Cách nay 72 năm, cao ủy Đông
Dương là Georges Thierry d'Argenlieu ra lệnh thành lập Cộng hòa tự trị Nam Kỳ
Ngày 01 tháng 06, 1946
Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ
Drapeau
utilisé par le gouvernement de la République autonome de Cochinchine.
Cochinchine
(1862-1946)
République autonome de Cochinchine
(1946-1948)
Gouvernement provisoire du Sud Viêt Nam
(1948-1949)
(1862-1946)
République autonome de Cochinchine
(1946-1948)
Gouvernement provisoire du Sud Viêt Nam
(1948-1949)
La colonie de Cochinchine au sein de
l'Indochine française.
Cộng hòa
tự trị Nam Kỳ (tiếng Pháp: République autonome de Cochinchine) hay các tên gọi khác: Nam Kỳ Cộng hòa quốc, Nam Kỳ quốc, Cộng hòa Nam Kỳ, Nam Kỳ Tự trị là một chính quyền tồn tại từ 1946 đến 1948, về danh nghĩa quản lý lãnh thổ Nam Kỳ (Nam Bộ) Việt Nam.
La Cochinchine en 1881.
La Cochinchine française est une ancienne colonie française,
annexée en 1862 par le traité de Saïgon. Le nom de Cochinchine a d'abord été
employé en Occident pour désigner le Sud de l'actuel Viêt Nam. Après la
conquête française, il a été utilisé pour désigner cette colonie, qui
constituait auparavant l'extrême sud du territoire vietnamien appelé jusque-là Basse-Cochinchine.
En 1887, la colonie de Cochinchine est intégrée à l'Indochine française lors de la formation de celle-ci ; elle demeure
séparée des deux autres parties du territoire vietnamien, l'Annam et le Tonkin, qui ont le statut de protectorats.
Terre de colonisation agricole, la Cochinchine est, avec le protectorat du
Tonkin, l'un des principaux moteurs économiques de l'Indochine française.
En 1946, alors que la France
est en pleine négociation avec les indépendantistes du Việt Minh sur le futur
statut du Viêt Nam, la Cochinchine est proclamée « République autonome », ce qui contribue à l'échec des pourparlers et à
l'éclatement, en fin d'année, de la guerre d'Indochine. L'unification du territoire vietnamien continue ensuite
de buter sur le statut de la Cochinchine, qui n'est réintégrée au reste du pays
qu'en 1949.
La Cochinchine était appelée
par les Vietnamiens Nam Kỳ (« pays du Sud ») ou Nam Bộ (« région
du Sud »), ce dernier terme étant préféré par les nationalistes.
L'amiral Charles Rigault de Genouilly, premier gouverneur de la Basse-Cochinchine au moment de
la conquête militaire.
Một số đặc điểm của Nam Kỳ
Nam Kỳ là vùng
đất mới được khai hoang có những đặc điểm lịch sử, xã hội, kinh tế, chính trị, luật pháp, văn hoá, tâm lý, phong tục, tập
quán,... khác với Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Thời Pháp thuộc,
Nam Kỳ là thuộc địa do người Pháp trực tiếp cai trị với một hệ thống luật pháp
khác hệ thống được áp dụng tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Tại Nam Kỳ không tồn tại bộ
máy hành chính của Triều đình Huế như
ở Bắc và Trung Kỳ.
Về mặt kinh tế,
Nam Kỳ hình thành một tầng lớp đại địa chủ người Việt giàu lên nhờ chính sách
khai hoang của Chính quyền thuộc địa, nhiều người trong tầng lớp này mang quốc tịch Pháp.
Thương mại tại Nam Kỳ đặc biệt là ngoại thương (xuất khẩu nông sản) khá phát
triển. Do kinh tế phát triển nên mức sống tại Nam Kỳ cao hơn các miền khác.
Nam Kỳ có
nền báo chí hình thành sớm nhất tại Việt Nam và phát triển
tương đối tự do vì người Pháp áp dụng quy chế thuộc địa chứ không phải quy chế bảo hộ như
tại Bắc và Trung Kỳ. Hơn nữa Nam Kỳ còn có một tầng lớp trí thức Tây học, nhiều
người trong số này từng du học tại
Pháp hoặc có quốc tịch Pháp.
Gia Định Báo
Chính vì thế mức
độ Âu hoá về kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị, luật pháp, tập quán, lối
sống... ở Nam Kỳ khá cao. Ngoài ra còn phải kể đến những khác biệt do điều kiện
địa lý, đặc điểm dân cư, cấu trúc xã hội và lịch sử chia cắt nhiều thế kỷ với
miền Bắc (Trịnh-Nguyễn phân
tranh) tạo ra.
Tất cả tạo nên
một tâm lý phổ biến trong dân cư Nam Kỳ coi các vùng miền khác là những xứ sở
xa lạ. Tâm lý này có thể được một số chính trị gia khai thác vì mục đích chính
trị.
Trước năm 1945, ở
Nam Kỳ đã có những cá nhân và tổ chức vận động, tuyên truyền đòi người Pháp mở
rộng quyền tự trị cho người Việt như Đảng Lập hiến Đông
Dương. Các cuộc vận động này do tầng lớp
trung lưu và thượng lưu chủ xướng. Sau năm 1945, ý tưởng chính trị này vẫn còn
tồn tại.[cần dẫn nguồn]
Hình thành
Từ trước khi giải
phóng được nước Pháp, Tướng De Gaulle nhân
danh Chủ tịch Chính phủ
lâm thời Cộng hòa Pháp đã tuyên bố
chính sách của Pháp với Đông Dương vào ngày 24 tháng 3 năm 1945. De Gaulle cho
rằng "Năm quốc gia tạo nên Liên bang Đông Dương được phân biệt bằng văn
minh, chủng tộc và truyền thống, sẽ vẫn duy trì những đặc điểm riêng của họ
trong Liên bang.". Như vậy, cho đến cuối Thế chiến thứ II, người Pháp vẫn
xem Bắc, Trung, và Nam Kỳ của Việt Nam là ba quốc gia khác nhau, cùng với Lào
và Cao Miên, tạo thành năm xứ Đông Dương. Việc thành lập Cộng hòa tự trị Nam Kỳ
sau đó cũng nằm trong kế hoạch tái lập Liên bang Đông Dương cũ của Pháp.
Ở Viễn Đông, khi Chiến tranh
thế giới thứ hai kết thúc và Đế quốc Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh ngày
15 tháng 8 năm 1945 thì lãnh thổ Việt Nam từ vĩ
tuyến 16 trở xuống do Quân đội Anh dưới quyền chỉ huy của tướng Douglas
Gracey nhân danh lực lượng Đồng Minh tiếp
quản.
Ngày 23 tháng 9 năm
1945 người Pháp tái vũ trang và sẵn sàng tiếp thu Sài Gòn nhưng phải đợi đến
tháng 10 khi quân Anh chính thức trao chủ quyền lại cho Pháp thì Quân đội Pháp
mới ồ ạt đổ bộ rồi mở rộng đánh chiếm toàn Nam Bộ.
Tháng 2 năm 1946, Ủy
viên Cộng hòa Nam Kỳ (Commissaire
République, tức chức vụ mới lập để gọi người Pháp cầm đầu hành chánh ở Nam
Kỳ) Jean
Cédile cho lập Hội
đồng tư vấn Nam Kỳ (Conseil
consultatif de Cochinchine) với 12 ủy viên, trên danh nghĩa giúp người bản
xứ tự quyết định tương lai xứ sở, nhưng cũng có thâm ý tách dần chính trị Nam
Kỳ khỏi những biến động và thương thuyết ở Bắc và Trung Kỳ. Thành
phần Hội đồng gồm 4 người Pháp và 8 người Việt nhưng tất cả đều có quốc tịch Pháp.
Chính Hội đồng
này sang tháng 3 đã đệ trình một kiến nghị với chữ ký của 8 ủy viên người Việt
lên Cao ủy Đông Dương (tương đương với chức Toàn quyền Đông Dương cũ)
là đô đốc Georges Thierry
d'Argenlieu xin lập một xứ Nam Kỳ
tự trị.
Cédile tỏ rõ ý
định ủng hộ ý đồ "Nam Kỳ tự trị" và hậu thuẫn những đảng phái thân
Pháp như Đảng Nam
Kỳ của Béziat để vận động công
chúng. Những nhóm khác như Đông Dương Tự trị Đảng và Việt Nam Tân dân Đảng cũng
ngả theo lập trường "Nam Kỳ tự trị" của Pháp. Cùng lúc đó thì Đảng
Tân Dân chủ của bác sĩ Nguyễn Văn Thinh tuy tham gia vào Hội đồng Tư vấn Nam Kỳ vẫn cố gắng
tìm chỗ đứng riêng để thu hút các lực lượng không Việt Minh.
Ngày 31 Tháng 5,
1946 Hội đồng tư vấn Nam Kỳ lấy tên mới là Hội đồng Nam Kỳ (Conseil de
Cochinchine) và tăng số ủy viên lên 42 người.
Trong khi Hội nghị
Fontainebleau sắp diễn ra ở Pháp
thì Cao ủy Đông Dương là d'Argenlieu đơn phương tán thành việc thành lập Cộng
hòa tự trị Nam Kỳ ngày 27 tháng 5 năm 1946 và ra tuyên cáo ngày 1 tháng 6 trước
đám đông tụ tập ở Nhà thờ
Đức Bà, Sài Gòn. Ngày 5 tháng 6, tổng
trưởng Pháp Marius Moutet chấp thuận hành xử của d'Argenlieu để "bảo vệ
quyền lợi của dân tộc Nam Kỳ".
Moutet
in 1933
Cũng vào đầu
tháng 6, bác sĩ Nguyễn Văn Thinh được đề cử làm Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Nam Kỳ tự trị. Ủy viên Cédile
liền ký với tân Thủ tướng một hiệp ước nhìn nhận xứ Nam Kỳ là một xứ tự do,
riêng biệt trong khuôn khổ của Liên bang Đông Dương.
Sau đó, báo Cứu
quốc (Việt Minh) phản hồi: "Chúng tôi mong đô đốc Đác giăng li ơ ra
lệnh hạ màn cái trò hề vô vị "Chính phủ Cộng hòa Nam Kỳ" đó đi. Nếu
người Pháp cần phải thử xem Nam bộ có phải là đất Việt Nam không? Thì cứ mở
cuộc trưng cầu dân ý cho công bằng. Tại sao lại một chính phủ tự trị rồi mới
trưng cầu dân ý? Phải chăng người ta muốn đặt dân Việt Nam vào một việc dĩ
nhiên? việc lập một chính phủ tự trị ở giữa nơi quân Pháp đóng trước khi mở
cuộc trưng cầu dân ý để lộ ra một cách vụng về cái ý muốn chia sẻ nước Việt
Nam. Việc lập chính phủ bù nhìn ấy làm cho người ta cảm thấy người Pháp muốn
dùng bọn bù nhìn uy hiếp dân chúng trong cuộc trưng cầu dân ý. Ban Thường trực Quốc hội ra phản đối chính thức. Đoàn
đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Fontainebleau phản đối. Báo Độc
lập ngày 18 tháng 7 năm 1946 bình luận "Ở Cà Mâu, bọn Abalain, Guillemet
chẳng đếm xỉa gì đến chính phủ bù nhìn Quisling Nguyễn Văn Thinh cả... Đồng
thời ở khắp tỉnh, quận, tổng, làng ở Nam Bộ, Pháp thâu dụng một bọn cướp khác.
Bọn này giả danh lập Mặt trận bình dân..."
Giải thể
Bác sĩ Nguyễn Văn
Thinh được đề cử làm Thủ tướng nhưng chỉ được ít lâu thì ông tự sát. Thay ông
là bác sĩ Lê Văn Hoạch rồi Nguyễn Văn
Xuân.
Nguyễn Văn Xuân (1892–1989) là Thủ tướng của Cộng hòa tự trị Nam
Kỳ từ ngày 8 tháng 10 năm 1947 đến ngày 27 tháng 5 năm 1948, sau đó giữ chức vụ Thủ tướng lâm thời của Quốc gia Việt Nam từ ngày 27 tháng 5 năm 1948 đến 14 tháng 7 năm 1949. Ông còn là sĩ quan gốc Việt đầu tiên
mang quân hàm cấp tướng của quân đội Pháp (1947).
Trong thời gian
này, để thu hút sự ủng hộ của dân chúng đối với nhà nước Cộng hòa tự trị Nam Kỳ
mới thành lập, một số người cổ động cho khẩu hiệu "Xứ Nam Kỳ của người Nam
Kỳ".
Tình hình chính
trị tại Nam Kỳ thời điểm này rất phức tạp. Có nhiều phe nhóm khác nhau cùng tồn
tại. Các phe phái cố gắng củng cố quyền lực riêng như Trần Văn Soái (Năm
Lửa) chiếm đóng Cái Vồn (Cần Thơ), Lâm Thành Nguyên (Hai Ngoán) giữ Cái Dầu (Châu Đốc), Lê Quang Vinh (Ba
Cụt) giữ Thốt Nốt (Long Xuyên), Nguyễn Giác Ngộ đặt bản doanh ở Cao Lãnh (Kiến Phong), Cao Đài cát
cứ ở Tây Ninh và Bình Xuyên của Lê Văn Viễn (Bảy
Viễn) định doanh ở Chánh Hưng (Chợ Lớn).
Trần Văn Soái (Năm
Lửa)
Lâm Thành Nguyên (Hai Ngoán)
Tướng
Lê Quang Vinh trong quân phục Đại tá Quân đội Quốc gia
Tướng
Lê Văn Viễn
Đó là chưa kể đến
các tổ chức chính trị như Việt Minh, Đại Việt, v.v. Người Pháp thì không thực lòng tái thiết trật tự
hay xây dựng một xứ Nam Kỳ chân chính mà còn có dụng ý võ trang mỗi nhóm riêng,
trên danh nghĩa là giữ an ninh, nhưng chủ ý là chống lại lực lượng Việt Minh.
Những nhóm này thường xung đột, tranh giành quyền lực khiến tình hình thêm hỗn
loạn.
Theo ông Nguyễn
Kỳ Nam, Mặt trận Quốc
gia liên hiệp, một ủy ban liên hiệp
kháng chiến chống Pháp của các tổ chức cách mạng miền Nam, chủ trương chấp nhận
cho bác sĩ Nguyễn Văn Thinh thành lập chính phủ lâm thời Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ
vì "nếu không có một Chính phủ ở Nam Kỳ, Nam Kỳ là lãnh thổ của Pháp,
theo công pháp quốc tế, nước Pháp vẫn còn ở duyên hải Thái Bình Dương. Tiền đồ
tổ quốc sẽ bị xô vào hai ngả hoặc bị đô hộ lại bởi thực dân, hoặc bị đô hộ lại
bởi cộng sản quốc tế. Hai viễn tượng đều tai hại cho giống nòi.". Nhưng người cộng sản, Việt Minh, đã tách ra sau
sự kiện này, Hội Liên hiệp quốc dân ra đời trong hoàn cảnh đó. Theo kế hoạch
của Mặt trận Quốc gia liên hiệp, họ sẽ đưa bác sĩ Lê Văn Hoạch, người của Mặt trận, chính thức thành lập chính phủ Cộng
hòa Tự trị Nam Kỳ thay thế chính phủ của bác sĩ Thinh. Cuối cùng Mặt trận sẽ
ủng hộ Thiếu tướng Nguyễn Văn
Xuân thành lập Chính phủ Cộng hòa Nam Phần Việt Nam làm tâm điểm hoạt động chính trị cho các đảng phái
quốc gia để đi đến thống nhất dân tộc. Chính phủ Cộng hòa Nam Phần Việt Nam do
Nguyễn Văn Xuân lãnh đạo sẽ tạo ra thế cân bằng với chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo.
Chính phủ này sẽ được thay thế bằng chính phủ Quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại lãnh đạo. Đây là một giai đoạn để đi đến sự đoàn
kết cuối cùng của dân tộc đúng với lập trường của Mặt trận. Mặt trận ủng hộ
việc thành lập Cộng hòa Vệ binh Việt Nam thuộc Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ. Quân đội Cao Đài là
thành viên của Mặt trận được phép nhận khí giới của Pháp để lập quân đội làm
nền tảng cho quân đội quốc gia sau này.
Ngày 19 Tháng Chạp năm 1947 Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân bay sang Hương Cảng yết
kiến Cựu hoàng Bảo Đại và xác nhận ý định thống nhất Nam Kỳ vào nước Việt
Nam và mời cựu hoàng ra chấp chánh hầu điều đình tìm một giải pháp thứ ba ngoài
Pháp và Việt Minh. Việc giải thể Cộng hòa tự trị Nam Kỳ mãi đến ngày 8 Tháng Ba năm 1949 mới bắt đầu theo Hiệp ước Élysées giữa tổng thống
Pháp Vincent Auriol và Bảo Đại. Theo đó thì Pháp công nhận nước Việt
Nam thống nhất.Ngày 23 tháng 4 năm
1949 Nam Kỳ mở cuộc bầu cử Quốc hội chọn 16 dân biểu Pháp
và 48 dân biểu người Việt. Quốc hội này đã biểu quyết chấm dứt "nước Nam
Kỳ" và hiệp nhất vào nước Việt Nam, để sau đó lập ra chính phủ Quốc gia Việt Nam.
Cuối cùng
ngày 22 tháng 5 năm 1949, Quốc hội Pháp chính thức bỏ phiếu thông qua việc sáp
nhập Nam Kỳ vào Quốc gia Việt Nam.
Phản ứng trước sự
thành lập Quốc gia Việt Nam, Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa tuyên bố với thế giới chỉ
có Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn
thể nhân dân Việt Nam. Tuyên bố trên nhanh chóng nhận được sự ủng hộ khi vào
ngày 18-1-1950, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và tiếp sau đó là Liên Xô công
nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Quốc kỳ và Quốc ca
Từ ngày 1 tháng 6, quốc
gia này dùng quốc kỳ nền vàng, với 3 sọc xanh vắt ngang ở giữa. Ý nghĩa của lá
cờ là tượng trưng ba con sông Đồng Nai, Tiền Giang và Hậu Giang (màu xanh lam) trên
đất Nam Kỳ.
Dư luận bấy giờ
không ưa lá cờ này vì cho rằng màu sắc không hợp nhãn quan nên biếm gọi là
"cờ sốt rét".
Lá cờ này tồn tại được 2 năm cho đến khi chính quyền Cộng hòa tự trị Nam Kỳ giải thể và sát nhập vào Quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu ngày 2 tháng 6 năm 1948.
Về quốc ca, bản nhạc
này lấy tám câu đầu của Chinh phụ ngâm làm lời ca, bị công luận cười chê vì nội dung lấy
lời than khóc của một người vợ nhớ chồng mà lại đem làm lời ca. Tác
giả của bài này là Võ Văn Lúa.
Chính phủ
Chính phủ Cộng
hòa tự trị Nam Kỳ hay còn gọi tên khác là "Nam Kỳ tự trị", về danh
nghĩa được Hội đồng Nam Kỳ thành lập ngày 27 tháng 5 năm 1946, dưới sự "sắp đặt" của Jean Marie Arsène Cédile (Ủy viên cộng hòa Pháp tại Nam Bộ) và Georges Thierry
d'Argenlieu (Cao ủy Pháp tại Đông Dương). Đây được xem là một
chiêu bài chủ đạo của Pháp nhằm tách Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam. Tuy
nhiên, chính quyền này bị công luận cho là "bù nhìn" và ly khai, phá
hoại việc đất nước thống nhất, nên chỉ tồn tại trong thời gian ngắn rồi bị giải
thể.
Chính phủ Cộng
hòa tự trị Nam Kỳ là một Chính phủ lâm thời thân Pháp có quyền lực nhỏ bé. Cộng
hòa tự trị Nam Kỳ không được công luận ủng hộ. Người Pháp cũng không tin tưởng
giao thực quyền cho Chính phủ này. Vì những lý do đó Chính phủ Cộng hòa tự trị
Nam Kỳ có thể được xem là một thất bại.
Đứng đầu Chính
phủ là Thủ tướng do Hội đồng Cố vấn Nam Kỳ bầu lên. Hội đồng này do Ủy viên
Cộng hòa Pháp, chức danh mới của Thống đốc Nam Kỳ, tuyển chọn. Người đó
là Jean Marie Arsène Cédile, nắm
quyền an ninh bên trong và bên ngoài nước Cộng hòa. Ngoài ra Cao ủy Pháp tại Đông Dương (chức danh mới
của Toàn quyền Đông Dương) còn có quyền phê chuẩn hoặc bác bỏ mọi bổ nhiệm của Thủ
tướng.
Khi Chính phủ tự
trị Nam Kỳ được thành lập, ngoài các cuộc xung đột vũ trang ở Nam Bộ, Pháp đã
nhiều lần gây hấn với Chính quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng việc tố
cáo Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ là bất hợp pháp. Cao ủy Pháp tại Đông Dương thông
báo với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rằng Nam Bộ là thuộc địa của Pháp
do đó chỉ Quốc hội Pháp mới có thể quyết định sự thay đổi chính thể tại Nam Kỳ
dựa trên kết quả của một cuộc trưng cầu ý dân tại Nam Kỳ. Đáp lại những tuyên
bố gây hấn của Pháp về tính hợp pháp của Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã trả lời cao ủy Pháp d'Argenlieu rằng ủy ban này được thành
lập từ tháng 8/1945 dưới quyền chỉ huy của Chính phủ trung ương, ủy ban này
được Hiệp định sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9 công nhận.
Chính phủ Nam Kỳ
trải qua cải tổ nhiều lần:
Ngày 27 tháng 5 năm 1948, thủ tướng Nguyễn Văn
Xuân trở thành thủ tướng của Chính
phủ Trung ương lâm thời Việt Nam (Provisional
Central Government of Vietnam).
Thủ tướng
Thứ tự
|
Tên
|
Từ
|
Đến
|
Chức vụ
|
Thủ tướng lâm thời
|
||||
1
|
Thủ tướng
|
|||
2
|
Thủ tướng
|
|||
3
|
Thủ tướng
|
Lập trường của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa
Ban đầu, Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa chấp nhận giải pháp lập
một Chính phủ chung cho Bắc và Trung Kỳ, còn vấn đề Nam Kỳ sẽ giải quyết bằng
một cách trưng cầu dân ý tuy nhiên do sự đàn áp của Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ với
những người kháng chiến ủng hộ chính phủ Trung ương Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa nên Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa từ chối giải pháp này. Điều này được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong
cuộc phỏng vấn với ông Vaxiđép Rao, thông tín viên hãng Reuter vào tháng 5-1947
rằng: "Trước kia, chúng tôi đã bằng lòng nhận phương sách đó. Ngày
nay, chúng tôi không thể nhận được nữa, đồng bào chúng tôi ở Nam Kỳ đã chịu sự
hy sinh to lớn để được ở trong Tổ quốc Việt Nam. Chúng tôi không thể phản bội
họ được." Cũng theo chính Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thống
nhất nghĩa là một Chính phủ Trung ương, một Nghị viện Trung ương cho toàn quốc,
Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ sẽ có cơ quan hành chính tự trị riêng, do nhân dân mỗi
kỳ bầu lên theo chế độ dân chủ và dưới sự kiểm soát của Chính phủ Trung ương.
Bên cạnh
đó, Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa coi Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ
chỉ là một chính phủ bù nhìn và chẳng thể giải quyết được vấn đề gì. Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: "Chính phủ bù nhìn ở Nam Bộ, nó đã không
giải quyết được gì, mà chỉ làm kéo dài cuộc chiến tranh và ngǎn trở sự thân
thiện giữa hai dân tộc Việt – Pháp"
Theo báo Cứu
quốc, Hội nghị của chính phủ Nguyễn Văn Xuân là một hội nghị "của
bọn Việt gian", là một "cuộc hội đồng chuột" như
Hội nghị 19/12/1947 tại Hồng Kông nhằm lòe bịp nhân dân Việt Nam và dư luận thế
giới. Quyết nghị và thông cáo của hội nghị này là quyết nghị bán nước.
Tham khảo
·
Goodman, Allan
E. Politics in War. Cambridge, MA: Harvard University Press, 1973.
·
Hoàng Cơ Thụy. Việt
sử khảo luận. Paris: Nam Á, 2002.
No comments:
Post a Comment