Cách nay đúng 73 năm Liên Hiệp Quốc được thành lập
Ngày 26 tháng
06, 1945
·
1945 – Tại hội nghị ở San
Francisco thuộc
Hoa Kỳ, đại biểu từ 50 quốc
gia kí Hiến chương thành lập Liên Hiệp Quốc (hình
hiệu kỳ).
Liên Hiệp Quốc
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Liên Hiệp Quốc hay Liên
Hợp Quốc (thường viết tắt là LHQ) là một tổ chức quốc tế có mục đích duy trì hòa bình và an ninh trên thế giới,
phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và tiến hành hợp tác quốc
tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết
của các dân tộc.
Hiện nay, Liên Hiệp Quốc có 193 thành viên,
bao gồm hầu hết các quốc gia có chủ
quyền trên Trái Đất. Liên
Hiệp Quốc sử dụng 6 ngôn ngữ chính thức: tiếng Ả Rập, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Trung.
Từ trụ sở trong lãnh phận quốc tế tại thành
phố New York, Liên Hiệp Quốc và các cơ quan chuyên môn của nó quyết
định các vấn đề về điều hành và luật lệ. Theo Hiến
chương LHQ thì tổ
chức này gồm 6 cơ quan chính, gồm: Đại Hội
đồng, Hội đồng
Bảo an, Hội đồng Kinh tế và Xã hội, Ban
Thư ký, Tòa án
Công lý Quốc tế, Hội đồng
Quản thác. Ngoài ra, một số tổ chức tiến hành quản
lý các cơ quan của Hệ thống
Liên Hiệp Quốc, ví dụ như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ
Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF).
Nhân vật đại diện tiêu biểu nhất của Liên
Hiệp Quốc là Tổng
Thư ký Liên Hiệp Quốc, đương
nhiệm là António Guterres.
Kinh phí hoạt động của Liên Hiệp Quốc được
hình thành bằng tài trợ đóng góp tự nguyện và nguồn niên liễm có kiểm soát từ các nước thành viên.
Các tổ chức trong
Liên Hiệp Quốc
Lịch sử hình thành
Ngày 1/1/1942, đại biểu 26 nước Đồng Minh gặp
nhau tại Washington ký Tuyên bố Liên Hiệp Quốc cam kết ủng hộ Hiến chương Đại Tây Dương[
Tiền thân của Liên Hiệp Quốc là Hội Quốc Liên (League
of Nations), vốn là một sáng kiến của Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow
Wilson sau chiến tranh thế giới thứ nhất.
Hoa Kỳ tuy sáng lập, nhưng lại không chính thức làm hội viên,
hơn thế quy chế hoạt động của hội lại lỏng lẻo, các cường quốc như Vương quốc Liên hiệp Anh và
Bắc Ireland, Pháp, Nga, Đức, Ý, Nhật Bản tham gia vốn chỉ để tranh giành ảnh hưởng
cho mình. Dù hội đạt được một số thành tựu đáng kể trong công cuộc giải phóng
phụ nữ cũng như những hoạt động nhân đạo nhưng chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và buộc Hội quốc liên phải giải
tán.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các
nước Khối Đồng
Minh và nhân dân thế giới có nguyện vọng giữ gìn hòa bình và ngăn
chặn các cuộc chiến tranh thế giới mới. Tại Hội nghị Yalta, nguyên thủ ba nước Liên Xô,
Mỹ, Anh đã thống nhất thành lập tổ chức quốc tế để giữ gìn hòa bình và an ninh
thế giới. Trên cơ sở Hội nghị Durbarton Oaks ở Washington,
D.C., từ 25 tháng
4 đến 26 tháng
6 năm 1945, đại diện của 50 quốc gia đã họp tại San
Francisco, California, Hoa Kỳ để thông qua Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
Ngày 24 tháng 10 năm 1945, Liên Hiệp Quốc chính thức được thành
lập.
Tuy vậy, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (General Assembly) đầu tiên, tham dự
bởi 51 nước, không được tổ chức cho mãi đến ngày 10 tháng
1 năm 1946 (tại Nhà họp
chính Westminster ở Luân Đôn).
"Một sự nghiệp vĩ đại để tạ ơn Đức Chúa toàn năng..."
Tổng thống Mỹ Harry S.
Truman đã nói
như vậy về thành tựu của hội nghị tại San Francisco, một hội nghị đã góp phần
vào việc soạn thảo bản Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945.
Câu nói của tổng thống Truman đã đại diện cho hàng triệu người,
những người tin rằng tổ chức mới này sẽ làm cho những cuộc chiến tranh thế giới
lùi sâu vào dĩ vãng. Lời tựa của bản Hiến chương đã nêu rõ mục đích của tổ chức
này: "Chúng tôi, những dân tộc của Liên Hiệp Quốc, quyết tâm cứu những thế
hệ mai sau khỏi thảm họa chiến tranh...".
Thành viên
1945
(original members)
1946–1959
1960–1989
1990–present
non-member
observer states
Tới năm 2011 có 193 quốc gia
thành viên Liên Hiệp Quốc, gồm tất cả các quốc gia độc lập được thế giới công nhận.
Trong số những nước không phải thành viên, đáng
chú ý nhất là Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), ghế
của họ tại Liên Hiệp Quốc đã được
chuyển giao cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1971;
Tòa Thánh (thực thể quản lý Thành
Vatican), vốn đã từ bỏ quy chế thành viên nhưng vẫn là một quốc gia quan sát viên; Nhà nước Palestine (là một quan sát viên cùng với Chính quyền Quốc gia
Palestine). Hơn nữa, những dân tộc dưới chủ quyền nước ngoài và các quốc
gia không được công nhận cũng không hiện diện tại Liên Hiệp Quốc, như Transnistria. Thành viên mới nhất của
Liên Hiệp Quốc là Nam Sudan, chính
thức gia nhập ngày 14 tháng
7 năm 2011.
Liên Hiệp Quốc đã vạch ra các nguyên tắc cơ bản cho tư cách
thành viên:
Tư cách thành viên của Liên Hiệp Quốc mở rộng
cho tất cả các quốc
gia yêu chuộng hòa
bình và chịu
chấp nhận các nguyên tắc được đặt ra trong Hiến chương hiện thời và trong các phán quyết của Tổ chức,
có thể và sẵn sàng thực thi những nguyên tắc đó.
Sự thu nhận một quốc gia như thế vào Liên
Hiệp Quốc sẽ bị ảnh hưởng bởi quyết định của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc với sự giới thiệu của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Trụ sở
Trụ sở Liên Hiệp Quốc tại Thành phố New York
Toà nhà trụ sở Liên Hiệp Quốc hiện nay được xây dựng trên một
khu đất rộng 16 acre tại Thành phố New York trong
giai đoạn từ năm 1949 tới 1950, bên cạnh Khu phía Đông của thành phố. Khu đất
này được John D. Rockefeller, Jr. mua với giá 8.5 triệu dollar, con trai ông Nelson là nhà
thương thuyết chủ yếu với chuyên viên thiết kế William Zeckendorf, vào
tháng 12 năm 1946. Sau đó John D. Rockefeller, Jr. tặng khu đất này cho Liên
Hiệp Quốc.
Trụ sở được một đội các kiến trúc sư quốc tế gồm cả Le Corbusier (Thuỵ Sĩ), Oscar
Niemeyer (Brasil) và
đại diện từ nhiều nước khác thiết kế. Wallace K. Harrison, một
cố vấn của Nelson Rockefeller, lãnh đạo đội. Đã xảy ra một vụ rắc rối giữa
những người tham gia về thẩm quyền của từng người.
Trụ sở Liên Hiệp Quốc chính thức mở cửa ngày 9 tháng 1 năm 1951.
Trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc nằm tại New York, trụ sở một số
cơ quan khác của tổ chức này nằm tại Geneva, La Hay, Wien, Montréal, Copenhagen, Bonn và
nhiều nơi khác.
Địa chỉ trụ sở Liên Hiệp Quốc là 760 United Nations Plaza, New
York, NY 10017, USA. Vì những lý do an ninh, tất cả thư từ gửi tới địa chỉ trên
đều được tiệt trùng.
Các tòa nhà Liên Hiệp Quốc đều không được coi là các khu vực tài
phán chính trị riêng biệt,[cần dẫn
nguồn] nhưng
thực sự có một số quyền chủ quyền. Ví dụ, theo những thỏa thuận với các nước
chủ nhà Cơ quan
quản lý thư tín Liên Hiệp Quốc được
phép in tem thư để gửi thư tín trong nước đó. Từ năm 1951
văn phòng tại New York, từ năm 1969 văn phòng tại Geneva, và từ năm 1979 văn
phòng tại Wien đã in ấn tem riêng của mình. Các tổ chức của Liên Hiệp Quốc cũng
sử dụng tiền tố viễn thông riêng, 4U, và về mặt không chính
thức, các trụ sở tại New York, Geneva và Wien được coi là các thực thể riêng
biệt đối với các mục đích radio không chuyên.
Bởi trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc đã trải qua một quá trình sử
dụng khá dài, Liên Hiệp Quốc hiện đang trong quá trình xây dựng một trụ sở tạm
do Fumihiko
Maki thiết
kế trên Đại lộ thứ
nhất giữa
Phố 41 và Phố 42 để dùng tạm khi công trình hiện nay đang
được tu sửa.
Tài chính
Top 15 đóng góp vào ngân sách Liên Hiệp Quốc,
2013
Quốc gia thành viên khác | 20,765%
Tổng cộng trên tất cả quốc gia | 100,000%
Liên Hiệp Quốc hoạt động nhờ tiền đóng góp và tiền quyên tự
nguyện từ các quốc
gia thành viên. Những ngân sách chính thức 2 năm của Liên Hiệp Quốc và các tổ chức chuyên biệt của họ lấy từ những khoản đóng
góp. Đại hội đồng thông qua ngân sách chính thức và quyết định khoản đóng góp của
mỗi quốc gia
thành viên. Điều này dựa chủ yếu trên năng lực chi trả của mỗi nước, tính
theo những số liệu thống kê thu nhập cùng
với những yếu tố khác.
Đại hội đồng đã đưa ra nguyên tắc rằng Liên Hiệp Quốc sẽ
không quá phụ thuộc vào bất kỳ 1 quốc gia
thành viên nào
trong lĩnh vực tài chính cần thiết cho những hoạt động của mình. Vì
thế, có một mức "trần", quy định khoản tiền tối đa một nước có thể
đóng góp cho ngân sách. Tháng 12 năm 2000, Đại
hội đồng đã sửa đổi tỷ lệ đóng góp để phản ánh chính xác hơn cục diện thế giới
hiện tại. Như một phần của sự sửa đổi này, trần đóng góp được giảm từ 25% xuống
22%. Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất đóng góp ở mức trần, nhưng những khoản tiền họ
còn thiếu lên tới hàng trăm triệu dollar (xem Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc).
Theo
mức đóng góp mới được thông qua năm 2000, các nước đóng góp lớn khác vào ngân
sách Liên Hiệp Quốc năm 2001 là Nhật Bản (19.63%), Đức (9.82%), Pháp (6.50%), Anh (5.57%), Ý (5.09%), Canada (2.57%), Tây Ban
Nha (2.53%)
và Brasil (2.39%).
Các chương trình đặc
biệt của Liên Hiệp Quốc không được tính vào ngân sách chính thức của tổ chức này (ví dụ như UNICEF và Chương trình Phát triển
Liên Hiệp Quốc -
UNDP), chúng hoạt động nhờ những khoản quyên góp tự nguyện từ các chính phủ
thành viên. Một số các khoản đóng góp dưới hình thức các loại thực phẩm nông nghiệp viện trợ cho những người bị ảnh
hưởng, nhưng chủ yếu vẫn là tiền mặt.
Ngôn ngữ
Khi Liên Hiệp Quốc được thành lập, có 5 ngôn ngữ chính thức được
lựa chọn (không có tiếng Ả Rập). Tiếng Ả Rập được
đưa vào thêm năm 1973. Hiện
có những tranh cãi trái chiều về việc liệu có nên giảm bớt số lượng ngôn ngữ chính thức (ví dụ
chỉ giữ lại tiếng Anh) hay
nên tăng thêm con số này.[cần dẫn nguồn] Áp lực đòi đưa thêm tiếng
Hindi thành
ngôn ngữ chính thức đang ngày càng gia tăng.[cần dẫn nguồn] Năm 2001, các nước nói tiếng Tây Ban Nha
phàn nàn rằng tiếng Tây Ban Nha không có tư cách ngang bằng so với tiếng Anh. Những nỗ lực chống lại sự tụt giảm vị thế của
tiếng Pháp trong tổ chức này cũng rất to lớn; vì thế tất cả các Tổng thư ký Liên Hiệp
Quốc đều phải biết dùng tiếng Pháp và rõ ràng việc Tổng thư ký mới Ban
Ki-Moon gặp khó
khăn để có thể nói trôi chảy ngôn ngữ này trong buổi họp báo đầu tiên của ông bị một số người coi là một sự mất điểm .
Tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc đối với các tài liệu bằng tiếng
Anh (Hướng dẫn xuất bản Liên Hiệp Quốc) tuân theo quy tắc của tiếng Anh.
Liên Hiệp Quốc và tất cả các tổ chức khác là một phần của hệ thống Liên Hiệp Quốc sử dụng phương
pháp đánh vần Oxford.
Tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc về tiếng Hoa (Quan thoại) đã thay
đổi khi Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) phải
nhường ghế cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1971.
Trong số các ngôn ngữ chính thức của Liên Hiệp Quốc, tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức của 52 quốc gia
thành viên, tiếng
Pháp của 29
thành viên, tiếng Ả Rập là 24, tiếng Tây Ban Nha là 20, tiếng Nga tại 4 và tiếng Trung Quốc tại 2
nước. Tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Đức là
những ngôn ngữ được sử dụng ở nhiều nước thành viên Liên Hiệp Quốc (8 và 6)
nhưng lại không phải là ngôn ngữ chính thức của tổ chức này.
UN Secretaries:
Trygve Lie (Norway) Term of Office: 1946-1952
Dag Hammarskjöld (Sweden) Term of Office: 1953-1961
U Thant (Myanmar) Term of Office: 1961-1971
Kurt Waldheim (Austria) Term of Office: 1972-1981
Javier Perez de Cuellar (Peru) Term of Office: 1982-1991
Boutros Boutros-Ghali (Egypt) Term of Office: 1992-1996
Kofi Annan (Ghana) Term of Office: 1997-2006
Ban Ki-moon (Korea) Term of Office: 2007-2016
Các mục đích và hoạt
động
Các mục
đích của Liên Hiệp Quốc
Những mục đích được nêu ra của Liên Hiệp Quốc là ngăn chặn chiến
tranh, bảo vệ nhân quyền, cung cấp một cơ cấu cho luật pháp quốc tế, và để tăng
cường tiến bộ kinh tế, xã hội, cải thiện các điều kiện sống và chống lại bệnh
tật. Liên Hiệp Quốc tạo cơ hội cho các quốc gia
nhằm đạt tới sự cân bằng trong sự phụ thuộc lẫn nhau trên bình diện thế giới và
giải quyết các vấn đề quốc tế. Nhằm mục đích đó, Liên Hiệp Quốc đã phê chuẩn
một Tuyên ngôn Chung về Nhân quyền năm 1948.
Các hội
nghị quốc tế
Các quốc gia Liên Hiệp Quốc và các cơ quan đặc biệt của nó —
"những stakeholder" của hệ thống — đưa ra hướng dẫn và quyết định về
những vấn đề lớn và vấn đề hành chính trong những cuộc gặp thông lệ được tổ
chức suốt năm. Các cơ cấu quản lý được hình thành từ các quốc gia thành viên,
không chỉ gồm Đại hội đồng, Hội đồng
Kinh tế Xã hội và Hội
đồng Bảo an, mà còn cả các cơ cấu tương đương chịu trách nhiệm quản lý tất cả
các cơ quan khác của Hệ thống Liên Hiệp Quốc. Ví dụ Đại hội đồng Y tế và Ban Chấp hành quản lý công việc của Tổ chức Y tế Thế giới.
Khi một vấn đề được coi là có tầm quan trọng đặc biệt, Đại hội
đồng có thể triệu tập một phiên họp đặc biệt để tập trung sự chú ý toàn cầu và
xây dựng một phương hướng hành động chung. Những ví dụ gần đây gồm:
Hội thảo Liên Hiệp Quốc về Môi trường và
Phát triển (Thượng đỉnh Trái Đất) tại Rio de
Janeiro, Brasil, tháng 6 năm 1992, dẫn tới sự thành lập Uỷ ban
Liên Hiệp Quốc về sự Phát triển Bền vững nhằm thực hiện những điều đã được ký kết tại Chương trình nghị sự 21, văn bản
cuối cùng về những thỏa thuận đã được các chính phủ thảo luận tại UNCED;
Hội nghị
Quốc tế về Dân số và Phát triển, được tổ chức tại Cairo, Ai Cập, vào
tháng 9 năm 1994, đã thông qua một chương trình hành động nhằm giải quyết các
thách thức nguy ngập và mối quan hệ liên quan giữa dân số và sự phát triển bền
vững trong vòng 20 năm tới;
Hội nghị
Thế giới lần thứ tư về Phụ nữ, được tổ chức tại Bắc
Kinh, Trung Quốc, vào
tháng 9 năm 1995, tìm cách đẩy nhanh việc thực hiện những thỏa thuận lịch sử đã
đạt được tại Hội nghị Thế giới lần thứ ba về Phụ nữ;
Hội nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ hai về Sự định
cư Loài người (Habitat II), được
triệu tập tháng 6 năm 1996 tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, đánh giá những thách thức trước sự phát
triển và quản lý định cư loài người trong thế kỷ XXI.
ICARA 2 or ICARA II: Hội nghị Quốc tế về sự Hỗ trợ
Người tị nạn tại châu Phi được thành lập năm 1984.
Những năm
quốc tế và những vấn đề liên quan
Liên Hiệp Quốc tuyên bố và điều phối "Năm quốc tế..."
nhằm tập trung sự chú ý của thế giới vào các vấn đề quan trọng. Sử dụng hình
tượng Liên Hiệp Quốc, một logo được thiết kế đặc biệt cho năm đó, và cơ sở hạ
tầng của Hệ thống Liên Hiệp Quốc nhằm phối hợp các sự kiện trên khắp thế
giới, nhiều năm đã trở thành điểm xúc tác cho những vấn đề quan trọng trên phạm
vi thế giới.
Lá cờ với
biểu tượng Di sản thế giới
Mục tiêu
kiểm soát và giải giáp vũ khí
Hiến chương năm 1945 của Liên Hiệp Quốc dự định đưa ra một hệ
thống quy định sẽ đảm bảo "sự chi tiêu nhỏ nhất các nguồn tài nguyên con
người và kinh tế thế giới cho vũ khí". Phát minh ra các loại vũ khí hạt nhân xảy ra
chỉ vài tuần sau khi Hiến chương được ký kết và ngay lập tức thúc đẩy ý tưởng
hạn chế và giải giáp vũ khí. Trên
thực tế, nghị quyết đầu tiên của phiên họp đầu tiên của Đại hội
đồng (ngày 24 tháng
1 năm 1946) có tiêu đề "Sự thành lập một Ủy ban giải quyết các Vấn đề
Phát sinh do sự Phát minh ra Năng lượng Nguyên tử" và kêu gọi đưa ra những
đề xuất khoa học cho "sự hạn chế trang bị các loại vũ khí nguyên tử và tất
cả các loại vũ khí chính khác với mục đích hủy diệt hàng loạt".
Bài quá dài, phải cắt bớt
Giữ gìn
hòa bình
Darfur, Tây Sahara, Israel/Palestine , Lebanon, Haiti, Liberia, Côte d'Ivoire, Cộng hòa Dân chủ Congo, Sudan, Đông Timor
Lính gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc được gửi tới nhiều vùng nơi
các cuộc xung đột quân sự mới chấm dứt, nhằm buộc các bên tôn trọng các thỏa
thuận hòa bình và ngăn chặn tình trạng thù địch tái diễn, ví dụ tại Đông
Timor cho tới
khi nước này giành độc lập năm 2001. Các lực lượng đó do các quốc gia thành
viên Liên Hiệp Quốc đóng góp, và việc tham dự vào các chiến dịch gìn giữ hòa
bình là không bắt buộc; tới nay chỉ có hai quốc gia là Canada và Bồ Đào Nha, đã tham gia vào tất cả các chiến dịch gìn giữ hòa bình. Liên Hiệp Quốc không duy
trì bất kỳ một lực lượng quân sự độc lập nào. Tất cả các chiến dịch gìn giữ hòa
bình của Liên Hiệp Quốc phải được Hội đồng bảo an thông qua.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Nhân
quyền
Xem thêm: Hiệp định Bổ sung năm 1956 của Liên Hiệp Quốc về việc Xóa bỏ chế
độ Nô lệ và Công ước về Quyền trẻ em
Việc theo đuổi mục tiêu nhân quyền là một lý do chính của việc thành lập Liên
Hiệp Quốc. Sự tàn bạo của Chiến tranh thế giới thứ hai và nạn diệt chủng dẫn tới
một kết luận chung rằng tổ chức mới này phải hoạt động để ngăn chặn bất kỳ một
thảm kịch nào như vậy trong tương lai. Một mục tiêu ban đầu là tạo ra một khung
pháp lý để xem xét và hành động trước những vấn đề về vi phạm nhân quyền.
Hiến chương Liên Hiệp Quốc bắt buộc tất cả các quốc gia thành
viên phải khuyến khích "sự tôn trọng toàn diện và sự tuân thủ nhân
quyền" và tiến hành "các hành động chung hay riêng rẽ" cho mục
tiêu đó. Tuyên bố
Chung về Nhân quyền, dù không chính thức ràng buộc, đã được Đại hội đồng thông qua
năm 1948 như là một tiêu chuẩn chung để hướng tới đối với mọi nước thành viên.
Đại hội đồng thường đề cập tới các vấn đề nhân quyền.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Hỗ trợ
nhân đạo và Phát triển quốc tế
Phối hợp với các tổ chức khác như Chữ thập
đỏ, Liên Hiệp Quốc cung cấp thực phẩm, nước uống, nơi cư ngụ và
các dịch vụ nhân đạo khác cho những người dân đang phải chịu nạn đói, phải rời
bỏ nhà cửa vì chiến tranh, hay bị ảnh hưởng bởi các thảm họa khác. Các cơ quan
nhân đạo chính của Liên Hiệp Quốc là Chương trình Lương thực Thế
giới (đã
giúp cung cấp thực phẩm cho hơn 100 triệu người mỗi năm ở hơn 80 quốc gia), Cao ủy Liên Hiệp Quốc về
người tị nạn hiện
điều hành các dự án ở hơn 116 nước, cũng như các chiến dịch gìn giữ hòa bình
tại hơn 24 quốc gia. Nhiều lần, các nhân viên cứu trợ của Liên Hiệp Quốc đã trở
thành mục tiêu của các vụ tấn công (xem Các vụ tấn
công vào nhân viên cứu trợ nhân đạo).
Liên Hiệp Quốc cũng tham gia vào việc hỗ trợ phát triển, ví dụ thông qua việc đưa ra Các mục
tiêu Thiên niên kỷ. Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) là tổ chức đa
bên lớn nhất tiến hành hỗ trợ kỹ thuật trên thế giới. Các tổ chức khác như WHO, UNAIDS, và Quỹ thế
giới Phòng chống AIDS, Lao và Sốt rét — là các định chế hàng đầu trong cuộc chiến
chống lại bệnh tật trên thế giới, đặc biệt tại các nước nghèo.
Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc là nhà cung cấp chính các dịch vụ sinh sản. Quỹ này
đã giúp giảm tỷ lệ tử vong ở bà mẹ và trẻ em tại 100 quốc gia.
Hàng năm Liên Hiệp Quốc đưa ra Chỉ số Phát triển Con người (HDI), một biện pháp so sánh xếp hạng
quốc gia theo sự nghèo khổ, học vấn, giáo dục, tuổi thọ, và
các yếu tố khác.
Liên Hiệp Quốc khuyến khích phát triển con người thông qua nhiều
cơ quan và văn phòng của mình:
1/ Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) loại trừ bệnh đậu mùa năm 1977 và đang tiến gần tới mục tiêu loại
trừ bệnh bại liệt.
2/ Ngân hàng Thế giới / Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF)
Ghi chú: Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế được thành lập với tư cách
các thực thể riêng biệt khỏi Liên Hiệp Quốc thông qua Thỏa thuận Bretton Woods năm 1944. Sau đó, vào năm 1947, một thỏa
thuận khác được ký kết biến các tổ chức hậu Bretton Woods trở thành các cơ quan
độc lập, chuyên biệt và là những cơ quan giám sát bên trong cơ cấu Liên Hiệp Quốc. Đây là
trang của Ngân hàng Thế giới làm sáng tỏ quan hệ giữa hai tổ chức.
6/ Quỹ Trẻ em Liên Hiệp Quốc(UNICEF)
Ngày 9 tháng 3 năm 2006, Tổng thư ký Kofi
Annan đã lập
ra Quỹ Cứu
trợ Khẩn cấp Trung ương (CERF)
dành cho những người dân Châu Phi đang bị nạn đói đe doạ.
Liên Hiệp Quốc cũng có một cơ quan gọi là Hội đồng
Lương thực Thế giới với mục
đích phối hợp các bộ nông nghiệp các nước nhằm giảm nhẹ nạn đói và suy dinh
dưỡng. Tổ chức này tạm ngừng hoạt động năm 1993.
Các hiệp
ước và luật pháp quốc tế
Liên Hiệp Quốc đàm phán các hiệp ước như Công ước Liên Hiệp Quốc về
Luật biển nhằm
tránh những nguy cơ xung đột quốc tế tiềm tàng. Những tranh cãi về việc sử dụng
các đại dương có thể được phân xử tại một tòa án đặc biệt.
Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) là tòa án chính của Liên Hiệp Quốc.
Mục tiêu của tòa án này là để phán xử những tranh cãi giữa các quốc gia thành
viên. ICJ bắt đầu hoạt động năm 1946 và vẫn đang xem xét nhiều vụ việc. Các
trường hợp đáng chú ý gồm:
1/ Congo và Pháp, khi Cộng hòa Dân chủ Congo cáo buộc Pháp bắt giữ bất hợp pháp các cựu lãnh đạo bị
cho là tội phạm chiến tranh; và
Nicaragua với Hoa Kỳ, khi Nicaragua buộc tội Mỹ trang bị vũ khí bất hợp pháp cho Contras (vụ
này dẫn tới Vụ Iran-Contra).
2/ Năm 1993, đối phó với sự "thanh lọc
sắc tộc" tại Nam Tư cũ, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã thành
lập Tòa án
tội phạm quốc tế cho Nam Tư cũ. Năm 1994, đối phó với nạn diệt chủng tại Rwanda, Hội đồng
đã thành lập Tòa án
tội phạm quốc tế cho Rwanda. Việc phán xử tại hai tòa án đó đã thiết lập
nên cơ sở xác định hiện nay rằng hành vi tội phạm cưỡng bức trong những cuộc
xung đột quân sự là tội ác chiến tranh.
3/ Năm 1998 Đại hội đồng kêu gọi triệu tập
một hội nghị tại Roma về việc thành lập một Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC), tại đây "Quy
chế Roma" đã được
thông qua. Tòa án Tội phạm quốc tế bắt đầu hoạt động năm 2002 và tiến hành phiên xử đầu tiên năm 2006. Đây là tòa án quốc tế thường trực đầu tiên
chịu trách nhiệm xét xử những người bị cho là phạm các tội ác nghiêm trọng theo
luật pháp quốc tế gồm cả tội ác chiến tranh và diệt chủng. Tuy nhiên, hoạt động
của ICC độc lập với Liên Hiệp Quốc cả về nhân sự và tài chính, dù một số cuộc gặp
gỡ của cơ quan điều hành ICC, Đại hội đồng các Quốc gia tham gia Quy chế Roma,
được tổ chức tại Liên Hiệp Quốc. Có một "thỏa thuận quan hệ" giữa ICC
và Liên Hiệp Quốc để quy định mối quan hệ giữa hai định chế này với nhau.
4/ Năm 2002, Liên Hiệp Quốc đã thành lập Tòa án
đặc biệt cho Sierra Leone để đối
phó trước những hành động tàn bạo xảy ra trong thời gian nội chiến tại nước
này.
Cũng có một SCIU (Đơn vị Điều tra những Tội ác Nghiêm trọng) cho
Đông Timor.
Những
gương mặt nổi tiếng của Liên Hiệp Quốc
Nhiều cá nhân theo chủ nghĩa nhân đạo và người nổi tiếng đã cùng
hoạt động với Liên Hiệp Quốc, gồm Amitabh
Bachchan, Audrey
Hepburn, Eleanor
Roosevelt, Danny Kaye, Roger
Moore, Peter Ustinov, Bono, Jeffrey Sachs, Angelina
Jolie, Mẹ Teresa, Shakira, Jay Z và Nicole
Kidman.
Cải cách
Những năm gần đây đã có nhiều lời kêu gọi cải cách Liên Hiệp
Quốc. Nhưng vẫn chưa có nhiều triển vọng sáng sủa, chỉ riêng việc các nước chịu
đồng thuận với nhau, về cách cải tổ như thế nào. Một số nước muốn Liên Hiệp
Quốc đóng một vai trò lớn và hiệu quả hơn trong các công việc chung của thế
giới, những nước khác muốn giảm xuống chỉ còn vai trò nhân đạo.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Tổng thư ký Kofi Annan đã đề xuất hội nghị đồng ý về một
"thỏa thuận cả gói" để cải cách Liên Hiệp Quốc sửa chữa lại các hệ
thống quốc tế vì hòa bình và an ninh, nhân quyền và phát triển, để khiến chúng
có khả năng giải quyết những thách thức rất lớn mà Liên Hiệp Quốc sẽ phải đối
mặt trong thế kỷ XXI. Các nhà lãnh đạo thế giới đã đồng thuận trên một văn bản
về những vấn đề đáng chú ý đó như:
1/ thành lập một Hội đồng xây dựng hòa bình
để tạo lập một cơ cấu trung tâm nhằm giúp đỡ các quốc gia đang đứng trước nguy
cơ xung đột;
2/ thỏa thuận rằng cộng đồng quốc tế có quyền
can thiệp khi các chính phủ quốc gia không thể hoàn thành trách nhiệm của họ
trong việc bảo vệ các công dân của mình khỏi những hành động tội ác;
4/ một thỏa thuận cung cấp thêm những nguồn
tài nguyên cho Văn
phòng các Dịch vụ Giám sát Nội bộ Liên Hiệp Quốc;
5/ hiều thỏa thuận chi thêm hàng tỷ dollar
nhằm đạt các Mục tiêu Thiên niên kỷ;
7/ một quỹ dân chủ;
8/ một thỏa thuận nhằm chấm dứt hoạt động của
Hội đồng Quản thác vì hội đồng này đã hoàn thành sứ mệnh của mình.
Dù các nước thành viên Liên Hiệp Quốc chưa đạt được nhiều thành
quả trên con đường cải cách sự quan liêu của tổ chức này, Annan vẫn tiếp tục
tiến hành những cải cách trong phạm vi quyền hạn của mình. Ông đã lập ra các
văn phòng đạo đức, chịu trách nhiệm trừng phạt những hành vi gian lận tài chính
mới bị phanh phui và đề xuất những chính sách ngăn ngừa mới. Tới cuối tháng 12
năm 2005, ban thư ký đã hoàn thành việc xem xét lại toàn bộ ủy nhiệm của Đại
hội đồng từ hơn năm năm trước. Việc điều tra này là cơ sở căn bản để các quốc
gia thành viên quyết định tăng hay giảm các chương trình hoạt động theo hiệu
quả của chúng.[cần dẫn
nguồn]
Những mục tiêu phát
triển thiên niên kỷ
Các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ là tám mục tiêu mà toàn bộ
192 nước thành viên Liên Hiệp Quốc đã đồng ý sẽ hoàn thành vào năm 2015. Borgen Project ước tính rằng cần chi khoảng 40-60 tỷ dollar
mỗi năm để đạt tám mục tiêu trên.
Tuyên bố
thiên niên kỷ Liên Hiệp Quốc, được ký kết tháng 9 năm 2001,
hứa hẹn:
1/ Loại trừ nghèo đói;
5/ Cải thiện sức khỏe bà mẹ;
7/ Đảm bảo môi trường bền vững;
8/ Khuyến khích một mối quan hệ đối tác
phát triển quốc tế.
Những thành công và
thất bại trong các vấn đề an ninh
Một phần lớn trong chi tiêu của Liên Hiệp Quốc là để giải quyết
các vấn đề cốt lõi về hòa bình và an ninh của Liên Hiệp Quốc. Ngân sách gìn giữ
hòa bình năm tài chính 2005-2006 gần 5 tỷ dollar (so với mức gần 1.5 tỷ dollar
ngân sách chính của Liên Hiệp Quốc trong cùng giai đoạn)[cần dẫn
nguồn], với khoảng 70.000 quân được triển khai cho 17
chiến dịch khắp thế giới. Báo cáo
An ninh Con người 2005 , do
Trung tâm An ninh Con người thuộc Đại học British Columbia đưa ra với sự hộ trợ từ nhiều chính phủ và
quỹ khác cho thấy một sự sụt giảm lớn, nhưng phần lớn không được công nhận,
trong số lượng các cuộc chiến, những vụ diệt chủng và những vụ vi phạm nhân
quyền từ cuối giai đoạn Chiến tranh Lạnh. Những con số thống kê gồm:
·
Giảm 40% những cuộc xung đột bạo lực.
·
Giảm 80% những cuộc xung đột gây đổ máu nhiều nhất.
·
Giảm 80% những cuộc diệt chủng và thanh lọc chính trị.
Báo cáo, do Oxford University Press[cần dẫn nguồn], cho
rằng sự tuyên truyền cho một học thuyết quốc tế - chủ yếu do Liên Hiệp Quốc đề
xướng - là nguyên nhân chính mang lại sự sụt giảm những cuộc xung đột quân sự,
dù bản báo cáo cho thấy bằng chứng về sự tranh cãi này đa phần chỉ mang tính
hoàn cảnh.
a/ Tăng sáu lần số lượng các chiến dịch của
Liên Hiệp Quốc được tiến hành để ngăn chặn chiến tranh trong giai đoạn 1990 tới
2002.
b/ Tăng bốn lần cho các nỗ lực nhằm chấm dứt
những cuộc xung đột đang diễn ra, từ năm 1990 tới 2002.
c/ Tăng bảy lần số lượng ‘Bạn bè của Tổng
thư ký’, ‘Các nhóm tiếp xúc’ và các cơ cấu do chính phủ đề xuất nhằm hỗ trợ các
chiến dịch kiến tạo hòa bình và xây dựng hòa bình trong giai đoạn từ 1990 đến
2003.
d/ Tăng mười một lần số lượng các lệnh trừng
phạt kinh tế chống lại các chế độ cầm quyền trên khắp thế giới từ 1989 tới
2001.
e/ Tăng bốn lần số lượng các chiến dịch gìn
giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc, từ 1987 đến 1999.
Tính trung bình, những nỗ lực trên vừa nhiều vừa quá lớn lại
phức tạp hơn những chiến dịch thời Chiến tranh Lạnh.
Trong lĩnh vực gìn giữ hòa bình, các thắng lợi gồm:
a/ Văn phòng Giải trình Chính phủ Hoa Kỳ đã
kết luận rằng việc gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc có chi phí ít hơn tám lần
so với khoản chi cho lực lượng Hoa Kỳ.
b/ Một nghiên cứu năm 2005 của RAND Corp
cho thấy Liên Hiệp Quốc thành công ở hai trong số ba chiến dịch gìn giữ hòa
bình của mình. Nghiên cứu này cũng so sánh những nỗ lực xây dựng nhà nước của
Liên Hiệp Quốc với cũng nỗ lực của Hoa Kỳ, và thấy rằng trong tám trường hợp của
Liên Hiệp Quốc, bảy trường hợp diễn ra trong hòa bình, trong khi trong tám trường
hợp của Hoa Kỳ, bốn diễn ra trong hòa bình, và bốn không hề hay chưa hề có hòa
bình.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp các quốc gia thành viên Liên
Hiệp Quốc bất đắc dĩ phải thực hiện các nghị quyết của Hội đồng Bảo an. Iraq
được cho là đã vi phạm 17 nghị quyết của Hội đồng bảo an từ ngày 28 tháng 6 năm
1991 cũng như đã tìm cách né tránh những lệnh trừng phạt kinh tế của Liên Hiệp
Quốc. Trong gần một thập kỷ, Israel bất chấp các nghị quyết kêu gọi tháo dỡ các
khu định cư của họ tại Bờ Tây và Dải Gaza. Những
thất bại đó xuất phát từ tình trạng phụ thuộc đa chính phủ của Liên Hiệp Quốc -
ở nhiều khía cạnh đây là một tổ chức gồm 192 quốc gia thành viên và luôn cần
phải có sự nhất trí, chứ không phải là một tổ chức độc lập. Thậm chí khi các
hành động được 15 nước thành viên Hội đồng bảo an thông qua, Ban thư ký hiếm
khi cung cấp đủ các nguồn tài nguyên cần thiết để thực hiện các sứ mệnh đó.
Những thất bại khác trong vấn đề an ninh gồm:
a/ Thất bại trong việc ngăn chặn vụ Diệt chủng tại Rwanda năm 1994, dẫn tới cái chết của gần một triệu
người, vì các thành viên của hội đồng bảo an từ chối thông qua bất kỳ một hành
động quân sự nào.
b/ Thất bại của MONUC (Nghị quyết 1292 của UNSC) trong
việc can thiệp một cách có hiệu quả vào cuộc Chiến
tranh Congo lần thứ hai, liên quan tới gần năm triệu người tại Cộng hòa Dân chủ Congo, 1998-2002 (với những trận
đánh vẫn đang tiếp diễn), và trong việc tiến hành cung cấp viện trợ nhân đạo.
c/ Thất bại trong việc can thiệp vào Cuộc thảm sát Srebrenica năm 1995, dù sự thực là Liên hiệp quốc đã
coi Srebrenica là một "thiên đường an toàn" cho những người tị nạn và
phái 600 lính gìn giữ hòa bình Hà Lan tới bảo vệ nó.
d/ Thất bại trong việc cung cấp thực phẩm tới
những người dân đói khát tại Somalia; thực
phẩm thường bị các lãnh chúa địa phương chiếm đoạt. Một nỗ lực của Hoa Kỳ/Liên
Hiệp Quốc trong việc bắt giữ các vị lãnh chúa đó đã dẫn tới Trận Mogadishu năm 1993.
e/ Thất bại trong việc thực hiện 1559 và Nghị
quyết 1701 của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc kêu gọi giải giáp các nhóm bán quân sự
Liban như Fatah và Hezbollah.
f/ Lạm dụng tình dục của binh lính gìn giữ
hòa bình Liên Hiệp Quốc. Binh lính gìn giữ hòa bình từ nhiều quốc gia đã bị thải
hồi khỏi các chiến dịch gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc vì hành động lạm dụng
và bóc lột tình dục các cô gái, thậm chí mới chỉ 8 tuổi, trong một số chiến dịch
gìn giữ hòa bình khác nhau. Sự lạm dụng tình dục này vẫn diễn ra dù đã có nhiều
sự phát hiện và bằng chứng từ Văn phòng Liên Hiệp Quốc về Dịch vụ Giám sát Nội
bộ. Một cuộc điều tra nội bộ năm 2005 của Liên
Hiệp Quốc cho thấy sự khai thác và lạm dụng tình dục đã được báo cáo tại ít nhất
năm quốc gia nơi các binh lính gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc được triển khai,
gồm Cộng hòa Dân chủ Congo, Haiti, Burundi, Côte d'Ivoire và Liberia. BBC đã tiến hành một cuộc điều tra tương tự,
và cũng chỉ ra một số thành viên Chương trình Lương thực Thế giới cũng có những
hành vi lạm dụng.
Chỉ trích và mâu
thuẫn
Xem thêm: Trung Quốc và Liên Hiệp Quốc, Israel và Liên Hiệp Quốc, Liên bang Xô viết và Liên Hiệp Quốc, và Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc
Hội đồng
bảo an
Liên Hiệp Quốc đã bị chỉ trích vì không thể hoạt động một cách
rõ ràng và kiên quyết khi đối đầu trước một vụ khủng hoảng. Những ví dụ gần đây
gồm chương
trình hạt nhân của Iran và sự
diệt chủng trong cuộc xung đột Darfur, Sudan. Vì
mỗi nước trong số năm thành viên thường trực của Hội đồng bảo an đều có quyền
phủ quyết, và bởi vì họ thường bất đồng với nhau, đã rất nhiều lần không có bất
kỳ một hành động nào được thông qua. Thông thường, nhưng không phải là luôn
luôn, sự chia rẽ này xuất hiện giữa Hoa Kỳ ở một phía và Trung Quốc, Nga hay cả
hai ở phía kia. Một số lần Hội đồng bảo an đồng thuận với nhau nhưng lại thiếu
sự quyết tâm hay phương tiện để thực thi các nghị quyết của họ. Một ví dụ gần
đây là Cuộc khủng
hoảng Israel-Liban 2006, không hành động nào được thực hiện theo Nghị quyết
1559 và Nghị quyết
1701 để giải
giáp các lực lượng du kích phi chính phủ như Hezbollah. Những
lời chỉ trích đặt nghi vấn về hiệu năng và sự thích hợp của Hội đồng bảo an bởi
vì khi vi phạm vào một nghị quyết do Hội đồng này đưa ra, thường cũng không xảy
ra hậu quả nào cả. (Xem Cải cách
Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.)
Giám sát
nhân quyền
Các quốc gia như Sudan và Libya, với
những nhà lãnh đạo rõ ràng có bảng thành tích nhân quyền kém cỏi vẫn(theo quan
điểm của Mỹ và một số nước được là thành viên của Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Nhân
quyền (HRC) cũ, và việc Libya được bầu làm chủ tịch của Ủy
ban này, đã từng là một vấn đề bàn cãi. Những nước đó cho rằng, các quốc gia
phương tây, mà họ cho là có thái độ thù địch thực dân và tàn
bạo, không có quyền đặt vấn đề về tư cách thành viên của họ trong Ủy ban này.
Tuy nhiên vào ngày 15 tháng
3 năm 2006 Đại hội
đồng đã thông qua nghị quyết thành lập một cơ chế mới - Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp
Quốc – để
thay thế Ủy ban trên. Cơ quan này có các quy định chặt chẽ hơn về quy chế thành
viên gìn giữ hòa bình gồm cả một bản thành tích chung về nhân quyền và tăng số
lượng phiếu cần bầu cần thiết để một quốc gia có đủ tư cách tham gia, từ hình
mẫu bầu theo danh sách vùng với Hội đồng kinh tế xã hội 53 thành viên chuyển
sang tất cả một nửa trong số 192 thành viên của Đại hội đồng.
Ngày 9 tháng 5 năm 2006 47
thành viên mới được bầu vào hội đồng. Trong khi một số nước như Cuba, Pakistan, Nga, Ả Rập Xê Út và Azerbaijan được bầu, thì
một số nước khác không có mặt trong Hội đồng mới như:
c/ Các quốc gia muốn tham gia nhưng không
nhận đủ số phiếu: Iran, Venezuela, Thái
Lan, Iraq và Kyrgyzstan
Vì những thay đổi trong cơ chế thành viên giữa Ủy ban và Hội
đồng, số lượng quốc gia bị Hội đồng Tự do coi là "Không tự do" chiếm
hơn một nửa.
Thiếu
hiệu năng do tính quan liêu
Liên Hiệp Quốc đã bị cáo buộc thiếu tính hiệu năng và lãng phí
vì cơ cấu cồng kềnh và quan liêu quá mức của nó. Trong thập niên 1990, Hoa Kỳ, nước hiện đóng góp
nhiều nhất cho ngân sách tổ chức này, đã coi sự thiếu hiệu quả là một nguyên
nhân khiến họ trì hoãn các khoản đóng góp. Việc chi trả những khoản thiếu này
chỉ được thực hiện với điều kiện về sáng kiến cho một cuộc cải cách lớn. Năm
1994 Văn phòng Dịch vụ Giám sát Nội bộ (OIOS) được thành lập theo quyết định
của Đại hội đồng nhằm đóng vai trò giám sát tính hiệu năng của tổ chức. Một chương trình cải cách đã được đề xuất, nhưng vẫn chưa được Đại
hội đồng thông qua.
Sự phân
biệt đối xử chống Israel
Liên Hiệp Quốc cũng đã bị cáo buộc thực hiện tiếp cận một chiều
đối với các vấn đề Trung
Đông và cuộc
xung đột Israel-Palestine. Những lời cáo buộc cho rằng Israel đã bị
phân biệt đối xử trong tổ chức quốc tế này với cách đối xử chỉ trích một chiều
độc nhất từ trước tới nay. Không giống như tất cả các nhóm người tị nạn khác,
người Palestine có cơ quan riêng của họ bên trong Liên Hiệp Quốc (Cơ quan Cứu
trợ và Việc làm Liên Hiệp Quốc cho người tị nạn Palestine) tách
biệt với Văn phòng
Cao ủy Liên Hiệp Quốc về Người tị nạn, vốn chịu trách nhiệm về tất
cả các vấn đề người tị nạn trên thế giới.
Cho tới tận năm 2000, Israel không có tư cách thành viên bên
trong bất kỳ một nhóm cấp vùng nào của Liên Hiệp Quốc. Trên thực tế, điều này
có nghĩa là Israel bị cấm hoạt động trong các cơ quan Liên Hiệp Quốc như Hội
đồng Bảo an. Việc cho phép Israel tham gia đầy đủ hơn bên trong Liên Hiệp Quốc
với tư cách là một quốc gia thành viên Tây Âu và các nhóm cấp vùng khác gần đây
chỉ mang tính tạm thời và bắt buộc phải được gia hạn định kỳ. Israel chỉ được
phép tham gia vào các hoạt động tại Thành phố New York của
Liên Hiệp Quốc và bị loại trừ khỏi các văn phòng Liên Hiệp Quốc tại Geneva, Nairobi, Roma và Wien là những văn phòng quản lý các vấn đề như
nhân quyền và kiểm soát vũ khí. Việc chỉ trích Israel đã trở thành một công
việc thường ngày đối với nhiều cơ quan Liên Hiệp Quốc như Hội đồng Nhân quyền.
Bất lực
trước vấn đề diệt chủng và nhân quyền
Liên Hiệp Quốc cũng bị cáo buộc đã cố tình làm ngơ trước hoàn
cảnh khó khăn của nhiều người trên khắp thế giới, đặc biệt tại nhiều vùng ở Châu Á, Trung
Đông và Châu Phi. Những
ví dụ hiện tại gồm việc Liên Hiệp Quốc không hành động gì trước chính phủ Sudan tại
Darfur, việc thanh lọc sắc tộc của chính phủ Trung Quốc tại Tây Tạng và Israel tại các vùng lãnh thổ Palestine.
Bê bối
trong chương trình đổi dầu lấy lương thực
Chương trình đổi dầu lấy lương thực được Liên Hiệp Quốc đưa ra
năm 1995. Mục tiêu của nó là cho phép Iraq bán dầu ra thị trường thế giới để đổi lấy lương thực, thuốc men, và các đồ nhu yếu phẩm khác cho người dân
Iraq bị ảnh hưởng bởi lệnh cấm vận kinh tế quốc tế, mà không cho phép Chính phủ Iraq tái xây dựng lại lực lượng quân đội của
mình sau cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất. Chương trình đã bị ngắt quãng
vào cuối năm 2003 trước những lời cáo buộc ngày càng lan rộng về sự lạm dụng và
tham nhũng. Cựu giám đốc, Benon Sevan người Síp, là người đầu tiên bị đình chỉ chức vụ và sau đó phải từ chức
khỏi Liên Hiệp Quốc, khi một bản báo cáo tạm
thời của ban
điều tra do Liên Hiệp Quốc hỗ trợ dưới sự lãnh đạo của Paul Volcker kết luận rằng Sevan đã nhận đút lót từ phía
chính quyền Iraq và đề xuất việc bãi bỏ quyền bất khả xâm phạm thuộc Liên Hiệp
Quốc của ông ta nhằm mở đường cho một cuộc điều tra tội phạm.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Những cáo
buộc về lính gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc
Tháng 12 năm 2004, trong chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên
Hiệp Quốc tại Congo, ít nhất 68 vụ bị cho là cưỡng hiếp, mại dâm và hơn 150 cáo
buộc khác đã bị các nhà điều tra Liên Hiệp Quốc phát giác, tất cả đều có liên
quan tới binh lính gìn giữ hòa bình, đặc biệt là các binh lính từ Pakistan, Uruguay, Maroc, Tunisia, Nam Phi và Nepal. Những binh lính gìn giữ hòa bình từ 3 trong số các quốc gia
này cũng bị cáo buộc cố tình cản trở quá trình điều tra.[40] Tương
tự, một chuyên gia hậu cần Liên Hiệp Quốc người Pháp tại Congo cũng bị cáo buộc
hãm hiếp và khiêu dâm trẻ em trong cùng tháng.
BBC đã thông báo rằng các cô gái trẻ đã bị binh
lính gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc lạm dụng và hãm hiếp tại Port-au-Prince.[41] Những lời cáo buộc tương tự cũng đã được
nêu ra tại Liberia và Sudan.[42]
Chính sách nhân sự
Liên Hiệp Quốc và các cơ quan của mình được hưởng quy chế miễn
trừ đối với pháp luật tại các quốc gia nơi họ hoạt động, gìn giữ không thiên vị
với sự tôn trọng nước chủ nhà, và quốc gia thành viên.[cần dẫn nguồn] Việc thuê mướn và sa thải, giờ làm việc và môi trường làm việc, thời gian nghỉ, hưu trí, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tuổi thọ, lương bổng, tiền
trợ cấp xa gia đình và các điều kiện sử dụng lao động chung thực hiện theo các
quy định của Liên Hiệp Quốc. Sự độc lập này cơ phép các cơ quan thực hiện các
chính sách nguồn nhân lực thậm chí trái ngược với luật lệ của nước
chủ nhà hay quốc gia thành viên. Ví dụ, một người không đủ tư cách làm việc tại Thụy Sĩ, nơi Tổ chức Lao động Thế giới (ILO) đóng trụ sở, không thể được làm việc
cho ILO trừ khi anh/cô ta là người của quốc gia thành viên ILO.
No comments:
Post a Comment