Cách nay đúng 733
năm tức ngày 14 tháng 6, năm 1285; Trần Quang Khải đánh tan quân Nguyên ở Chương Dương nay thuộc Hà Nội, Việt
Nam.
Ngày 14 tháng
06, 1285
·
1285 – Trần Quang Khải lãnh đạo
quân Trần đánh bại thủy quân Nguyên ở Chương Dương nay thuộc Hà Nội, Việt
Nam.
(Chuyện nước nhà như huyền thoại. Chỉ có tiếng Việt)
Chiến tranh Nguyên Mông-Đại
Việt lần 2
Chiến tranh Nguyên Mông - Đại Việt lần 2 (1285)
Thời gian Năm
1285
Địa điểm Bắc
Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam
Kết quả Quân
Đại Việt chiến thắng, Nguyên Mông phải rút lui khỏi Đại Việt
Tham chiến
Quân tình nguyện người Tống
Chỉ huy
Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 2 là cuộc chiến
tranh giữa Đại
Nguyên và Đại Việt diễn ra
trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm 1285 (dương lịch).
Cho dầu quân Nguyên Mông hùng mạnh và có nhiều Vương hầu của
triều Trần mang tư tưởng cầu an, quân dân Đại Việt dưới sự lãnh đạo của Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua con Trần Nhân Tông đã
giành chiến thắng vang
dội trong cuộc kháng chiến này, thể hiện "Hào khí Đông A"
của nước Đại Việt thời đó.
Bối cảnh
Năm 1258, quân Mông Cổ từng thất bại ở Đại Việt trong việc tìm cách mở một hướng từ phía
Nam để đánh vào lãnh thổ Nam Tống.
Northern Song
in 1111
Năm 1279, Nam Tống hoàn toàn bị Đại Nguyên thôn tính. Tháng 8
năm này, hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt ra lệnh
đóng thuyền chiến chuẩn bị đánh Đại Việt và Nhật Bản.
Đụng độ đầu
tiên
Vua Trần cáo bệnh từ chối và cử chú mình là Trần Di Ái sang thế.
Vua Nguyên nhân cơ hội này phong Trần Di Ái làm An Nam quốc vương và gửi thư cho vua Trần thông báo việc
lập Di Ái thay vua Trần. Lúc này, vua Trần là Trần Nhân Tông và Thái thượng
hoàng là Trần Thánh Tông.
Ngày 27 tháng 11 năm 1281, nhà Nguyên thành lập An Nam tuyên úy ty và cử Buyan Tamur làm An Nam tuyên úy sứ đô nguyên soái, Sài Thung và Qugar làm phó. Khoảng đầu tháng 1 năm
1282, Sài Thung được lệnh đem hơn 1.000 quân người Hán trong
quân đội Nguyên hộ tống Trần Di Ái về Đại Việt làm
vua. Tuy nhiên, vua Trần Nhân Tông đã cho
người đón đánh khiến Trần Di Ái sợ trốn về nước Nguyên, chỉ còn Sài Thung sang.
Sau những sự kiện này, quan hệ ngoại giao vốn bằng mặt nhưng
không bằng lòng giữa hai nước suốt từ năm 1258 trở nên căng thẳng với ít nhân nhượng. Nhà
Trần nhiều lần từ chối các yêu cầu của nhà Nguyên như việc vào năm 1283 nhà Nguyên yêu cầu nhà Trần giúp binh lương
cho việc chinh phạt
Chiêm Thành(Trần Nhân
Tông trả lời
rằng nước nghèo nên không thể cấp binh lương nhiều được) Không những vậy, Đại Việt còn gửi
quân sang chi viện cho Chiêm
Thành(2 vạn quân binh và 500 chiến thuyền). Còn Sài Thung thực hiện
một thái độ cư xử hống hách ngay giữa triều đình nhà Trần.
Mặt trận ở
nước láng giềng
Cuối năm 1282, Toa Đô (Sogetu) chỉ
huy một hạm đội hải quân Nguyên sang đánh Chiêm Thành. Quân
Chiêm yếu thế rút khỏi kinh đô vào rừng núi chống cự, Toa Đô đánh nhiều lần không được. Nhà Trần điều
quân và thuyền chiến sang giúp Chiêm chống quân Nguyên.
Năm 1283, Hốt Tất Liệt sát
nhập hành tỉnh Kinh Hồ - Chiêm Thành làm một, biến những vùng đất đã chiếm được
của Chiêm Thành trở thành căn cứ phía Nam để đánh Đại Việt.
Khoảng cuối tháng 12 năm 1284 đầu tháng 1 năm 1285, Toa Đô viết
thư tâu với vua Nguyên rằng:
"Giao Chỉ liền đất với Chân Lạp, Chiêm Thành, Vân Nam, Xiêm, Miến, nên lập tỉnh ngay trên đất
ấy và đóng quân trấn giữ ở ba đạo Việt Lý,Triều Châu, Tỳ Lan, lấy lương ở đó cấp cho quân sĩ, tránh được việc vận tải đường biển
mệt nhọc".
Đề nghị đó được Hốt Tất Liệt đồng tình. Đại Việt rơi vào
tình thế trước mặt sau lưng đều có hiểm họa. Chiến tranh chuẩn bị bùng nổ.
Chuẩn bị và củng cố
lực lượng
Quân đội
Mông-Nguyên
Ngày 21 tháng 7 năm 1284, Hốt Tất Liệt phong con trai thứ 9 của
mình tên Toghan (Thoát Hoan) làm Trấn Nam vương. Ariq Qaya, viên tướng
xuất sắc người Uigur của nhà Nguyên, được chọn làm phó cho Thoát
Hoan, và được phong làm An Nam hành trung thư tỉnh tả thừa tướng. Các tướng
lĩnh đáng chú ý khác của đội quân Nguyên là Lý Hằng - viên tướng xuất sắc người Tây Hạ của nhà Nguyên, Koncak (Khoan Triệt, người Uzbek), Bolqadar (Bột La Hợp Đáp Nhĩ), Satartai (Sát Tháp Nhi Đài),
Mangqudai (Mãng Cổ Đái),
Naqai (Nạp Hải), các
tướng người Hán là Lý Bang Hiến, Tôn Hựu, Tôn Đức Lâm, Lưu Thế Anh, Lưu Khuê, Nghê Nhuận.
Đặc biệt, nhà Nguyên sai Tangutai đến Chiêm Thành để truyền lệnh của vua
Nguyên điều đạo quân Nguyên đang chinh phạt Chiêm Thành chuyển sang chiến
trường Đại Việt hòng
tạo thêm một cánh quân đánh từ phía Nam, hợp với cánh phía Bắc của Thoát Hoan
tạo ra thế gọng kìm bao vây Đại Việt ở giữa. Đạo quân này lúc xuất phát từ Quảng Đông đi
Chiêm Thành gồm 20 vạn[cần dẫn
nguồn] quân
do Toa Đô chỉ huy. Không rõ sau mấy năm chiến đấu với
Chiêm Thành trong điều kiện đói khát, quân số của đạo quân này khi đánh vào Đại
Việt là bao nhiêu.
Để phục vụ cho lực lượng chinh phạt Đại Việt, nhà Nguyên đã
chuẩn bị 3 vạn thạch lương.
Lực lượng quân y do Trâu Tôn chỉ huy. Vua Nguyên sai sứ đòi Đại Việt phải cho
quân Nguyên mượn đường và cung cấp lương thảo để chinh phạt Chiêm Thành. Vua
Trần từ chối vì biết đây chỉ là kế "Mượn đường diệt Quắc".
Quân đội
Nhà Trần
Về phía Đại Việt, các vương tôn nhà Trần được lệnh tuyển thêm
quân vào các lực lượng riêng của mình. Quân đội liên tục được tập trận. Cuối
tháng 11 đầu tháng 12 năm 1282, ngay sau khi nhận được tin tình báo về ý đồ của nhà Nguyên, vua Trần đã triệu
tập một hội nghị quân sự tại Bình Than để "bàn kế đánh phòng" và
"chia quân giữ nơi hiểm yếu". Tất
cả các tướng lĩnh phạm tội, như Trần Khánh Dư, đều được tha tội để đến hội
nghị bàn việc. Đại Việt sử ký toàn thư chép việc Trần Quốc Toản vì nhỏ
tuổi không được dự Hội nghị Bình Than đã tức
giận bóp nát quả cam.
Bìa sách Đại
Việt sử ký toàn thư, bản in Nội các quan bản. Cột chữ bên phải là Vựng
lịch triều chi sự tích nghĩa là "góp nhặt sự tích của các triều đại đã
qua". Cột chữ bên trái là Công vạn thế chi giám hoành nghĩa là
"nêu gương chung công lao của vạn đời".
Trần Quốc Tuấn đã viết Hịch tướng sĩ để nâng
cao tinh thần của quân sĩ. Nhiều chiến sĩ Đại Việt đã xăm hai chữ Sát Thát (Sát nghĩa là "giết", còn Thát
chỉ người Mông Cổ) vào tay để thể hiện quyết tâm chiến đấu của mình.
Đến tháng 12 năm Giáp Thân (tháng 1 đầu tháng 2 năm 1285), Thái
thượng hoàng Trần Thánh Tông đã mời
những bậc tuổi cao có uy tín trong cả nước về điện Diên Hồng ở kinh
đô Thăng
Long để
trình bày chủ trương của triều đình. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng, trong Hội nghị Diên Hồng, khi được vua hỏi có nên đánh
lại quân Nguyên hay không, thì các phụ lão đã "vạn người cùng nói như từ
một miệng": "Đánh!".
Còn Nguyên sử đã chép lại việc quân Nguyên sau này khi
vào Đại Việt đi qua các địa phương đã thấy các thông báo của triều đình Đại
Việt cho dân chúng rằng "Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc
ngoài đến, phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn
tránh vào rừng núi, không được đầu hàng."
Trần Quốc Tuấn được
phong làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh tất cả các lực lượng vũ trang của Đại Việt. Trần Quang Khải được
phong chức Thượng tướng thái sư. Quân đội Đại Việt được điều động rất đông lên
phòng ngự ở biên giới, nhất là ở khu vực Lạng Sơn ngày nay. Bản doanh của Trần Quốc Tuấn đóng ở ải Nội Bàng (khoảng thị trấn Chũ và xã
Bình Nội của Bắc Giang ngày nay).
Trong Binh thư yếu lược, Trần Quốc Tuấn viết: "Người giỏi thắng không cần
thắng nhiều lần, mà cần toàn thắng, đảm bảo thắng". Điều đó đồng nghĩa
với việc làm cách nào để có được chiến thắng cuối cùng mới là điều quan trọng
nhất, còn thắng bại trong các trận đánh chỉ là phụ. Cuộc kháng chiến chống
Nguyên Mông dưới sự chỉ đạo của ông cũng tiến hành theo nguyên tắc trên. Với
sức mạnh áp đảo, quân Nguyên muốn đánh nhanh, thắng nhanh. Trần Quốc Tuấn hiểu
rằng, đối đầu trực diện là trúng với ý đồ của đối phương, trong khi những đội
quân muốn đánh nhanh thắng nhanh thường có một nhược điểm chí tử: đó là công
tác hậu cần không thể đảm bảo lâu dài.
Do vậy Trần Quốc Tuấn đã chọn chiến lược: chuyển từ trực tiếp
đối đầu với quân Nguyên sang lui binh, thực hiện vườn
không nhà trống để
triệt nguồn cung ứng lương thảo của quân Nguyên. Cứ thế, quân Trần tránh đụng
độ với địch trong nhiều tháng, chờ địch suy yếu do thiếu lương và suy sụp ý
chí, lúc đó ông mới tập trung quân phản công để giành thắng lợi quyết định.
Diễn biến
Bản đồ
kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai năm 1285 treo ở đền Vạn Kiếp
Nhà Nguyên chia làm 3 đạo tiến đánh Đại Việt. Đạo chủ lực do Thoát Hoan và Ariq Qaya
chỉ huy từ Ninh Minh tiến vào Lộc Châu (nay là Lộc Bình, Lạng Sơn). Ngày
27 tháng 1 năm 1285 (dương lịch), đạo quân này chia làm 2 mũi tiến quân, một do
Bolqadar chỉ huy theo đường Khâu Ôn (nay là Ôn Châu, Lạng
Sơn), một do Satartai và Lý Bang Hiến chỉ huy đi theo đường núi Cấp Lĩnh (tức
là từ Lộc Bình đi Sơn Động ngày nay). Đại quân của Thoát Hoan đi sau
mũi thứ hai của Satartai và Lý Bang Hiến. Chống lại đạo quân thứ nhất này của quân
Nguyên là lực lượng chủ lực của quân Trần do đích thân Trần Quốc Tuấn chỉ
huy.
Đạo thứ hai chỉ gồm hơn 1 nghìn quân Mông Cổ và Vân Nam do
Nasirud Din từ Vân Nam vào Đại Việt qua vùng Tuyên
Quang tiến
theo sông Chảy. Vị
chỉ huy quân Trần ở vùng này là Trần Nhật Duật.
Đạo thứ
ba là đạo quân đang chiến đấu ở Chiêm Thành do Toa Đô chỉ huy, tiến vào Đại Việt muộn hơn hai
cánh trên, vào khoảng tháng 3 dương lịch, từ phía Nam.
Quân Trần
phòng ngự và rút lui
Trận Sơn Động
Trận giao chiến đầu tiên giữa hai bên là trận tại ải Khả Ly. Tướng Nguyên đi mở đường là Tôn Hựu đã đánh
tan được quân Trần và bắt được các tướng Đỗ Vĩ và Đỗ Hựu. Sau khi vượt qua ải
Khả Ly, quân Nguyên tiến tiếp tới ải Động Bản. Tại đây, quân Nguyên lại thắng, giết được
tướng Trần Sâm của Đại Việt.[24]
Chỉ 5 ngày sau, đại quân của Thoát Hoan tiến xuống từ Lộc Châu,
cùng cánh quân của Bột La Đáp Nhĩ tràn qua các ải Vĩnh Châu, Thiết Lược, Chi
Lăng. Ngày 2 tháng 2 năm 1285, quân Nguyên chia làm 6 mũi ồ ạt tấn công ải Nội
Bàng nơi quân Trần tập trung một lực lượng lớn và có đại bản doanh của Trần
Quốc Tuấn. Quân Trần bị tổn thất nặng nề; tướng Đoàn Thai của Đại Việt bị bắt. Trong khi đó, cánh quân của Bolqadar đã qua
ải Chi Lăng. Trần Quốc Tuấn phải
thu quân về Vạn Kiếp. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, quân Trần đã tan vỡ; Trần
Quốc Tuấn thoát được là nhờ có Yết Kiêu kiên quyết giữ thuyền đợi chủ tướng.
Trận Vạn Kiếp
Một lực lượng lớn quân Trần tập trung ở Vạn Kiếp, bao gồm cả lực
lượng từ Nội Bàng rút về. Phát hiện thấy Đại Việt có hơn
1.000 thuyền đóng ở gần Vạn Kiếp, Thoát Hoan liền cho
quân đi tìm và đóng gấp thuyền chặn đường rút của quân binh Đại Việt.
Ngày 11 tháng 2, thủy quân Nguyên do Ô Mã Nhi chỉ huy tấn công
vào Vạn Kiếp và các trại quân Trần ở Chí Linh. Đại kịch chiến đã xảy ra. Tướng
Nguyên cấp vạn hộ là Nghê Nhuận bị tử trận. Tuy nhiên, quân
Trần đã quyết định rút lui để tránh thế giặc mạnh, thực hiện nghi binh khiến
địch mệt mỏi rồi mới phản công. Thấy bề tôi lo lắng, vua Trần cho khắc hai câu
thơ cuối thuyền ngự:
Hoan, Diễn vẫn còn mười vạn
quân
Ngày 14 tháng 2, Ô Mã Nhi đem quân vây quân của Trần Quốc Tuấn.
Một trận thủy chiến lớn giữa 2 bên đã diễn ra. Vua Trần đã đem quân đến trợ
chiến cho Trần Quốc Tuấn. Ô Mã Nhi đã không ngăn nổi quân Trần rút lui. Toàn bộ
quân Trần rút khỏi Vạn Kiếp, Phả Lại, Bình Than về dàn trận bên bờ sông Hồng
gần thành Thăng Long. Quân Nguyên tiến theo đường bộ về Thăng Long.
Trận sông
Đuống
Quân Nguyên từ Vạn Kiếp đi theo đường qua Vũ Ninh, Đông Ngạn. Đến sông Đuống, các đơn vị quân Nguyên và quân Trần giáp
chiến. Quân Trần bị thiệt hại nặng, nhiều thuyền lọt vào tay quân Nguyên.
Trận Thăng
Long
Ngày 17 tháng 2, quân Nguyên dựng trại bên sông Hồng. Quân
Trần do vua Trần Nhân Tông trực
tiếp chỉ huy cũng lập các chiến lũy bằng gỗ bên bờ Bắc sông Hồng nghênh chiến.
Dưới sông là lực lượng thủy quân đông đảo của Đại Việt. Mục đích của quân Trần trong trận này chỉ
là cản bước quân Nguyên để kịp hoàn thành công tác sơ tán hoàng gia và dân
chúng khỏi kinh thành, thực hiện kế hoạch vườn không nhà trống. Khi quân Nguyên
tiến đến bờ sông, quân Trần đã dùng súng bắn đá bắn vào quân Nguyên và thách
đánh.
Tuy nhiên, đến chiều ngày 17 tháng 2, vua Trần sai Đỗ Khắc Chung sang
doanh trại đối phương để giả đưa thư cầu hòa. Arig Qaya gửi thư cự tuyệt. Đỗ
Khắc Chung ở lại doanh trại địch trinh sát đến sáng sớm hôm sau mới quay về.
Liền sau đó, hai bên Nguyên-Việt đại chiến bên bờ sông Hồng. Sau
khi thành Thăng
Long đã
trống không, quân Trần xuôi sông Hồng rút lui. Khi rút khỏi Thăng Long, quân
Trần hãy còn rất đông.
Quân Nguyên tiến đến đóng dưới chân thành một hôm rồi mới vào
thành, chỉ thấy "cung thất nhẵn không". Thoát Hoan khao quân trong
cung thành, nhưng rồi lại sớm rút quân khỏi thành (hoặc có lẽ không phải, vì
theo tục lệ của người Thát, sau khi chiếm được bất kỳ thành trì nào họ cũng
không đóng quân trong thành mà tìm một bãi rộng để dựng trướng, trại, do thành
Thăng Long quá sát sông Hồng nên có thể họ qua lại bên kia sông để lập trại),
trở lại trại đã lập bên bờ Bắc sông Hồng. Vừa đợi Toa Đô từ phía Nam tiến lên, Thoát Hoan vừa phái
Koncak, Mangqudai, Bolqadar theo đường bộ, Lý Hằng, Ô Mã Nhi theo đường thủy đuổi theo vua Trần.
Trận Thu Vật
Cánh quân của Nasirud Din đi theo sông Chảy tới trại Thu Vật thì bị quân của Trần Nhật Duật chặn đánh.
Tuy nhiên, do đại quân đều đã rút lui về Vạn Kiếp, nên Trần Nhật Duật cũng
thu quân. Quân Nguyên một mặt đi dọc 2 bờ sông đuổi theo quân Trần, một mặt cử
một đơn vị đi chặn đầu. Trần Nhật Duật phát hiện ra kế hoạch của quân Nguyên,
nên ra lệnh bỏ thuyền lên bộ, rút lui an toàn về đến Bạch Hạc (Việt Trì) vào
ngày 20 tháng 2 năm 1285. Sau đó, Trần Nhật Duật được điều vào mặt trận phía
Nam ngăn Toa Đô.
Các trận
đánh trên sông Hồng
Vua Trần, triều đình, tông thất và đại quân rút lui theo đường sông Hồng về hướng phủ Thiên Trường (Nam Định). Quân
Nguyên chia làm 2 đường thủy bộ đuổi theo. Để cản địch, quân Trần liên tiếp bố
trí một số trận đánh trên sông Hồng.
Trận đầu tiên là trận ở bãi Đà Mạc. Quân Trần do Trần Bình Trọng chỉ huy
đã chặn đánh quân Nguyên quyết liệt. Kết quả, 600 quân Thánh Dực ở đây đã kiềm
chân được mấy ngàn quân Mông đang hăng máu. Qua 6 đợt tấn công, thiệt hại vô
số, nhờ lực lượng chênh lệch quá lớn nên quân Nguyên mới phá được đội hình của
quân Trần. Trần Bình Trọng bị bắt và hy sinh.
[video] https://www.youtube.com/watch?v=_XKYzq8pdTk [/video]
Trận tiếp theo ở ải Hải Thị. Quân Trần đã đóng cọc, đắp bờ chắn sông để
ngăn đối phương. Tuy nhiên, quân Nguyên đã thủy bộ hợp đồng tác chiến, phá tan
trận tuyến của quân Trần.
Quân Trần tập
hợp lại lực lượng
Sau trận Hải Thị, quân Trần lui hẳn về đóng quân tại Thiên
Trường (Nam Định) và Trường Yên (Ninh Bình). Đồng
thời, phát hiện thấy quân Nguyên không đóng giữ Vạn Kiếp, Trần Quốc Tuấn cùng Phạm Ngũ Lão đã chỉ
huy hơn 1 nghìn thuyền quay lại đóng ở Vạn Kiếp.
Một thuộc tướng khác của Trần Quốc Tuấn là Nguyễn Lộc thực hiện
tác chiến kiểu du kích rất
mạnh ở vùng Vĩnh Bình (Lạng Sơn). Tin
trinh sát đã khiến Ariq Qaya báo cáo với vua Nguyên rằng: "Bấy giờ ở 2 xứ
Thiên Trường, Trường Yên mà Trần Nhật Huyên trốn đến, binh lực lại tập hợp, Hưng Đạo
vương tụ tập hơn 1 nghìn chiếc thuyền ở Vạn Kiếp, Nguyễn Lộc ở Vĩnh Bình".
Ngay sau khi tập hợp lại lực lượng, quân Trần đã tiến hành phản
công. Quân của vua Trần ngược sông Hồng lên giao chiến với quân Nguyên ở đoạn
chảy qua huyện Lý Nhân ngày nay vào ngày 10 tháng 3 năm 1285,
nhưng không thắng được, phải rút lui.
Toa Đô bắc
tiến
Cuối tháng 2, đầu tháng 3 năm 1285, đạo quân của Toa Đô đánh ra
vùng Bố Chính (Quảng
Bình ngày
nay) rồi tiến ra Nghệ An. Trần Nhật Duật và Trịnh Đình Toản chỉ huy quân Trần ngăn địch, nhưng thất
bại, phải rút lui.
Toa Đô phái một đơn vị đánh ra Thanh Hóa. Tướng nhà Trần giữ
Thanh Hóa là Chương Hiến hầu Trần Kiện mang 1 vạn quân ra đón hàng cánh quân
Nguyên này
Ngày 9 tháng 3, quân Nguyên được Trần Kiện dẫn đường đã đi qua Vệ Bố (Quảng Xương)
đánh úp quân Trần, giết được các tướng Đinh Xa và Nguyễn Tất Thống.
Ngày 13 tháng 3, quân Nguyên lại được Trần Kiện dẫn đường đánh
quân của Trần Quang Khải, giết được 2 chỉ huy của quân
Trần.
Do Trần Kiện đầu hàng và dẫn đường cho quân Nguyên làm cho
quân Trần ở đây đã không thể giữ nổi Nghệ An-Thanh Hóa, phải rút lui.
Toa Đô tiến lên Thanh Hóa, sai con trai là Bách Gia Nô cùng các
tướng Giảo Kỳ và Tangutai mang một cánh quân ra phối hợp với Thoát Hoan.
Cuộc rượt
đuổi ở Hải Đông
Sau trận quân của vua Trần phản công quân Nguyên không thành và
việc mặt trận Thanh-Nghệ bị tan vỡ, đại quân do vua Trần chỉ huy ở Thiên Trường
và Trường Yên lâm vào thế bị ép từ 2 mặt Bắc-Nam. Để tìm cách hoãn binh, vua
Trần sai Trần Dương đi sứ đến chỗ Thoát Hoan xin cầu hòa, và sai Đào Kiên mang
công chúa An Tư là em út của Trần Thánh Tông đến cho Thoát
Hoan. Thoát Hoan giam giữ Trần Dương và sai người đến đòi vua Trần đến gặp,
nhưng vua Trần không nghe, tiếp tục mang quân rút chạy. Thoát Hoan mang quân
đuổi theo.
Tình hình đó khiến Trần Quốc Tuấn lại bỏ Vạn Kiếp đem thuyền về
cứu vua Trần. Trần Hưng Đạo đưa 2 vua Trần từ Thiên Trường dùng thuyền nhỏ đi
qua cửa Giao Hải (cửa sông Hồng ở huyện Xuân Thủy, Nam Định) đi ra
biển, ngược lên phía bắc rồi quay vào Tam Trĩ Nguyên (tức cửa sông Ba Chẽ, huyện Ba Chẽ tỉnh Quảng
Ninh). Từ Tam Trĩ, vua Trần sai đem thuyền rồng lớn ra cửa Ngọc Sơn
(Vạn Ninh, Móng Cái) để lừa quân Nguyên.
Thoát Hoan gặp các tướng do Toa Đô phái từ Thanh Hóa đến, được
biết tình hình cánh quân Toa Đô bị đói vì thiếu lương, nên không vội tập hợp
toàn quân vì áp lực về lương thực, bèn sai người ra lệnh cho Toa Đô tiến lên
Thiên Trường kiếm lương; cùng lúc phát hiện vua Trần chạy ra Hải Đông, Thoát
Hoan lại sai Lý Hằng, Ô Mã Nhi và Giảo Kỳ tiếp tục đuổi theo.
Khi thấy đạo quân của Toa Đô đã rời Thanh Hóa tiến lên đóng ở Trường Yên (Ninh Bình), ngày
7 tháng 4 năm 1285 (2 tháng 3 âm lịch), 2 vua Trần bỏ thuyền đi bộ đến Thủy
Chú, lấy thuyền ra sông Nam Triệu (tức sông Bạch Đằng), rồi lại ra cửa Đại Bàng
(tức cửa Văn Úc), dẫn quân theo đường biển tiến vào Thanh Hóa, thoát khỏi thế
bị kìm kẹp và truy đuổi của đối phương.
Mãi đến ngày 10 tháng 3 âm lịch (15 tháng 4 năm 1285), quân thủy
của Giảo Kỳ, Tangutai mới tới cửa Tam Trĩ, còn cánh quân Lý Hằng cũng đuổi theo
vua Trần ngoài biển nhưng không gặp. Sau đó quân Nguyên bắt được một số thuyền
mà quân Trần bỏ lại, mới biết vua Trần đã bỏ thuyền lên bộ, liền đuổi theo 3
ngày 3 đêm nhưng không có kết quả, vì quân Trần đã chạy vào Thanh Hóa
Nghe tin vua Trần chạy vào Thanh Hóa, Thoát Hoan lại điều Ô Mã
Nhi mang 1300 quân thủy vào Thiên Trường cùng Toa Đô dẫn quân vào Thanh Hóa
truy đuổi vua Trần, nhưng không tìm thấy mục tiêu.
Lúc hai vua Trần chạy vào Thanh Hóa, nhiều quý tộc nhà Trần đã
hàng quân Nguyên: ngoài Trần Kiện và Trần Tú Hoãn ở Thanh Hóa còn có hoàng tử
Trần Ích Tắc, Trần Lộng, các tướng Phạm Cự Địa, Lê Diễn, Trịnh Long.
Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim không thống nhất với các nguồn tài liệu khác như Nguyên sử, Đại
Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Theo Việt Nam sử
lược, Toa Đô đánh từ Chiêm Thành tới Nghệ An, đụng độ với quân Trần Quang Khải.
Quân Trần thế yếu phải rút lui vào khu vực hiểm yếu cố thủ. Bị Trần Quang Khải
chặn giữ, Toa Đô không tiến ra
bắc được, phải cùng Ô Mã Nhi dùng thuyền vượt biển ra bắc hội binh với Thoát Hoan. Dù mô tả Toa Đô không thể tiến quân ra bắc, nhưng Trần Trọng
Kim trước đó lại nêu việc Toa Đô tiếp nhận Trần Kiện đầu hàng ở Nghệ An và sai
quân đưa gia đình Trần Kiện về Yên Kinh; đoàn quân Nguyên này đi qua được Nghệ
An ra bắc và tới biên giới Lạng Sơn thì Kiện bị Nguyễn Địa Lô bắn chết.
Quân Trần tổng
phản công
Quân Trần rút vào Thanh Hóa để củng cố, tổ chức lại lực lượng.
Trong lúc đó quân Nguyên của Thoát Hoan ở ngoài Bắc không hợp thủy thổ và thời
tiết mùa hè nóng bức, bị mưa lớn, phát sinh bệnh tật, lại bị thiếu lương. Toa
Đô mang quân mỏi mệt từ Thiên Trường, cùng Ô Mã Nhi lại vào Thanh Hóa truy kích
vua Trần nhưng không tìm được, phải dừng lại kiếm lương.
Nắm được tình hình địch đang gặp khó khăn, cuối tháng 5 đầu
tháng 6 năm 1285, nghĩa là khoảng 1 tháng sau khi rút về Thanh Hóa để thoát
khỏi gọng kìm của quân Nguyên, Trần Hưng Đạo nhận thấy thời cơ phản công đã
đến. Vua Trần quyết định từ Thanh Hóa trở lại miền Bắc tấn công quân Nguyên,
tập trung tấn công vào các mục tiêu của quân Nguyên ở khúc sông Hồng chảy qua
Khoái Châu (Hưng Yên). Chiếm được vùng này, quân Trần sẽ từ đây đánh vào Thăng
Long.
Trận Hàm Tử
- Tây Kết
Lúc đó Thanh Hóa có cánh quân Toa Đô đóng giữ. Sau một thời gian
không bắt được vua Trần, Toa Đô cùng Ô Mã Nhi mang quân trở lại phía bắc để
phối hợp với Thoát Hoan.
Có những giả thuyết khác nhau về cử động của Toa Đô và quân
Trần. Đại Việt sử ký toàn thư cho rằng: Toa Đô và Ô Mã Nhi ngày 7 tháng 5 âm
lịch mới ra bắc, vì vậy hai tướng không dự trận Hàm Tử mà chỉ dự trận Tây Kết. Hà
Văn Tấn và Phạm Thị Tâm ủng hộ thuyết này. Khâm
định Việt sử thông giám cương mục cho rằng, Toa Đô và Ô Mã Nhi từ Thanh Hóa ra
Bắc từ tháng 4 âm lịch, do đó hai tướng dự trận Hàm Tử và Tây Kết. Trần
Xuân Sinh ủng hộ thuyết này. Riêng
Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim không rõ căn cứ từ nguồn tài liệu nào cho
rằng, Toa Đô bị Trần Quang Khải cầm chân ở Nghệ An suốt từ khi tiến từ Chiêm
Thành ra, không ra bắc bằng đường bộ được, phải cùng Ô Mã Nhi đi đường biển ra
bắc.
Do theo thuyết Toa Đô ra bắc vào tháng 5 âm lịch, mà một loạt
trận đánh ở Bắc Bộ diễn ra từ tháng 4, Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm cho rằng Trần Hưng Đạo chủ
trương đưa quân vượt biển ra bắc, cắt đôi hai đạo quân Nguyên giữa Toa Đô và Thoát
Hoan, không để tập hợp lại.
Trần Nhân Tông sai Trần Nhật Duật làm
chánh tướng, Chiêu Thành Vương và Trần Quốc Toản làm phó
tướng đi cùng với Nguyễn Khoái mang 5 vạn quân ra bắc đánh quân Nguyên ở Hàm
Tử. Trần Trọng Kim và Trần Xuân Sinh cho rằng Toa Đô đụng độ với Trần Nhật Duật
ở Hàm Tử. Hà
Văn Tấn và Phạm Thị Tâm theo Đại Việt sử ký toàn thư cho rằng Trần Nhật Duật
đánh một đạo quân Nguyên nhưng không rõ tướng chỉ huy. Nhưng các nguồn tài liệu
đều thống nhất rằng trong quân Trần Nhật Duật có
tướng người Trung Quốc của nhà Tống cũ là Triệu Trung theo hàng. Trần Nhật Duật gặp
binh thuyền Toa Đô ở bến Hàm Tử, bèn chia quân ra đánh. Hai
bên chống nhau ác liệt. Toa Đô đi đường xa, giao chiến lâu ngày đã mỏi
mệt, trông thấy cờ hiệu Tống của Triệu Trung, lo lắng tưởng rằng nhà Tống đã khôi phục sang giúp Đại Việt. Nhóm quân người Hoa trong hàng ngũ quân
Trần đều muốn trả thù nên đánh rất hăng.
Trong khi đó quân Trần lại dùng kế ly gián, bắn tên gắn giấy
sang bên quân
Nguyên, nói rằng chỉ đánh người Thát Đát chứ không đánh người Hoa. Điều đó khiến
nhiều tướng sĩ người Hoa trong quân Nguyên không tận lực chiến đấu hoặc trở
giáo sang hàng quân Trần. Toa Đô bị thua to. Sau khi thua trận ở Hàm Tử Quan, Toa Đô vẫn không biết rằng Thoát
Hoan đã tháo
chạy. Cánh quân Toa Đô đóng ở sông Thiên Mạc (đoạn sông Hồng ở Hưng Yên) và
tìm cách liên lạc với Thoát Hoan. Được ít ngày, Toa Đô biết tin quân Thoát
Hoan đã thất
bại và rút chạy, bèn lui về Tây Kết (Khoái
Châu). Ngày 24 tháng 6 năm 1285, Trần Hưng Đạo trực
tiếp chỉ huy quân đánh Toa Đô. Toa Đô và Ô Mã Nhi thua, bỏ thuyền đi đường bộ ra phía biển.
Trên đường chạy, Toa Đô bị quân Đại Việt bao
vây, sau cùng bị tướng Vũ Hải của nhà Trần chém đầu. Ô Mã Nhi thì chạy thoát về Thanh Hóa. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vua Trần Nhân Tông trông
thấy thủ cấp của Toa Đô thì cởi áo ngự phủ lên và nói "người
làm tôi phải nên như thế này" rồi sai người khâm niệm tử tế.
Sử liệu dẫn khác nhau về các tướng tham chiến. Có tài liệu cho rằng Trần Nhật Duật cùng Trần Quốc Toản, Nguyễn Khoái và Triệu Trung cùng đánh trận Hàm Tử, có tài liệu dẫn rằng chỉ
có Trần Nhật Duật và Triệu Trung đánh Hàm Tử, còn Nguyễn Khoái và Trần Quốc Toản đánh trận Tây Kết.
Trận Chương
Dương Độ
Trần Nhật Duật sai Trần Quốc Toản về Thanh Hoá báo tin thắng
trận. Trần Quốc Tuấn bàn với
Trần Nhân Tông quyết định mang toàn quân ra bắc đánh Thoát Hoan để lấy lại Thăng
Long. Trần Quang Khải ở Nghệ An mới ra được cử làm chánh tướng, Phạm Ngũ Lão và Trần Quốc Toản làm phó
tướng; lại truyền lệnh cho Trần Nhật Duật phải ngăn không cho Toa Đô hợp binh
được với Thoát Hoan.
Đại quân Thoát Hoan đóng ở Thăng Long cũng trong tình trạng
lương thực sắp cạn, các chiến thuyền đóng ở bến Chương Dương.
Trần Quang Khải tiến ra bắc khá thuận lợi. Quân Trần nhanh chóng
diệt nhiều đồn nhỏ của quân Nguyên, kết hợp dụ hàng quân người Hoa bỏ hàng ngũ
quân Nguyên. Trong khi đó thì Trần Nhật Duật cũng giữ lại số quân để cầm chân
Toa Đô, còn chia một số sang hợp với cánh quân Trần Quang Khải. Nhiều toán quân
Trần trước kia bị tản mát, chưa tìm được vào Thanh Hoá, lúc đó gặp quân Trần
Quang Khải đã cùng gia nhập nên lực lượng càng mạnh lên. Quân Trần chiếm được
nhiều thuyền của địch ở bến đò.
Quân Trần tiếp tục ngược sông Hồng phản công quân Nguyên. Trần
Quang Khải cùng Phạm Ngũ Lão và Trần Quốc Toản đã tấn công quân Nguyên ở Chương
Dương (huyện Thường Tín). Quân Nguyên thường thấy quân Trần bị thua,
khi đó thấy quân Trần đánh mạnh nên bị bất ngờ, tan tác bỏ chạy. Phần lớn các
chiến thuyền quân Nguyên bị quân Trần đốt cháy hoặc chiếm.
Giải phóng
Thăng Long
Sau các trận phản công thắng lợi trên sông Hồng, quân Trần quyết
định tấn công giải phóng kinh thành Thăng Long. Lực lượng tham gia gồm các đơn
vị thủy bộ chủ lực do Trần Quang Khải chỉ huy. Các đơn vị dân binh các địa
phương lân cận do Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp và Nguyễn Truyền chỉ huy. Sau khi
đánh bại đơn vị quân Nguyên ngoài thành do Mã Vinh chỉ huy, quân Trần bắt đầu
bao vây và công thành.
Tài liệu thời Nguyên chép rằng:
"Thủy lục đến đánh đại
doanh, vây thành mấy vòng, tuy chết nhiều nhưng quân tăng thêm càng trở nên
đông, quan quân sớm tối đánh rất khốn đốn, thiếu thốn, khí giới đều hết" và "Người Giao chống đánh quan quân, tuy mấy lần thua tan,
nhưng quân tăng càng đông, quan quân mỏi mệt, tử thương cũng nhiều, quân mã
Mông Cổ không thể nào thi thố tài năng được".
Trước sức tấn công mạnh mẽ và bền bỉ của quân Trần, quân Nguyên
phải rút chạy khỏi thành Thăng Long về đóng ở bờ Bắc sông Hồng (khoảng Gia Lâm
ngày nay). Tại đây, đồn trại của quân Nguyên vẫn liên
tục bị tấn công.
Trận sông
Thiên Mạc
Toa Đô vẫn không biết rằng Thoát Hoan đã tháo chạy. Cánh quân
Toa Đô đóng ở sông Thiên Mạc và tìm cách liên lạc với Thoát Hoan. Được
ít ngày, Toa Đô biết tin quân Thoát Hoan đã thất bại và rút chạy, bèn lui về
Tây Kết.
Có tài liệu căn cứ vào Nguyên sử cho rằng Toa Đô sau trận thua ở
Hàm Tử Quan lại tiến vào Thanh Hoá đánh vua Trần lần nữa, nhưng không thu được
kết quả nên lại trở ra tìm Thoát Hoan. Trận Tây Kết này còn được coi là trận
Tây Kết thứ hai.
Ngày 24 tháng 6 năm 1285, quân Trần do đích thân vua Trần chỉ
huy tấn công đạo quân Nguyên này. Tướng Nguyên là Trương Hiển (chức tổng quản)
đầu hàng quân Trần và dẫn đường cho quân Trần tấn công Toa Đô ở Tây Kết. Quân
Nguyên bị giết rất nhiều. Toa Đô cũng bị tử trận. Ô Mã Nhi và Lưu Khuê đi
thuyền nhỏ trốn thoát ra biển.
Trận này một số sách sử chép khác nhau. Hà Văn Tấn và Phạm Thị
Tâm (1972) cho biết Nguyên sử chép rằng: Toa Đô không tin Thoát Hoan đã rút,
nên tiến quân lên tới tận Thăng Long, thấy không còn quân mình thì mới tin,
đành rút quân lên phía Bắc, gặp quân Trần chặn đánh ở sông Càn Mãn (tức sông Thị
Cầu) và tử trận tại đây.
Quân Trần
truy kích quân Nguyên
Ngày 10 tháng 6 năm 1285, Trần Quốc Tuấn và Hưng Ninh vương Trần Tung dẫn hơn 2 vạn quân tấn công quân Nguyên ở
bờ Bắc sông Hồng. Quân Nguyên cử Lưu Thế Anh dẫn quân ra đối phó, nhưng đại
bại. Quân Nguyên rút chạy về phía Bắc.
Khi rút chạy đến sông Như Nguyệt (sông Cầu), quân Nguyên bị đơn
vị của Trần Quốc Toản chặn đánh. Quân Nguyên thua, không sang sông được, phải
chạy về phía Vạn Kiếp. Chỉ huy quân Trần là Trần Quốc Toản đã hy sinh trong
trận này.
Chạy đến sông Sách (tức đoạn sông Thương chảy quan Vạn Kiếp),
quân Nguyên bắc cầu phao định vượt sông, nhưng bị quân Trần do Trần Quốc Tuấn
chỉ huy ập vào đánh. Lý Hằng đẩy lui được mũi quân Trần tấn công vào lưng quân
Nguyên, chém được tướng Việt là Trần Thiệu. Nhưng một mũi quân Trần khác lại
đánh vào sườn đội hình quân Nguyên đang vượt cầu phao. Quân Nguyên xô nhau
chạy, cầu phao đứt, nhiều binh sĩ bị chết đuối.
Sau khi vượt qua sông Sách, quân Nguyên chạy về hướng Tư Minh.
Lý Hằng được cử chặn hậu, đề phòng quân Trần truy kích. Đến Vĩnh Bình, quân
Nguyên lại bị quân Trần do Trần Quốc Hiến (Trần Quốc Nghiễn) chỉ huy chặn đánh.
Lý Hằng bị trúng tên độc. Tương truyền, quân Nguyên phải giấu Thoát Hoan trong
ống đồng để chạy trốn. Khi về đến Tư Minh, Lý Hằng ngấm thuốc độc chết, thọ 50
tuổi.
Cánh quân Vân Nam của Nasirud Din chạy về Vân Nam, đến địa phận
huyện Phù Ninh đã bị các đơn vị của Hà Đặc và Hà Chương
tấn công. Quân Nguyên thua chạy, nhưng Hà Đặc tử trận.
Tông thất, tướng sĩ
nhà Trần hàng nhà Nguyên
Trong cuộc chiến lần thứ hai, nhà Trần đã có một số tông thất và
tướng sĩ đi theo nhà Nguyên.
1/ Người đầu tiên là Trần Di Ái, em vua Trần Thái Tông, chú vua Trần Thánh Tông. Di Ái được cử đi sứ nhà
Nguyên, được Hốt Tất Liệt phong luôn làm An Nam quốc vương để có cớ đưa
"vua mới" về nước. Di Ái bị quân Trần đón đánh ở đầu địa giới phải bỏ
chạy.
2/ Người thứ hai là Trần Ích Tắc, con thứ của Trần Thái Tông, em của Trần Thánh Tông. Ích Tắc có tài, vẫn còn có ý
tranh đoạt ngôi trưởng đích. Trước khi quân Nguyên kéo sang, Ích Tắc đã từng
gửi thư riêng cho khách buôn ở Vân Đồn xin quân Nguyên xuống nam. Khi quân
Nguyên Mông tiến
sang, ngày 15 tháng
3 năm
1285, Ích Tắc đem cả gia đình theo hàng, với hy vọng được lập làm vua.
Quân Nguyên thất bại chạy về nước, Ích Tắc được đưa về Trung
Quốc và được Hốt Tất Liệt, phong làm An Nam Quốc vương và chờ ngày đưa trở về nước. Hai năm
sau (1287), Ích Tắc theo Thoát Hoan sang Đại Việt lần thứ
ba.
3/ Thứ ba là Trần Kiện. Trần Kiện là con thứ của Trần Quốc Khang, phục vụ dưới quyền Trần Ích
Tắc cùng theo Ích Tắc hàng Toa Đô. Toa Đô sai đưa bọn Kiệt về Yên Kinh thì bị thổ hào người Tày ở châu Ma Lục
(Lạng Sơn) là Nguyễn Thế Lộc và Nguyễn
Lĩnh chặn đánh. Trần Kiệt bị gia nô của Hưng Đạo Vương là Nguyễn Địa Lô bắn
chết, Trần Ích Tắc đem xác Kiệt để lên mình ngựa trốn đi đêm, đến Khâu Ôn chôn
tại đấy Một tướng khác là Lê Tắc cũng hàng quân
Nguyên, trong cảnh quân Nguyên hỗn loạn bỏ chạy, Lê Tắc đã chỉ đường giúp nhiều
tướng sĩ nhà Nguyên chạy thoát về bên kia biên giới.
Kết quả và ý nghĩa
Như vậy là cuộc kháng chiến của quân dân Đại Việt dưới sự lãnh
đạo của hai vua Trần Thánh Tông và Nhân Tông đã toàn thắng, thể hiện "Hào
khí Đông A"
của Đại Việt thời ấy. Nhà Trần lần thứ hai đánh đuổi được quân
Mông Nguyên, lần này với quy mô lớn hơn nhiều và hoàn cảnh khó khăn hơn nhiều.
Nhà Tống ở phương bắc đã mất, không còn lá chắn, Đại Việt phải trực tiếp đối
đầu với nhà Nguyên trên toàn tuyến biên giới phía bắc. Diệt được Nam Tống, sức
mạnh của nhà Nguyên cũng tăng lên so với trước.
Theo sử cũ Việt Nam, quân Nguyên chết rất nhiều, thây nằm ngổn
ngang, máu chảy thành suối. Đại Việt Sử ký Toàn thư chép rằng Lý Quán thu tàn quân chỉ còn lại
5 vạn người so với 50 vạn khi bắt đầu sang Đại Việt.
Trần Xuân Sinh trong Thuyết
Trần đặt nghi vấn về vấn đề
này. Bằng chứng là ngay khi quân Nguyên thua chạy về, chỉ 2 tháng sau Hốt Tất
Liệt đã có ý định cho sang đánh phục thù ngay. Như vậy lực lượng quân Nguyên
còn sống trở về khá đông đảo để có thể tiếp tục một cuộc chinh phạt mới. Sau đó
Hốt Tất Liệt phải hoãn việc dùng binh ngay vì thiếu lương chứ không phải thiếu
quân. Lực lượng mà vua Nguyên huy động thêm cho lần đánh Đại Việt thứ 3 sau này
cũng chỉ chừng gần 10 vạn người.
Tham khảo
·
Hà Văn Tấn và Phạm
Thị Tâm (1972), Cuộc kháng chiến
chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, bản
in lại năm 2003.
·
Trần Xuân Sinh (2006), Thuyết
Trần, Nhà xuất bản Hải Phòng
·
Quốc Chấn chủ biên (2006), Những
danh tướng chống ngoại xâm thời Trần, Nhà xuất bản Giáo dục.
·
Vũ Ngọc Khánh (2008), Người
"có vấn đề" trong sử nước ta, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.
·
Đỗ Trình chủ biên (2003), Lịch
sử quân sự Việt Nam - Tập IV: Hoạt động quân sự thời Trần (Thế kỷ XIII - XIV),
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội
No comments:
Post a Comment