, bao gồm
các thành viên dân chúng.
·
Sẽ không có tổng đình chiến, song lực lượng an ninh sẽ cảnh giác
để giúp những người muốn chấp thuận đề nghị và do vậy sẽ sắp xếp các đợt đình
chiến cục bộ.
·
Chính phủ sẽ tiến hành điều tra những người đầu hàng, những ai
chứng tỏ bản thân thực sự có ý định trung thành với Chính phủ Malaya và từ bỏ
các hoạt động cộng sản của họ sẽ được giúp đỡ nhằm phục hồi vị thế bình thường
của họ trong xã hội và được đoàn tụ với gia đình họ. Những người còn lại, họ sẽ
bị hạn chế quyền tự do song nếu ai có nguyện vọng đến Trung Quốc thì sẽ được
xem xét.
Sau tuyên bố này, chính phủ tiến hành một chiến dịch tuyên
truyền mạnh mẽ với quy mô chưa từng có. Các bộ trưởng trong chính phủ liên bang
đi khắp nước để kêu gọi những người cộng sản hạ vũ khí và nắm lấy cơ hội ân xá.
Các cuộc tuần hành thị uy quần chúng nhằm ủng hộ lệnh ân xá được tổ chức tại
các đô thị và làng. Bất chấp chiến dịch, có ít người cộng sản đầu hàng nhà
đương cục. Những người cộng sản được răn đe từ trước, họ tổ chức tuyên truyền
chống ân xá mạnh mẽ trong hàng ngũ, siết chặt kỷ luật và cảnh báo rằng hành
động đào tẩu sẽ bị từng phạt nghiêm khắc. Một số nhà phê bình trong giới chính
trị nhận xét rằng lệnh ân xá quá hạn chế và chỉ là một sự điều chỉnh các điều
khoản đầu hàng có hiệu lực trong một thời gian dài. Những nhà phê bình ủng hộ
một cách tiếp cận thực tế và tự do hơn, với các cuộc đàm phán trực tiếp với
Đảng Cộng sản Malaya để tìm ra một giải pháp cho vấn đề. Các quan chức hàng đầu
của Đảng Lao động không loại trừ khả năng công nhận Đảng Cộng sản Malaya là một
tổ chức chính trị trong nỗ nỗ lực nhằm giải quyết vấn đề.
Trong nội bộ Liên Minh cầm quyền, những nhân vật có ảnh hưởng
trong cả Công hội người Hoa Malaysia và Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống
nhất đã nỗ lực thuyết phục Thủ hiến Tunku Abdul Rahman tổ chức
các cuộc đàm phán với Đảng Cộng sản Malaya.
Nhận thấy xung đột không đem lại kết quả nào, Trần Bình tìm kiếm
một cuộc thảo luận với chính phủ Anh cầm quyền cùng với nhiều quan chức Malaya
vào năm 1955. Các cuộc đàm phán diễn ra tại trường chính phủ Anh tại Baling vào
ngày 28 tháng 12. Đại diện cho Đảng Cộng sản Malaya là Tổng Bí thư Trần Bình,
cùng với Rashid Maidin và Trần Điền; đại diện cho chính phủ là Tunku Abdul Rahman, Trần Trinh Lộc và
Thủ hiến Singapore David Saul Marshall.
Cuộc họp được dự tính nhằm thúc đẩy kết thúc xung đột, song các
đại biểu của chính phủ Malaya mà đứng đầu là Tunku Abdul Rahman lại bác bỏ toàn
bộ các yêu cầu của Trần Bình. Kết quả là xung đột tăng cường, New
Zealand và các thành viên khác trong Thịnh vượng chung gửi quân
đến viện trợ cho Anh.
New Zealand (phiên âm tiếng Việt: Niu Di-lân; phát âm tiếng Anh: /njuː ˈziːlənd/; tiếng Māori: Aotearoa) hay Tân Tây Lan[7][8][9][10][11]là một đảo
quốc tại khu vực tây nam của Thái Bình Dương.
Sau khi đàm phán thất bại, Tunku quyết định thu hồi lệnh ân xá
vào ngày 8 tháng 2 năm 1956, năm tháng sau khi nó được đưa ra, ông nói rằng bản
thân không sẵn sàng gặp lại những người cộng sản trừ khi họ biểu thị trước mong
muốn của họ là được gặp ông với quan điểm "đầu hàng hoàn toàn". Bất
chấp đàm phán thất bại, Đảng Cộng sản Malaya tiến hành mọi nỗ lực nhằm nối lại
đàm phán hòa bình với chính phủ Malaya, song không thành công. Trong khi đó,
các cuộc thảo luận bắt đầu trong Hội đồng Hoạt động Tình trạng khẩn cấp mới
nhằm đẩy mạnh "Chiến tranh nhân dân" chống quân du kích. Trong tháng
7 năm 1957, một vài tuần trước khi Malaya độc lập, Đảng Cộng sản Malaya tiến
hành nỗ lực khác nhằm đàm phản hòa bình, biểu thị các điều kiện thương lượng
hòa bình:
·
Các thành viên phải được hưởng quyền công dân
·
Một đảm bảo rằng các thành viên chính trị cũng như vũ trang của
Đảng Cộng sản Malaya sẽ không bị trừng phạt.
Tuy nhiên, Tunku Abdul Rahman không phúc đáp các đề xuất của
Đảng Cộng sản Malaya, và cuộc nổi dậy mất căn cứ chiến tranh giải phóng thuộc
địa khi Malaya độc lập từ ngày 31 tháng 8 năm 1957.
Sự kháng cự đáng kể cuối cùng của các du kích MRLA kết thúc bằng
một cuộc đầu hàng tại khu vực đầm lầy Telok Anson vào
năm 1958. Lực lượng MRLA còn lại rút đến biên giới với Thái Lan và xa hơn về
phía đông. Ngày 31 tháng 7 năm 1960, chính phủ Malaya tuyên bố tình trạng khẩn
cấp kết thúc, và Trần Bình dời từ miền nam Thái Lan đến Bắc Kinh, được
Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc sắp xếp cư trú.
Tham khảo
1.
^ Geoffrey Jukes (ngày 1 tháng 1 năm 1973). The
Soviet Union in Asia. University of
California Press. tr. 302–. ISBN 978-0-520-02393-2.
2.
^ Mohamed Amin and Malcolm Caldwell (eds.), The
Making of a Neo Colony, (1977), Spokesman Books, UK, footnote, p. 216.
8.
^ O. Tilman, Robert (1966). “The non-lessons of the Malayan
emergency”. Asian Survey 6 (8): 407–419. doi:10.1525/as.1966.6.8.01p01954.
9.
^ O. Tilman, Robert (1966). “The non-lessons of the Malayan
emergency”. Asian survey 6 (8): 407–419. doi:10.1525/as.1966.6.8.01p01954.
11.
^ Joel E. Hamby Civil-military
operations: joint doctrine and the Malayan Emergency, Joint Force Quarterly, Autumn, 2002, Paragraph 3,4
12.
^ Peoples, Curtis. “The Use
of the British Village Resettlement Model in Malaya and Vietnam, 4th Triennial
Symposium (April 11–13, 2002), The Vietnam Center and Archive, Texas Tech
University”.
13.
^ Clutterbuck, Richard (1985). Conflict and violence in
Singapore and Malaysia 1945–83. Singapore: Graham Brash.
14.
^ Ramakrishna, Kumar (tháng 2 năm 2001). “'Transmogrifying' Malaya: The
Impact of Sir Gerald Templer (1952-54)”. Journal
of Southeast Asian Studies (Cambridge University Press) 32 (1):
79–92. doi:10.1017/S0022463401000030. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2014.
15.
^ Ongkili, James P. (1985). Nation-building in Malaysia
1946–1974. Oxford University Press. tr. 79. ISBN 0-19-582681-7.
16.
^ books.google.com.my/books?id=_aPdeJinXGwC&pg=PA298&lpg=PA298&dq=October+resolutions+Malayan+communist+party&ct=result#PPA295,M1.
17.
^ Memorandum from the Chief Minister and Minister for
Internal and Security, No. 386/17/56, ngày 30 tháng 4 năm 1956. CO1030/30
Đọc thêm
·
Comber, Leon (2003). “The
Malayan Security Service (1945–1948)”. Intelligence and National
Security, 18:3. tr. 128–153.
·
Comber, Leon (tháng 2 năm
2006). “The Malayan Special Branch on the Malayan-Thai Frontier during the
Malayan Emergency”. Intelligence and National Security, 21:1.
tr. 77–99.
·
Comber, Leon (2006).
“Malaya's Secret Police 1945–60. The Role of the Special Branch in the Malayan
Emergency”. PhD dissertation, Monash University. Melbourne: ISEAS
(Institute of SE Asian Affairs, Singapore) and MAI (Monash Asia Institute).
·
Hack, Karl (1999).
“Corpses, Prisoners of War and Captured documents: British and Communist
Narratives of the Malayan Emergency, and the Dynamics of Intelligence
Transformation”. Intelligence and National Security.
·
Hack, Karl; Chin, C. C.
(2004). Dialogues with Chin Peng: New Light on the Malayan Communist
Party.
·
Jumper, Roy (2001). Death
Waits in the Dark: The Senoi Praaq, Malaysia's Killer Elite. Greenwood
Press. ISBN 0-313-31515-9.
·
Nagl, John A.
(2002). Learning to Eat Soup With a Knife: Counterinsurgency Lessons
from Malaya and Vietnam. University of Chicago. ISBN 0-226-56770-2.
·
Short, Anthony (1975). The Communist Insurrection in
Malaya 1948–1960. London and New York: Frederick Muller. Reprinted (2000)
as In Pursuit of Mountain Rats. Singapore.
·
Stubbs, Richard
(2004). Hearts and Minds in Guerilla Warfare: The Malayan Emergency
1948–1960. Eastern University. ISBN 981-210-352-X.
·
Taber, Robert
(2002). War of the flea: the classic study of guerrilla warfare.
Brassey's. ISBN 978-1-57488-555-2.
No comments:
Post a Comment