Cách nay 76 năm Mỹ đánh bại Nhật trong trận Midway
Ngày 07
tháng 06, 1942
·
1942 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Hải quân Hoa Kỳ đánh bại cuộc
tấn công của Hải quân Đế quốc Nhật Bản tại đảo san hô Midway.
Trận Midway
Trận chiến Midway
Tham chiến
Chỉ huy
Lực lượng
15
tàu khu trục ~15
tàu hỗ trợ
127
máy bay Không
tham gia trong trận đánh:
từ
căn cứ mặt đất 2
tàu sân bay hạng nhẹ, 5 thiết giáp hạm, ~41 tàu hỗ trợ
Tổn thất
1
tàu sân bay 4
tàu sân bay
1
tàu khu trục đắm 1 tuần
dương hạm đắm
150
máy bay 248
máy bay bị phá hủy
Trận Midway là một trận hải chiến quan trọng trong thế chiến
thứ hai tại chiến trường Thái Bình Dương,
diễn ra ngày từ ngày 4 tháng 6 – 7 tháng 6 năm 1942. Hai bên
tham chiến là hạm đội Nhật Bản và hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ. Chỉ một tháng
sau trận chiến biển Coral quyết định, hải quân Hoa Kỳ đã đánh bại một cuộc tấn công nữa của Hải quân
Nhật Bản tại đảo san hô
Midway, đánh dấu bước ngoặt trong chiến
tranh Thái Bình Dương (1937–1945).
Về những hậu quả ngắn hạn và dài hạn mà nó đem lại, nó là một trong những trận
chiến hải quân quan trọng nhất ở vùng Thái Bình Dương, và có lẽ trong cả Chiến
tranh thế giới thứ hai.
Cuộc tấn công của người Nhật vào Midway,
cũng gồm một cuộc tấn công thứ hai nữa vào các cứ điểm tại quần đảo Aleut ở Alaska bởi
một hạm đội nhỏ hơn, là một âm mưu của Hải quân Nhật Bản để nhử hạm đội tàu sân
bay Mỹ vào một cái bẫy để tiêu diệt.
Các núi lửa còn hoạt động của
Quần đảo Aleutian
Nhờ vậy tiêu diệt một cách có hiệu
quả hạm đội
Thái Bình Dương Hoa Kỳ, và đảm
bảo ưu thế hải quân của Nhật trên Thái Bình Dương ít nhất cho tới cuối năm
1943. Như vậy, việc chiếm Midway sẽ đẩy xa thêm vành đai bảo vệ ra khỏi hòn đảo
Nhật Bản. Thành công của chiến dịch này được coi là bước chuẩn bị cho những
chiến dịch kế tiếp ở Fiji và Samoa, cũng
thúc đẩy chiến dịch đánh chiếm Hawaii.
Fiji (tiếng Fiji: Matanitu Tu-Vaka-i-koya ko Viti, Tiếng Việt: Cộng hòa Quần đảo Phi-gi) là một đảo quốc tại châu Đại Dương, thuộc phía nam Thái Bình Dương, phía tây Vanuatu, phía đông Tonga và phía nam Tuvalu.
Samoa, tên chính
thức Nhà nước Độc lập Samoa, là một quốc gia nằm ở phía Tây Quần đảo Samoa, thuộc Nam Thái Bình Dương.
Hawaiʻi là tiểu bang duy nhất của Hoa Kỳ có nước chung quanh. Vì
không thuộc lục địa Hoa Kỳ, nó là một trong hai tiểu bang không giáp với tiểu
bang khác (Alaska là tiểu
bang kia).
Nếu người Nhật thành công trong mục tiêu
Midway, vùng phía đông bắc vành đai
Thái Bình Dương sẽ là vùng không
có nguy cơ đối với Hải quân Nhật Bản. Nhờ vậy, chiến dịch Midway, cũng
như cuộc tấn công Trân
Châu Cảng đã mở ra chiến tranh, không phải là
một phần của chiến dịch chinh phục nước Mỹ mà là để chiếm lấy sức mạnh chiến
lược ở Thái Bình Dương, để người Nhật có thể rảnh tay thành lập vùng bá chủ của họ, được gọi là khối Thịnh
vượng chung Đại Đông Á. Trong
những hoàn cảnh tốt nhất, họ hy vọng rằng người Mỹ sẽ bắt buộc phải tìm giải
pháp đàm phán để chấm dứt Chiến
tranh Thái Bình Dương. Tuy
nhiên, như những gì đã xảy ra, trận chiến là một thất bại nặng nề cho người
Nhật.
Với việc bẻ gãy cuộc tiến công của quân
Nhật, Hoa Kỳ đã đạt được thắng lợi quyết định cho cả cuộc chiến.
Hoàn
cảnh chiến lược
Nhật Bản đã rất thành công trong việc nhanh chóng hoàn thành các
mục tiêu chiến tranh ban đầu của họ, gồm cả việc chinh phục Philippines,
chiếm Malaysia và Singapore, chiếm
giữ các vùng tài nguyên sống còn ở Java, Borneo,
và Indonesia. Hiểu theo nghĩa thông thường, mở đầu cho
một giai đoạn các chiến dịch thứ hai được bắt đầu sớm vào tháng 1 năm 1942.
Ba miền của
Philippines
La Malaisie :
péninsule malaise et Malaisie orientale
Provinces d'Indonésie
Tuy nhiên, vì có những khác biệt về chiến lược giữa hải quân và
quân đội của họ, cũng như cuộc đấu tranh nội bộ giữa Tổng hành dinh của Hải
quân và Hạm đội Liên hợp của Đô đốc Yamamoto, việc
thành lập một chiến lược hiệu quả đã bị cản trở, và chiến lược tiếp theo không
được cung cấp tài chính cho tới tận tháng 4 năm 1942..
Yamamoto Isoroku (kanji: 山本五十六, Hán Việt: Sơn Bản Ngũ Thập Lục; 4 tháng 4 năm 1884 - 18 tháng 4 năm 1943) là một đô đốc tài ba của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Lúc đó, Đô đốc Yamamoto đã thành công trong cuộc đấu tranh trong
giới quan trường để đưa khái niệm tác chiến của ông vào thực thi – đó là những
chiến dịch tiếp theo ở vùng Trung Thái Bình Dương – trước khi các đối thủ khác
có hành động tác chiến. Chúng gồm cả các chiến dịch khác cả trực tiếp hay gián
tiếp nhằm vào Australia, cũng như các chiến dịch nhằm vào Ấn Độ Dương.
Carte de
l'océan Indien.
Tuy nhiên, cuối cùng, Yamamoto đã công khai đe dọa từ chức trừ
khi ông được tiếp tục kế hoạch của mình.
Lo ngại chiến lược ban đầu của Yamamoto là sự loại trừ các lực
lượng tàu sân bay của Mỹ hiện đang còn ở đó. Sự
lo ngại này càng tăng thêm khi quân đội Hoa Kỳ tiến hành chiến dịch "không kích Doolittle" ném bom vào Tokyo (18
tháng 4 năm 1942) bằng các máy bay B-25 xuất phát tàu sân
bay USS Hornet nhằm gây ra một cú sốc
tâm lý lớn cho người dân Nhật và cho thấy rằng quân đội Nhật Bản không thể ngăn
chặn các cuộc tấn công thẳng vào hòn đảo Nhật Bản. Yamamoto
cho rằng một chiến dịch nhắm vào căn cứ tàu sân bay chính ở Trân Châu Cảng sẽ khiến họ phải chiến
đấu. Tuy
nhiên, vì sức mạnh không quân trên bộ của Hoa Kỳ hiện đang ở Hawaii, Yamamoto
kết luận rằng không thể đánh trực tiếp vào cứ điểm quân sự mạnh mẽ của Hoa Kỳ.
Thay vào đó, ông lựa chọn đảo san hô Midway, nằm ở phía cực tây bắc của dãy
quần đảo Hawaii, khoảng 1.300 hải lý từ Oahu.
Vị trí Oahu
tại Hawaii
Bản thân Midway không có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng
trong kế hoạch lớn hơn của Nhật Bản, tuy nhiên, người Nhật cảm thấy rằng người
Mỹ sẽ coi Midway là một tiền đồn có tính sống còn đối với Trân Châu Cảng, và vì thế sẽ mạnh mẽ bảo vệ
nó.[10]
Kế
hoạch
Hình đảo san hô Midway, vài tháng trước trận
đánh.
Tương tự như nhiều kế hoạch hải quân của Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ hai, kế
hoạch trận đánh của Đô đốc Yamamoto
Isoroku rất phức tạp và khó hiểu. Tin rằng người Mỹ đã mất tinh
thần vì phải chịu nhiều thất bại trước người Nhật trong vòng sáu tháng trước
đó, Yamamoto cảm thấy rằng mánh khóe cần thiết phải nhử được những phần chính
của hạm đội Hoa Kỳ vào trong một tình huống đặc biệt nguy hiểm. Hiểu theo nghĩa
thường, ông chia các lực lượng của mình theo kiểu ở quy mô rộng nhất khiến cho
chúng không bị người Mỹ phát hiện trước trận đánh có tính chất quyết định. Vì
vậy, Yamamoto dàn các lực lượng tàu chiến và tuần dương hạm của mình và lực
lượng tàu sân bay tấn công của Phó đô đốc Chuichi
Nagumo thành một vệt dài hàng trăm dặm; kiểu này nhằm để đối đầu
với các lực lượng bất kỳ nào của hạm đội Mỹ có ý định tới cứu trợ cho Midway,
một khi các tàu sân bay của Nagumo đã tấn công làm cho chúng bị yếu đi.
Nagumo Chūichi (tiếng Nhật: 南雲 忠一; phiên âm Hán-Việt: Nam Vân Trung
Nhất, 25 tháng 3 năm 1887 - 6 tháng 7 năm 1944) là đại tướng Hải quân Đế quốc Nhật
Bản trong Chiến tranh thế giới
thứ hai, tướng tiên phong hàng đầu trong
Hạm đội Liên hợp của Nhật Bản và từng tham gia các trận đánh lớn của chiến trường Thái
Bình Dương như Trận Trân Châu Cảng và Trận Midway
Không may cho người Nhật, vì nhấn mạnh tới yếu tố bí mật và việc
phân chia lực lượng của họ đồng nghĩa với việc không một lực lượng nào trong
hạm đội của họ có thể giúp đỡ được nhau, và nó đã dẫn tới sự chôn vùi lực lượng
tàu sân bay của Nagumo trong cuộc chiến.
Kế hoạch của Yamamoto cũng xác nhận thông tin tình báo cho rằng
chiếc USS Enterprise và USS Hornet, thuộc
Lực lượng Đặc nhiệm 16 là những chiếc tàu duy nhất đang hoạt động thuộc các lực
lượng Thái Bình Dương của Mỹ ở thời điểm đó. USS Lexington đã bị đánh chìm và USS Yorktown bị hư hỏng nặng (và họ
tin rằng nó đã chìm) tại trận biển Coral chỉ một tháng trước, và
người Nhật tin rằng chiếc USS Saratoga đang được sửa chữa ở bờ
biển phía tây nước Mỹ sau khi bị dính ngư lôi làm hư hại.
Tàu sân bay
USS Enterprise tháng 2 năm 1939
USS Yorktown
(CV-5)
Tình
báo Hoa Kỳ
Tình báo hải quân Hoa Kỳ (hợp tác với tình báo Anh và Hà Lan) đã
biết được một số phần trong hệ thống bộ giải mã liên lạc gốc của Hải quân Đế
quốc Nhật Bản (JN-25), và đã rất gắng sức
nhằm có được những phiên bản về sau này, nó chỉ được tung ra ngay trước cuộc
tấn công Trân Châu Cảng. Việc thu thập được nhiều thông tin tình báo qua radio
của hải quân Nhật từ cuộc không kích Doolittle càng làm JN-25 mất giá trị.
Vì vậy, tới tháng 5 năm 1942 người Mỹ đã biết rằng người Nhật
đang chuẩn bị tung ra một cuộc tấn công lớn nhằm vào một mục tiêu (được gọi là
"AF" từ đầu tháng 6), và có thể hy vọng phục kích trước cuộc tấn công
này. Mặc dù những phân tích về các dữ kiện đó, "Hypo," đơn vị mật mã của Nimiz tại Trân Châu Cảng, đã tin rằng "AF"
chính là Midway. Mặt khác, cấp trên của Nimiz tại Washington, Đô đốc Ernest King, và
đơn vị mật mã của riêng ông – OP-20-G – tin rằng AF thuộc quần đảo Aleut.
Fleet Admiral
Ernest J. King, USN
Một sĩ quan hải quân trẻ, Jasper Holmes, đã
đưa ra một mưu kế tài tình ở Ban giải mã Hypo để có thể xác định chính xác vị
trí của AF.
Wilfred J.
"Jasper" Holmes (April 4, 1900 – January
7, 1986
Bằng cách sử dụng dây cáp ngầm dưới biển, ông yêu cầu chỉ huy
căn cứ Midway gửi qua radio một tin nhắn về Trân Châu Cảng nói rằng nước uống
đang cạn kiệt ở Midway vì nhà máy nước hỏng — và tin này được gửi bằng một
kiểu mật mã mà họ cho rằng người Nhật đã biết cách giải mã. Ngay sau
đó, một bức mật mã của người Nhật hóa mã bằng JN-25 đã nói rằng "AF"
gặp phải những vấn đề về nước ngọt, và rằng lực lượng tấn công phải sắp sẵn kế
hoạch về vấn đề này. Từ đó "AF" được khẳng định là Midway.
Các thông tin có được thông qua bộ giải mã JN-25 đến rất chậm,
một phần vì nó là kết quả của những sự chuẩn bị vội vã của người Nhật, và không
phải đến phút cuối cùng Đô đốc Chester Nimitz của CINCPAC mới
có đủ thông tin để tổng hợp và xếp đặt phục kích cho lực lượng tấn công ở
Midway. Ông có trong tay hai tàu sân bay thuộc lực lượng tấn công của Phó
đô đốc William Halsey—nhưng chính Halsey lúc ấy đang bị bệnh vảy nến, và đã được thay thế bằng Đô đốc Raymond A. Spruance(chỉ
huy lực lượng hộ tống Halsey) từ tuyến sau.
CINCPAC Fleet
Headquarters, also known as Commander in
Chief Pacific Fleet Headquarters
Mở
đầu trận đánh
Để có thể tập hợp đầy đủ lực lượng cho cuộc chiến đấu sắp tới,
Nimitz gọi trở lại các lực lượng của vị tướng hậu phương là Đô Đốc Frank Jack Fletcher từ
vùng tây nam Thái Bình Dương.
Frank Jack Fletcher (April 29, 1885 – April 25, 1973) was an admiral in the United States Navy during World War II.
Chiếc Yorktown vốn đã bị hư hại nặng trong trận biển Coral, nhưng xưởng
hải quân Trân Châu Cảng đã gắng sửa chữa nó để đưa vào phục
vụ. Trong vòng 72 giờ, chiếc Yorktown được biến từ tình trạng
hỏng hoàn toàn thành một chiếc tàu sân bay (nếu có thể nói như vậy) hoạt động
được. Đường băng trên boong của nó được chữa tạm, các bộ phận rầm trong bị bỏ
đi và được thay thế, và nhiều phi đội mới (được chuyển từ chiếc tàu sân bay
Saratoga sang) được đưa lên boong. Đô đốc Nimitz hoàn toàn không cần tới chiếc
tàu sân bay thứ ba đang hoàn thành để đưa vào lực lượng của mình, những việc
sửa chữa thậm chí còn tiếp tục khi chiếc Yorktown đã xuất
kích. Chỉ ba ngày sau khi được đưa vào ụ tàu ở Trân Châu Cảng, chiếc tàu này đã
lại có thể hoạt động, và đoàn thủy thủ của nó tấu lên bài "California, Here I Come".
Trong lúc ấy, vì đã tham gia vào trận biển Coral, chiếc tàu sân
bay Nhật Zuikaku đang
đậu ở cảng Kure (gần Hiroshima), chờ
đợi một phi đội máy bay mới để thay thế những chiếc đã bị phá huỷ, trong khi
chiếc tàu Shokaku bị hư
hại nặng còn đang phải đợi trong ụ khô để được sửa chữa thêm những hư hỏng
trong trận chiến.
Tàu sân bay
Nhật Bản Zuikaku, ngày 25 tháng 9 năm 1941
Dù có thể lấy máy bay từ hai chiếc tàu đó để tái trang bị cho
chiếc Zuikaku với một tập hợp máy bay mới, người Nhật không hề
cố gắng đưa nó vào trận chiến sắp tới.
Những sắp xếp trinh sát chiến lược của người Nhật trước trận
chiến cũng rất lộn xộn. Một nhóm cảnh giới gồm các tàu ngầm Nhật đến vị trí
muộn, giúp cho những chiếc tàu sân bay Mỹ đến được địa điểm tập kết ở phía đông
bắc Midway (được gọi là "Point Luck") mà không bị phát hiện. Một nỗ
lực nhằm sử dụng các thủy phi cơ trinh sát bốn động cơ để do thám Trân Châu
Cảng trước trận đánh (và nhờ thế phát hiện được sự vắng mặt của những chiếc tàu
sân bay Mỹ), được gọi là "Chiến dịch K", cũng bị bỏ ngang khi những
tàu ngầm Nhật vốn được giao trách nhiệm tái cung cấp xăng dầu cho những chiếc
máy bay trinh sát phát hiện ra rằng điểm cấp xăng – cho đến lúc ấy là vùng vịnh
trống trải French Frigate Shoals –
đã bị các tàu chiến Mỹ chiếm đóng.
(The French Frigate Shoals
(Hawaiian: Kānemilohaʻi) is the largest atoll in the Northwestern
Hawaiian Islands. Its name commemorates French explorer Jean-François de La
Pérouse, who nearly lost two frigates when attempting to navigate the shoals.)
Location of the French Frigate
Shoals
Vì vậy, Nhật Bản mất đi mọi tin tình báo liên quan tới các hoạt
động của các tàu sân bay Mỹ ngay trước trận đánh. Tình báo radio của Nhật cũng
nhận thấy một sự gia tăng hoạt động của cả tàu ngầm và trao đổi thông tin của
Mỹ. Thông tin này đã được báo tới cả Nagumo và Yamamoto trước trận đánh. Tuy
nhiên, các kế hoạch tác chiến của Nhật không được thay đổi trước những dấu hiệu
đó. Trái lại, Nimitz biết rất rõ vị trí của Nagumo nhờ vào ưu thế tình báo của
mình.
Trận
chiến
Những
cuộc tấn công không quân đầu tiên
Nhật Bản tấn công Midway lúc 06:20 ngày 4
tháng 6.
Phó Đô đốc Chuichi
Nagumo tung ra những cuộc tấn công không quân đầu tiên vào 04:30
ngày 4 tháng 6. Cùng lúc đó người Nhật cho xuất kích 7 chiếc máy bay tìm kiếm
(1 chiếc chậm 30 phút), và các máy bay tuần tra chiến đấu (CAP). Những sắp xếp
trinh sát của Nhật không tốt với quá ít máy bay để bao quát những một khu vực
rộng lớn, và hoạt động trong điều kiện thời tiết xấu ở phía đông bắc và phía
đông lực lượng tấn công.
Lúc 06:20, các máy bay Nhật
ném bom và phá hoại nặng nề căn cứ quân sự của Mỹ ở Midway. Các phi công chiến
đấu ở căn cứ Midway đa phần sử dụng những chiếc máy bay đã lỗi thời Brewster F2A (tên của người Anh là Buffalo), để
bảo vệ Midway.
Brewster F2A
Buffalo là một loại máy bay tiêm kích của Hoa Kỳ, nó từng tham chiến trong Chiến tranh thế giới
II.
Lực lượng phòng không Mỹ rất chính xác và dày đặc, làm thiệt hại
nhiều máy bay Nhật. Chỉ huy tấn công người Nhật nhận thấy rằng những máy bay
chiến đấu trên đảo đã xuất kích, ra hiệu cho Nagumo cần tung ra thêm một đợt
tấn công nữa nhằm vô hiệu hóa khả năng phòng vệ của hòn đảo và những khả năng
tấn công của nó trước khi lực lượng đổ bộ (tiến hành độc lập từ phía tây nam)
có thể đổ quân vào ngày 7 tháng 6.
Vì đã cất cánh trước lúc người Nhật tấn công, những máy bay ném
bom tầm xa của Mỹ ở Midway đã thực hiện nhiều cuộc tấn công vào hạm đội tàu sân
bay Nhật. Chúng gồm 6 chiếc TBF Avenger trong lần tấn công đầu tiên, và B-26 Marauder được trang bị ngư lôi.
Chiếc Grumman TBF Avenger (Người Báo
Thù) (còn mang ký hiệu là TBM cho những chiếc được sản xuất bởi General Motors) là kiểu máy bay ném ngư lôi, ban đầu được phát triển cho Hải quân và Thủy quân Lục chiến
Hoa Kỳ, và được sử dụng bởi một số lớn
không quân các nước.
Martin B-26 Marauder (kẻ cướp) là một kiểu máy bay ném bom tầm trung hai động cơ của Hoa Kỳ trong Thế Chiến II do hãng Glenn L. Martin
Company chế tạo.
Người Nhật coi thường những cuộc tấn công đó và chúng hầu như
không thiệt hại gì đến tàu Nhật, trong khi nhiều máy bay ném bom Mỹ bị bắn hạ.
Nagumo, theo đúng chiến thuật thường lệ của tàu sân bay Nhật lúc
ấy, vẫn giữ một nửa lực lượng của mình để dự phòng. Chúng gồm hai phi đội, một bao
gồm những máy bay chống tàu ngầm và máy bay thả ngư lôi. Một đội được trang bị
các ngư lôi để tấn công tàu nếu như phát hiện được vị trí của các tàu chiến Mỹ.
Như một kết quả của những cuộc tấn công vào Midway, cũng như sự đề nghị quan
tâm tới nhu cầu tung ra một cuộc tấn công mới của những chỉ huy, Đô đốc Nagumo
ra lệnh các máy bay dự trữ của ông lắp đặt bom thông thường để tấn công các mục
tiêu mặt đất lúc 07:15. Việc tái trang bị vũ khí mất 30 phút, lúc 07:40 một máy
bay trinh sát từ tuần dương hạm Tone ra tín hiệu thấy
một lực lượng hải quân khá lớn của Mỹ ở phía đông. Nagumo nhanh chóng thu hồi
lệnh tái trang bị vũ khí, và yêu cầu máy bay trinh sát xác định rõ vị trí lực
lượng tấn công Mỹ.
Tone (tiếng Nhật: 利根) là một tàu tuần dương hạng
nặng của Hải quân Đế quốc Nhật
Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc Chikuma.
Lúc ấy Nagumo đang ở tình thế lúng túng. Đô đốc hậu quân Tamon
Yamaguchi, chỉ huy Sư đoàn tàu sân bay số 2 (Hiryu và Soryu),
đánh tín hiệu cho Nagumo rằng ông lưu ý nên tấn công ngay với các lực lượng sẵn
có trong tay. Nagumo có lẽ có một cơ hội để tung ra một cuộc tấn công ngay lập
tức từ một số hay toàn bộ lực lượng dự trữ của ông để tấn công các tàu Mỹ.
Nhưng ông phải hành động nhanh chóng, vì lực lượng tấn công Midway của ông sẽ
quay lại ngay lập tức. Chúng đã cạn nhiên liệu, và mang theo những người thương
binh, và cần phải hạ cánh nhanh chóng. Việc bố trí xuất kích cho các máy bay
của ông mất ít nhất 30-45 phút. Hơn nữa vì phải xuất kích ngay ông sẽ khiến một
số máy bay dự trữ phải lâm trận mà không được lắp vũ khí thích hợp. Học thuyết tàu
sân bay của Nhật thường thích lập thành một đội tấn công đầy đủ, và vì thiếu
một sự xác định chắc chắn lực lượng Mỹ có các tàu sân bay hay không, phản ứng
của Nagumo rất cẩn trọng. Hơn nữa, việc phát hiện nhiều máy bay tấn công của Mỹ
đang tiến tới lúc 07:53 càng buộc Nagumo phải đưa ra quyết định nhanh chóng.
Cuối cùng, Nagumo đã đưa ra một quyết định tai họa là chờ lực lượng tấn công
ban đầu của ông hạ cánh, sau đó mới tung ra lực lượng dự bị tấn công (lúc ấy sẽ
được trang bị vũ khí thích hợp).
Những cuộc
tấn công vào hạm đội Nhật Bản
Cùng lúc, người Mỹ đã phóng không lực hải quân của họ tấn công
hải quân Nhật Bản. Đô Đốc Fletcher, chỉ huy toàn cục từ tàu sân bay Yorktown với
các báo cáo do thám từ sáng sớm hôm đó, ra lệnh cho Spruance tấn công Nhật vào
lúc thích hợp nhất. Spruance bắt đầu cuộc tấn công lúc 07:00. Fletcher sau khi
kết thúc các cuộc do thám cẩn thận cũng cho lực lượng của mình tấn công vào
08:00. Tuy vậy có một số điểm, kế hoạch tác chiến của Mỹ không hợp lý bằng đối
thủ của họ. Các phi đội của Mỹ tấn công không đồng nhất. Điều này giảm bớt hiệu
quả của các đợt tấn công và đẩy thương vong của Mỹ lên cao.
Không lực hải quân Mỹ giáp chiến hạm đội Nhật lúc 09:20 với Phi
đội ngư lôi số 8 (VT-8), theo sau là VT-6 (lúc 09:40) tấn công mà không có máy
bay tiêm kích yểm trợ. VT-8 đã bị tiêu diệt hoàn toàn và VT-6 cũng gần như vậy
mà hầu như không gây được thiệt hại gì cho đối phương. Không lực hải quân Nhật,
với máy bay Mitsubishi Zero bay nhanh hơn, đã chiếm ưu thế.
Tuy vậy, với sự hy sinh của hai phi đội, một cách gián tiếp người Mỹ đạt được
hai hệ quả quan trọng. Thứ nhất, họ giữ Nhật bên ngoài thế cân bằng, ngăn cản
họ do thám phát hiện được mục tiêu của mình để tấn công. Thứ hai, VT-8 và VT-6
đã kéo các lực lượng không lực phòng thủ của Nhật ra khỏi vị trí bảo vệ. Sự
xuất hiện của VT-3 lúc 10:00 đã nhanh chóng kéo các lực lượng chính của Nhật về
phía Đông Nam.
Lợi dụng lúc VT-3 đang thu hút sự chú ý của Hạm đội Nhật, hai
đơn vị riêng rẽ máy bay ném bom bổ nhào của Mỹ tiếp cận Hạm đội Nhật từ hướng
Đông Bắc và Tây Nam. Hai đơn vị này với may mắn quyết đoán đã tiếp cận được vị
trí thuận lợi bên trên để tấn công Hạm đội Nhật. Các máy bay tấn công của Nhật
chất đầy vũ khí và xăng trên boong các tàu sân bay trở thành mục tiêu của các
phi đội Mỹ. Lúc ấy trên các hàng không mẫu hạm Nhật đang là lúc tiếp nhiên
liệu. Đây chính là thời điểm các tàu sân bay dễ bị nguy hiểm nhất.
Vào lúc 10:22, các máy bay từ tàu sân bay Enterprise tấn
công tàu sân bay Kaga và Akagi, ở phía Nam máy bay từ
tàu Yorktown tấn công chiếc Soryu. Cùng lúc đó, VT-3 tấn
công tàu sân bay Hiryu. Các máy bay phóng lôi
của Mỹ đã không đánh trúng mục tiêu. Tuy vậy, phi đội ném bom bổ nhào lại may
mắn hơn. Trong khoảng 6 phút, hai phi đội bổ nhào đã làm cho ba tàu sân bay
Nhật bốc cháy. Akagi trúng một quả bom, Soryu trúng
ba quả, Kaga trúng bốn hay nhiều hơn. Cả ba tàu bị loại khỏi
vòng chiến và sau đó thì chìm hẳn.
Tàu sân bay Kaga sau khi được hiện đại hóa, với những ống khói đặc trưng
hướng xuống phía dưới.
Tàu sân bay Nhật Bản Sōryū, tháng 1 năm
1938
Tàu sân bay Nhật Bản Hiryū, năm 1939
Những
cuộc phản công của Nhật Bản
USS Yorktown bị đánh trúng
bởi một ngư lôi phóng từ trên không
Hiryu, lúc bấy giờ là hàng không mẫu hạm còn sống sót duy nhất của
Nhật, không để phí thời gian trong việc phản công. Đợt tấn công đầu tiên của
các máy bay ném bom bổ nhào gây
thiệt hại nặng cho Yorktown, tuy nhiên nó được sửa chữa lại rất
nhanh đến nổi đợt tấn công thứ hai gồm các máy bay ném ngư lôi cứ lầm tưởng nó
là một mẫu hạm còn nguyên vẹn. Mặc dù Nhật Bản hy vọng cân bằng trận chiến bằng
cách loại trừ hai hàng không mẫu hạm bằng hai đợt tấn công, Yorktown của
Hoa Kỳ chịu đựng được cả hai đợt tấn công. Tuy nó không thể tham dự vào trận
chiến được nữa nhưng Lực lượng Đặc nhiệm 16 thoát được mà không bị sứt
mẻ. Yorktown sau cùng bị chìm vì trúng ngư lôi từ tàu ngầm
Nhật trong lúc được cứu hộ vào ngày 7 tháng
6. Loạt ngư lôi đó cũng đánh chìm USS Hammann, là khu trục hạm được lệnh ở
lại trợ giúp cho Yorktown.
Khi các máy bay thám thính của Hoa Kỳ tìm thấy Hiryu của
Nhật sau đó thì đến chiều cùng ngày, Enterprise và Hornet của
Hoa Kỳ tung ra một đòn tấn công cuối cùng vào xế tối chống mẫu hạm cuối cùng
của Nhật và để nó lại trong tình trạng từ từ chìm xuống.
Khi màn đêm rơi xuống, cả hai cùng kiểm tra thiệt hại và hoạch
định hành động kế tiếp. Đô đốc Spruance lúc này làm tư lệnh chiến thuật các lực
lượng Hoa Kỳ khi Đô đốc Fletcher bắt buộc phải bỏ lại chiếc Yorktown.
Spruance biết rằng ông phải đạt được một chiến thắng oanh liệt nhất nhưng ông
vẫn không biết chắc được thực lực của Nhật còn trong tay, và quyết định phòng
vệ đảo và cả các mẫu hạm của ông. Cuối cùng, ông quyết định bỏ phía đông chiều
tối hôm đó vì sợ đâm đầu vào một trận đánh ban đêm với lực lượng nổi hùng hậu
hơn của Nhật có thể vẫn còn trong vùng. Trong những giờ đầu tiên của buổi sáng,
ông quay về phía tây để sẵn sàng bảo vệ Midway nếu một cuộc tấn công khởi sự
vào buổi sáng.
Về phần mình, Yamamoto lúc đầu quyết định tiếp tục nỗ lực và đưa
các lực lượng nổi còn lại của mình tìm kiếm các mẫu hạm của Hoa Kỳ về hướng
đông. Ngay lập tức, một lực lượng tuần dương hạm tấn công được đưa đến pháo
kích vào đảo đêm đó. Dần dần khi đêm xuống nhưng không thấy bóng dáng người Mỹ
đâu, lúc 02:30 Yamamoto ra lệnh cho các lượng của ông rút về hướng tây.
Trong khi rút lui với một hàng các phương tiện quá gần nhau vào
ban đêm, lực lượng pháo hạm Nhật chịu đựng một cuộc thử lửa. Sự xuất hiện của
tàu ngầm Hoa Kỳ Tambor bắt
buộc các tuần dương hạm trong đội hình phải nhanh chóng tách ra. Tuần dương hạm
Nhật Mogami đã
không đổi hướng kịp thời và đâm vào chiếc Mikuma[11]. Hai
ngày sau, đầu tiên là máy bay từ Midway, rồi từ các mẫu hạm của Đô đốc Spruance
tung ra đòn tấn công nhắm vào lực lượng đang rút lui của Nhật. Mikuma cuối
cùng bị đắm trong lúc Mogami chống cự các máy bay ném bom
thành công và tiếp tục trận đánh thêm một ngày nữa.
Mogami (最上? Tối
Thượng) là một tàu tuần dương hạng
nặng của Hải quân Đế quốc Nhật
Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc.
Mikuma (tiếng Nhật: 三隈) là một tàu tuần dương hạng
nặng của Hải quân Đế quốc Nhật
Bản, là chiếc thứ hai trong tổng số
bốn chiếc thuộc lớp Mogami.
Kết
cục
Một hình ảnh hiếm về một hàng không mẫu hạm
Nhật đang chìm, trong ảnh này là Hiryu.
Sau khi ghi được chiến thắng rõ ràng, lực lượng Hoa Kỳ rút lui.
Việc Nhật Bản mất 4 hàng không mẫu hạm (Kaga, Akagi, Soryu,
và Hiryu) cùng một số lớn các tổ lái được huấn luyện kỹ lưỡng đã
chặn đứng sự bành trướng của họ trên vùng Thái Bình Dương. Chỉ còn 2 hàng không
mẫu hạm là Zuikaku và Shokaku có thể huy động
cho các hoạt động tấn công. Các mẫu hạm còn lại là Ryūjō, Junyo và Hiyo đều
là mẫu hạm nhẹ với đường băng nhỏ, chúng khó có khả năng sống sót như các hàng
không mẫu hạm. Thất bại nặng nề của người Nhật xảy ra sau nửa năm khai chiến
với Hoa Kỳ. Khoảng thời gian này là gần như chính xác với dự đoán của Đô đốc Yamamoto
Isoroku về quãng thời gian nước Nhật có ưu thế trước khi người Mỹ
giành quyền chủ động.
Với Hải quân Hoa Kỳ bây giờ đủ lực lượng áp đảo đối phương trong
phương diện về hàng không mẫu hạm và đang vươn móng vuốt của nó về phía trước,
Hoa Kỳ bắt đầu có thể vào thế công kích lần đầu tiên trong cuộc chiến. Sau đó
không lâu Hoa Kỳ xâm chiếm Guadalcanal, mở
đầu cuộc chiến quần thảo hao mòn tại Quần đảo Solomon và cuối cùng đánh tan hải
quân và các đơn vị không quân thiện chiến của Nhật.
Guadalcanal (indigenous name: Isatabu)
is the principal island in Guadalcanal Province of the nation of Solomon Islands, located
in the south-western
Pacific, northeast of Australia.
Solomon Islands is a sovereign country consisting
of six major islands and over 900 smaller islands in Oceania lying to the east
of Papua New Guinea and northwest of Vanuatu and covering a land area of 28,400 square kilometres
(11,000 sq mi).
Ảnh
hưởng của cuộc chiến
Đánh giá ảnh hưởng của cuộc chiến đòi hỏi phân tích thật cẩn
trọng. Mặc dù trận Midway thường được gọi là một thắng lợi quyết định của Hoa Kỳ, "bước
ngoặt của chiến trường Thái Bình Dương"', rõ ràng là Hoa Kỳ chưa thể thắng
cuộc chiến Thái Bình Dương trong vòng một đêm. Hải quân Nhật Bản tiếp tục chiến
đấu gan lì, và phải mất nhiều tháng trước khi Hoa Kỳ xoay trở từ trạng thái cân
bằng hải lực sang trạng thái chiếm ưu thế. Cho dù không có sự khác biệt to lớn
về lực lượng giữa hai bên tham chiến, đặt giả thiết là Hoa Kỳ đã thua trận
chiến này, Nhật Bản cuối cùng vẫn sẽ thua Hoa Kỳ trên mặt trận Thái Bình Dương.
Như thế, Midway không phải là trận chiến "quyết định" trong
cùng ý nghĩa như trận
Salamis hay trận Trafalgar. Tuy nhiên, chiến thắng ở
Midway đưa Hoa Kỳ vào thế chủ động, gây thiệt hại nặng cho lực lượng Nhật khiến
nó không thể hồi phục lại được và rút ngắn chiến cuộc tại Thái Bình Dương.
Chỉ hai tháng sau trận Midway, nhận ra sự bất ổn của phía Nhật,
người Mỹ tấn công Guadalcanal; nếu không có thắng lợi ở
Midway, người Mỹ không thể sớm tấn công như thế hoặc có thì cũng không thành
công như đã đạt được ở Guadalcanal. Bảo đảm được tuyến hậu cần đi tới Úc và Ấn
Độ Dương trong thời gian đó, cùng với việc tiêu hao lực lượng Nhật trong chiến
dịch Guadalcanal, đã có những ảnh hưởng sâu rộng đến tiến trình chiến tranh.
Tác động của việc này đến rút ngắn thời gian cuộc chiến thì vẫn còn bàn cãi,
mặc dù lực lượng tàu ngầm của Hạm đội Thái Bình Dương đã khiến nền kinh tế Nhật
Bản đi đến chỗ đình trệ vào tháng 1 năm 1945.
Trong khi trận Midway chưa chứng tỏ là không quân của Hải quân
Nhật hoàn toàn bị tiêu diệt, nó lại là một đòn chí tử. Chương trình huấn luyện
phi công của Nhật trước chiến tranh đào tạo ra các phi công với phẩm chất rất
cao nhưng với số lượng ít. Nhóm nhỏ các phi công tài giỏi này là những chiến
binh dày dạn trong chiến đấu. Tại Midway, Nhật Bản mất rất nhiều các phi công
thiện chiến chỉ trong một ngày mà chương trình huấn luyện đào tạo trong một
năm. Trong các trận chiến sau này quanh Guadalcanal vào
cuối năm 1942 như trận Đông Solomons và trận Santa Cruz không
quân của Hải quân Nhật không gượng dậy được bởi bị tiêu hao cho dù tổn thất của
hai bên là khá tương đương. Các nhà hoạch định chiến lược của Nhật đã sai lầm
trong dự đoán một cuộc chiến tranh lâu dài và không ngừng nghỉ. Kết quả là nước
Nhật đã không bổ sung, bù đắp đủ cho những thiệt hại về tàu bè, phi công và
thủy thủ. Mặc dù chương trình huấn luyện của Nhật trong chiến tranh có đào tạo
phi công nhưng họ không được huấn luyện thích đáng khi chiến tranh tiếp diễn,
và sự mất cân đối này trở nên tồi tệ hơn khi các máy bay chiến đấu thế hệ sau
của Hoa Kỳ tỏ rõ ưu việt trước máy bay của Nhật Bản. Khoảng giữa năm 1943,
những thiệt hại ở Midway và quần đảo Solomons đã làm kiệt quệ lực lượng không
quân của hạm đội Nhật. Tệ hơn nữa, thói quen của quân đội Nhật là vẫn giữ các
phi công điêu luyện ở lại chiến đấu đã làm suy yếu năng lực huấn luyện đội ngũ
phi công mới. Trái lại, Hải quân Mỹ điều các phi công xuất sắc của họ trở về
các căn cứ huấn luyện để truyền thụ, nhân rộng các kỹ năng đánh bại người Nhật
Sự hủy hoại 4 hàng không mẫu hạm của hạm đội Nhật Bản là một tổn
thất không thể thay thế được. Nước Nhật đã không thể bổ sung đủ 4 chiếc khác
mãi cho đến đầu năm 1945[12]. Trong
khoảng thời gian đó, Hải quân Hoa Kỳ đã cho vào phục vụ hàng chục mẫu hạm hạng
nặng và hạng nhẹ cùng vô số mẫu hạm hộ tống. Như vậy, Midway đã gây thiệt hại
lâu dài cho lực lượng tấn công của Hải quân Nhật Bản, và rút ngắn khoảng thời
gian mà lực lượng hải quân Nhật có thể chiến đấu trong những điều kiện có lợi.
Việc mất năng lực chiến đấu ở giai đoạn sống còn này là một tai họa cho Đế quốc
Nhật Bản. Họ đã có thể tiến hành những chiến dịch quy mô hơn và có lẽ là thành
công hơn, để chống lại những chiến dịch phản công của Hoa Kỳ.
Tàu tuần dương Mikuma ngay
trước khi chìm.
Tầm quan trọng của trận Midway cũng có thể được đánh giá bằng
cách nghiên cứu ngược lại thực tế rằng các mẫu hạm của Hoa Kỳ bị tiêu diệt, dù
đây chỉ là chuyện giả thiết. Bằng phân tích thì thấy rõ là sự bại trận của Hoa
Kỳ tại Midway đã có thể kéo dài cuộc chiến tại Thái Bình Dương. Nó làm chậm sự
khởi đầu của chiến cuộc hao mòn toàn diện mà cần thiết như cách duy nhất để đem
cường quốc công nghiệp hóa hiện đại như Nhật Bản phải chịu quỳ dưới chân mình[cần dẫn nguồn].
Với chỉ 2 hàng không mẫu hạm còn khả năng chiến đấu (chiếc Saratogavà Wasp),
nước Mỹ buộc phải ở thế phòng ngự chiến lược cho đến cuối năm 1942. Người Nhật
có thể tiếp tục tiến đến New Hebrides (sát Úc) và cắt đứt liên hệ của Hoa Kỳ
với Úc, đồng thời hoàn tất việc xâm chiếm New Guinea. Hơn thế nữa, một thất bại
nặng nề ở Midway có thể dẫn đến việc cách chức những tướng lĩnh quan trọng như
Nimitz và Spruance. Các chiến dịch tấn công trên Thái Bình Dương sẽ bị trì hoãn
đến cuối năm 1943, khi các mẫu hạm thế hệ Essex và Independence có
mặt với số lượng thích đáng.
Cũng giả thiết như thế, nếu Hoa Kỳ thua trận, việc phân phối lại
những nguồn nhân lực và vật chất cho hải và không quân Hoa Kỳ có thể bị trì
hoãn trong các cuộc hành quân đổ bộ tại Bắc Phi, Địa Trung Hải, và có thể là Normandy. Một
cuộc chiến lâu hơn ở Thái Bình Dương cũng nêu lên câu hỏi về vai trò của Liên
Xô trong việc buộc Nhật đầu hàng, và không biết là sau đó Liên Xô có hiện diện
trên một nửa nước Nhật, giống như nước Đức sau
chiến tranh.
No comments:
Post a Comment